Andrey, Babenko và cs [8] nghiên cứu thuần
tập trên bệnh nhân đái tháo đường sơ sinh đã
cho thấy: đột biến KCNJ11 chủ yếu gây nên đái
tháo đường vĩnh viễn từ thời kỳ sơ sinh (12/13
trường hợp), trong khi đó đột biến ABCC8 thường
kết hợp với đái tháo đường sơ sinh tạm thời (7/9
trường hợp). Khi so sánh các biểu hiện lâm sàng
của bệnh nhân đái tháo đường sơ sinh do đột
biến KCNJ11 và đột biến ABCC8, không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về các biểu hiện
như tuổi chẩn đoán, cân nặng lúc sinh thấp, mức
độ tăng glucose máu và biểu hiện nhiễm toan
xê tôn. So với nghiên cứu của Andrey, nghiên
cứu của chúng tôi cũng cho thấy biểu hiện lâm
sàng và xét nghiệm ở bệnh nhân có đột biến
gen KCNJ11 và ABCC8 tương tự nhau. Tuy nhiên
trong 5 trường hợp đái tháo đường do đột biến
gen ABCC8, 3 trường hợp có biểu hiện hôn mê
nhiễm toan xê tôn, một trường hợp không có
biểu hiện nhiễm toan xê tôn, cả 5 trường hợp đều
đáp ứng tốt với insulin. Trong thời gian điều trị
bằng insulin tiêm, glucose máu đều được kiểm
soát tốt, HbA1C đều trong giới hạn bình thường.
Khi chuyển đổi phương pháp điều trị từ insulin
sang uống glibenclamide, thời gian chuyển đổi
cũng tương đối ngắn: chỉ mất 3-5 ngày và liều
điều trị glibenclamide cũng ở mức thấp. Nhưng
liệu 3 bệnh nhân này có thể dừng thuốc được hay
không thì vẫn cần phải tiếp tục theo dõi thêm.
Kết quả từ bảng 3.3 và bảng 3.4 cho thấy, 8/9
bệnh nhân của chúng tôi sau khi chuyển đổi sang
sulfonylurea đều có kết quả kiểm soát glucose
máu tốt, giảm được mức HbA1C và c-peptid
tăng lên. Nồng độ C-peptid tăng lên chứng tỏ
chức năng của tế bào beta phần nào được hồi
phục hoặc vẫn còn chức năng. Đặc biệt là bệnh
nhân thứ 2 với hội chứng DEND sau khi điều trị
sulfonylurea 5 tháng trẻ có biểu hiện cải thiện
vận động và ngôn ngữ: trẻ có thể ngồi được,
tập nói được từng từ. Những nghiên cứu trong
y văn cũng đã chỉ rõ bệnh nhân đái tháo đường
sơ sinh có đột biến gen KCNJ11 hoặc ABCC8 kèm
theo hội chứng DEND có thể đáp ứng với điều trị
glibenclamide [7]. Glibenclamide có thể cải thiện
triệu chứng đầu tiên là về vận động ở những bệnh
nhân có hội chứng DEND. Cần có nhiều nghiên
cứu lớn hơn để xác định liệu glibenclamide có
cải thiện được kỹ năng học tập cho bệnh nhân
hay không. Tuy nhiên điều quan trọng là phải
điều trị sớm. Những nghiên cứu này cũng chỉ rõ
sulfonylureas có thể qua được hàng rào máu não
với nồng độ có hiệu quả đặc biệt ở những bệnh
nhân có đột biến thuộc họ ABC.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị Sulfonylureas ở bệnh nhân đái đường sơ sinh do đột biến gen KCNJ11 và ABCC8, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
215
Tạp chí phụ sản - 12(2), 215-219, 2014
cấn Thị Bích ngọc(1), Vũ chí Dũng(1), Bùi phương Thảo(1), nguyễn ngọc Khánh(1), nguyễn phú Đạt(2), nguyễn Thị hoàn(1)
(1) Bệnh viện Nhi Trung ương, (2) Trường Đại học Y Hà Nội
Tác giả liên hệ (Corresponding author): Nguyễn Thị Hoàn, email: dungvu@nhp.org.vn
Ngày nhận bài (received): 15/04/2014. Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised): 06/05/2014. Ngày bài báo được chấp nhận đăng (accepted): 09/05/2014
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ SULFONYLUREAS Ở BỆNH NHÂN ĐÁI
ĐƯỜNG SƠ SINH DO ĐỘT BIẾN GEN KCNJ11 VÀ ABCC8
Tóm tắt
Đái tháo đường sơ sinh (ĐTĐSS) là tình trạng tăng
glucose máu trong 6 tháng đầu sau đẻ. Nguyên nhân
chủ yếu do đột biến gen KCNJ11 và ABCC8. Mục tiêu:
phát hiện đột biến gen KCNJ11 và ABCC8 ở bệnh nhân
ĐTĐSS và đánh giá kết quả điều trị bằng sulfonylurea
uống trên 11 bệnh nhân ĐTĐSS đang điều trị tại Bệnh
viện Nhi Trung ương, được phân tích gen KCNJ11 và
ABCC8. Đây là nghiên cứu mô tả một loạt ca bệnh: thu
thập các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng. ADN được
chiết tách từ bạch cầu lympho máu ngoại vi, sử dụng kỹ
thuật PCR để nhân đoạn gen, giải trình tự gen KCNJ11 và
ABCC8. Kết quả thu được 6 bệnh nhân đột biến KCNJ11,
5 bệnh nhân đột biến ABCC8; Trong đó 9/11 đáp ứng với
điều trị sulfonylurea, không phải tiêm insulin, 1 đang
trong quá trình chuyển đổi, 1 mang đột biến mới đang
tiêm insulin.Từ đó, chúng tôi nhận thấy việc xác định gen
gây bệnh trong ĐTĐSS có ý nghĩa quan trọng trong việc
lựa chọn phương pháp điều trị và tiên lượng bệnh. Từ
khóa: đái tháo đường sơ sinh, đột biến gen ABCC8, đột
biến gen KCNJ1.
Abstract
THE RESULT OF TREATMENT IN PATIENTS WITH
NEONATAL DIABETES MELLITUS DUE TO KCNJ11/
ABCC8 GENE MUTATIONS
Neonatal diabetes mellitus (NDM) may be defined as
hyperglycemia diagnosed within the first 6 months of life.
They can result from some gene mutations such as KCNJ11,
ABCC8, INS, GCK, In there, the most common cause of
neonatal diabetes mellitus is associated with activating
mutations in the KCNJ11 gene and ABCC8 located on
chromosom 11. We carry out this study to determine gene
mutation of KCNJ11 and ABCC8 in patients with NDM;
assess the results of oral sulfonylureas therapy replacing
insulin injection. The patients include of 11 NDM patients
with ABCC8 or KCNJ11 mutations who are treated in
National Hospital of Pediatrics. This is a case series study,
collect the symtoms and investigation, DNA was extracted
from lymphocyte and analysed gene mutation by PCR
or sequencing of KCNJ11, ABCC8. The results include
of 6 patients with KCNJ11 mutation, 5 patients with
ABCC8 mutations. 9/11 patients successfully transferred
to sulfonylureas and did not need insulin injections, 1
patient is in schitching progress and 1 patient with novel
mutation is treating with insulin. Therefore, we found that
it is important for patients with NDM to analysis mutaions
for chosing a suitable therapy and progress. Key words:
neonatal diabetes mellitus, ABCC8 gene mutations,
KCNJ11 gene mutations.
1. Đặt vấn đề
Đái tháo đường sơ sinh (ĐTĐSS) là tình trạng tăng
glucose máu trong 6 tháng đầu sau đẻ, hiếm gặp với
tỷ lệ 1/215000 – 1/500000 trẻ sơ sinh đẻ sống [1] và
khoảng 50% biểu hiện bệnh trong 4 tuần đầu sau
đẻ. Bệnh có thể là tạm thời đôi khi tái phát hoặc vĩnh
viễn suốt đời.
Nguyên nhân của ĐTĐSS là di truyền không
đồng nhất, hoạt động bài tiết không bình thường
dẫn đến mất chức năng của tuyến tụy hay đảo tụy,
giảm số lượng tế bào beta thứ phát, tăng phá huỷ tế
bào beta, rối loạn chức năng tế bào beta và làm hạn
chế bài tiết insulin.
Nguyên nhân phổ biến của ĐTĐSS là do đột biến
gen KCNJ11, ABCC8 và INS [2]. Hai gen này có chức
năng mã hóa cho các protein nhạy cảm với ATP là Kir
6.2 và SUR1, cấu trúc của kênh KATP trên màng tế bào
beta của tụy. Kênh KATP có vai trò quan trọng trong
việc bài tiết insulin. Khi glucose máu thấp, sự phân hủy
glucose ở tế bào beta giảm do glucose vào trong tế
bào ít, và tỷ lệ ATP/ADP trong tế bào thấp làm kênh
KATP ở màng tế bào beta vẫn mở, cho phép ion kali qua
màng tế bào tự do trong khi ion natri thì không qua
màng, do đó tạo ra sự đối nghịch gradient nồng độ
giữa trong và ngoài màng tế bào dẫn đến phía trong
màng tế bào mang điện tích âm. Điện thế âm của
màng tế bào làm cho cổng kênh canxi ở màng tế bào
đóng canxi không vào được trong tế bào và kết quả là
nồng độ canxi trong tế bào thấp, vì vậy insulin không
được bài tiết từ tế bào beta. Ngược lại, khi glucose máu
cấn Thị Bích ngọc, Vũ chí Dũng, Bùi phương Thảo, nguyễn ngọc Khánh, nguyễn phú ĐạT, nguyễn Thị hoàn
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
216
Sơ Sinh - nhi
cao sẽ làm đóng kênh KATP và làm mở kênh canxi trên
màng tế bào beta, ion canxi tràn vào trong tế bào và
kích thích bài tiết insulin từ những túi nhỏ dự trữ trong
tế bào. Khi đột biến gen ABCC8 hoặc KCNJ11 sẽ dẫn
đến rối loạn hoặc mất chức năng của kênh KATP. Khi
đó, kênh không đóng và sự kích thích bài tiết insulin
của glucose không xảy ra. Do đó đột biến KCNJ11 và
ABCC8 có thể gây đái tháo đường. Bệnh nhân có thể
biểu hiện nhiễm toan xê ton hoặc tăng glucose máu
và phải điều trị bằng insulin.
Thông thường, trong những trường hợp này,
insulin là lựa chọn đầu tiên để kiểm soát glucose máu.
Tuy nhiên việc xác định ra đột biến KCNJ11 và ABCC8
ở bệnh nhân ĐTĐSS đã làm thay đổi chiến lược điều
trị. ĐTĐSS do hai đột biến này là hậu quả của việc hoạt
động quá mức của kênh KATP. Việc đóng những kênh
này là yếu tố then chốt để bài tiết insulin. Trong khi đó
sulfonylureas là một nhóm thuốc điều trị ĐTĐ typ 2 có
tác dụng đóng kênh KATP bằng ATP theo đường độc lập,
do đó kích thích bài tiết insulin làm giảm glucose máu.
Điều này gợi ý rằng sulfonylureas có thể điều trị cho
bệnh nhân ĐTĐ do đột biến KCNJ11 và hoặc ABCC8. Vì
vậy có tác dụng điều trị thay thế insulin. Chính vì vậy
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu:
1. Xác định đột biến gen KCNJ11 và ABCC8 ở những
bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị đái tháo đường
sơ sinh tại Bệnh viện Nhi Trung ương
2. Đánh giá kết quả điều trị những bệnh nhân có đột
biến gen KCNJ11 và hoặc ABCC8 bằng sulfonylurea.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1 Đối tượng: 11/21 bệnh nhân được chẩn đoán
ĐTĐ trong 6 tháng đầu sau đẻ, đang điều trị ngoại trú
hoặc nội trú bằng tiêm insulin dưới da tại khoa Nội tiết
– Chuyển hóa – Di truyền, Bệnh viện Nhi Trung ương.
Tiêu chuẩn lựa chọn:
+ Glucose máu > 150 – 200 mg/dl (> 8,3 – 11,1
mmol/l) dai dẳng, xuất hiện ở trẻ dưới 6 tháng tuổi,
phải điều trị bằng insulin [2].
+ Bệnh nhân có đột biến gen ABCC8 và hoặc
KCNJ11
2.2 Phương pháp: mô tả một loạt ca bệnh:
Các thông tin lâm sàng được thu thập: tiền sử sản
khoa, cân nặng lúc sinh các triệu chứng lâm sàng, các
xét nghiệm: glucose máu, HbA1C, C-peptid, khí máu,
xê tôn niệu, điện giải đồ giúp chẩn đoán xác định bệnh
đái tháo đường và tình trạng bệnh
ADN của bệnh nhân và bố mẹ được chiết tách
theo quy trình chuẩn từ bạch cầu lympho máu ngoại
vi, được gửi đi Anh làm xét nghiệm phân tích gen tại
Phòng xét nghiệm di truyền phân tử, Đại học Y, Đại học
Exeter theo phương pháp PCR hoặc sequencing đối
với các gen KCNJ11, ABCC8, INS và nhiễm sắc thể 6q24.
Những bệnh nhân có đột biến gen ABCC8 và hoặc
KCNJ11 được điều trị theo phương pháp chuyển đổi từ
insulin tiêm dưới da sang uống sulfonylurea [3]
2.3 Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến
hành có sự đồng ý của gia đình bệnh nhân, Khoa Nội
tiết – Chuyển hóa – Di truyền, Bệnh viện Nhi Trung
ương. Các xét nghiệm là cần thiết để chẩn đoán bệnh,
đơn giản, ít gây đau đớn, an toàn cho bệnh nhân. Việc
phân tích gen sẽ giúp cho việc chẩn đoán và điều trị
thích hợp: bệnh nhân có đột biến ABCC8, KCNJ11
sẽ được chuyển đổi từ thuốc tiêm insulin sang uống
sulfonylureas sẽ làm giảm đau đớn cho bệnh nhân,
giảm phiền hà cho gia đình người bệnh và giảm chi
phí điều trị. Mọi thông tin về bệnh nhân và gia đình
được đảm bảo giữ bí mật
3. Kết quả
3.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân
Nhận xét: 9/11 bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo
đường ở độ tuổi dưới 2 tháng, 8/11 bệnh nhân có cân
nặng lúc sinh thấp.
3.2. Đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm ở thời
điểm chẩn đoán
Đặc điểm Tuổi chẩn đoán (ngày) giới Tuổi thai (tuần) Trọng lượng lúc sinh (g)
Bệnh nhân 1
Bệnh nhân 2
Bệnh nhân 3
Bệnh nhân 4
Bệnh nhân 5
Bệnh nhân 6
Bệnh nhân 7
Bệnh nhân 8
Bệnh nhân 9
Bệnh nhân 10
Bệnh nhân 11
Trung bình
45
35
47
36
44
160
7
15
96
45
52
52,9 ±42
nữ
nữ
nam
nam
nam
nam
nam
nữ
nữ
nam
nữ
5 nữ: 6 nam
40
40
40
40
40
40
37,5
40
39,5
36
39,5
39,3± 1,3
3000
2600
2500
2600
3500
3600
2300
2500
2500
2300
2500
2718,2± 451,2
Bảng 3.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân
Đặc điểm Lâm sàng glucose máu hbA1c
Bệnh nhân 1
Bệnh nhân 2
Bệnh nhân 3
Bệnh nhân 4
Bệnh nhân 5
Bệnh nhân 6
Bệnh nhân 7
Bệnh nhân 8
Bệnh nhân 9
Bệnh nhân 10
Bệnh nhân 11
hôn mê nhiễm toan xê tôn
hôn mê nhiễm toan xê tôn
Bú nhiều đái nhiều, nước tiểu có kiến bâu, nếm ngọt
hôn mê nhiễm toan xê tôn
hôn mê nhiễm toan xê tôn
hôn mê nhiễm toan xê tôn
hôn mê nhiễm toan xê tôn
sốt, đái nhiều, bú nhiều, mất nước
hôn mê nhiễm toan xê tôn
co giật
hôn mê nhiễm toan xê tôn
33.0
31.2
28
30.9
Rất cao
37.2
26
22,4
47,7
39,3
43,1
9.7
8.4
9.0
10.3
13.7
5,4
3,5
6,7
6,0
5,1
Bảng 3.2. Đặc điểm lâm sàng và xét nghiệm khi được chẩn đoán
Nhận xét: 8/11 bệnh nhân có biểu hiện nhiễm toan
xê tôn khi được chẩn đoán
3.3. Kết quả phân tích gen
Nhận xét: 6 bệnh nhân có đột biến KCNJ11, 5 bệnh
nhân có đột biến ABCC8
3.4. Đặc điểm bệnh nhân khi chuyển đổi phương
pháp điều trị
Nhận xét: 6/9 bệnh nhân có nồng độ C-peptid
thấp, 3/9 bệnh nhân kiểm soát glucose máu chưa tốt.
3.5. Kết quả chuyển đổi phương pháp điều trị
Nhận xét: sau khi chuyển đổi phương pháp điều
trị từ insulin tiêm sang uống sulfonylurea, 8/9 bệnh
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
217
Tạp chí phụ sản - 12(2), 215-219, 2014
Bảng 3.3. Kết quả phân tích gen
Bảng 3.4. Tình trạng bệnh nhân khi chuyển đổi điều trị từ insulin sang sulfonylurea
Bảng 3.5. Kết quả chuyển đổi phương pháp điều trị từ insulin sang sulfonylurea
nhân đều đạt mức kiểm soát glucose máu tốt, HbA1C
và C-peptid trong giới hạn bình thường.
4. Bàn luận
Trong 21 bệnh nhân được gửi bệnh phẩm đi
Anh làm xét nghiệm phân tích gen, có 17 bệnh
nhân có đột biến gen, trong đó có 11 bệnh nhân
có đột biến gen ABCC8 hoặc KCNJ11, hai bệnh
nhân có đột biến gen INS phải điều trị insulin suốt
đời, ba bệnh nhân đái tháo đường sơ sinh tạm
thời. Trong số 5 bệnh nhân có đột biến gen ABCC8
và 6 bệnh nhân có đột biến gen KCNJ11 thì có 9
bệnh nhân được điều trị chuyển đổi thành công từ
insulin tiêm sang uống glibenclamide, một bệnh
nhân đang trong quá trình chuyển đổi thuốc, một
bệnh nhân mang đột biến mới, đột biến này chưa
được báo cáo trong y văn.
Kết quả từ bảng 3.1 cho thấy 8/11 bệnh nhân
có biểu hiện chậm phát triển trong tử cung thể
hiện qua cân nặng lúc sinh thấp. Cũng giống như
y văn đã mô tả, đây là một trong những biểu hiện
đặc trưng của đái tháo đường sơ sinh. Điều này đã
được khẳng định trong nhiều nghiên cứu ở nhiều
chủng tộc, dân tộc khác nhau: Flagan và cs [4]
nghiên cứu thuần tập trên 97 bệnh nhân đái tháo
đường sơ sinh, Flagan và cs [5] nghiên cứu trên 37
trường hợp đái tháo đường sơ sinh do đột biến
gen KCNJ11. Trong bào thai, insulin hoạt động
như một yếu tố tăng trưởng [6-8] khi có sự suy
giảm insulin của mẹ qua hàng rào rau thai hoặc
giảm nhạy cảm với insulin như trong đột biến với
cấn Thị Bích ngọc, Vũ chí Dũng, Bùi phương Thảo, nguyễn ngọc Khánh, nguyễn phú ĐạT, nguyễn Thị hoàn
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
218
Sơ Sinh - nhi
KCNJ11 sẽ gây nên chậm phát triển cho bào thai
[7]. Gloyn và cs [7] nghiên cứu trên 29 trường hợp
đái tháo đường sơ sinh do đột biến gen KCNJ11,
58% có biểu hiện cân nặng lúc sinh thấp dưới 3
bách phân vị. Babenko và cs [8] mô tả 7 trường
hợp đái tháo đường sơ sinh có đột biến ABCC8, cả
7 trường hợp đều có cân nặng lúc sinh thấp.
Gloyn và cs [7] lần đầu tiên đã báo cáo về
6 đột biến dị hợp tử và đột biến missense trên
gen KCNJ11 ở 29 bệnh nhân có đái tháo đường
sơ sinh (V59G/M, Q52R, R201C/H, và I296L), tuổi
chẩn đoán trung bình là 7 tuần tuổi, nồng độ
C-peptide < 200 pmol/l, 3 bệnh nhân có biểu
hiện nhiễm toan ceton. Trong 11 bệnh nhân
của chúng tôi có 3 bệnh nhân có đột biến giống
như Glyon mô tả, đó là bệnh nhân 1, 2 và 7 có
đột biến R201H và R201C trên gen KCNJ11(bảng
3.3). Cả hai bệnh nhân này đều có biểu hiện lâm
sàng và xét nghiệm tương tự: biểu hiện bệnh
trước 7 tuần tuổi (45, 35 và 7 ngày tương ứng),
nhập viện trong tình trạng nhiễm toan ceton,
nồng độ c-peptid < 200 pmol/l. Riêng bệnh nhân
2 có kèm theo biểu hiện thần kinh (hội chứng
DEND: Delayed Development, Epilepsy, Neonatal
Diabetes): chậm phát triển tinh thần vận động,
bại não và đái tháo đường sơ sinh. KCNJ11 có mặt
ở nhiều mô bao gồm tế bào tiểu đảo tụy, tế bào
thần kinh, tế bào cơ vân. Kênh KATP góp phần vào
điện thế màng làm tăng có mức độ khả năng xuất
hiện điện thế để hạn chế ngưỡng của điện thế
hoạt động. Khi đột biến KCNJ11, kênh này có giá
trị kích thích mạng lưới điện thế rộng hơn tạo ra
dòng điện phân cực cao cần thiết để khử sự đốt
cháy của nơ ron. Vì vậy tạo ra các triệu chứng của
hội chứng DEND.
Andrey, Babenko và cs [8] nghiên cứu thuần
tập trên bệnh nhân đái tháo đường sơ sinh đã
cho thấy: đột biến KCNJ11 chủ yếu gây nên đái
tháo đường vĩnh viễn từ thời kỳ sơ sinh (12/13
trường hợp), trong khi đó đột biến ABCC8 thường
kết hợp với đái tháo đường sơ sinh tạm thời (7/9
trường hợp). Khi so sánh các biểu hiện lâm sàng
của bệnh nhân đái tháo đường sơ sinh do đột
biến KCNJ11 và đột biến ABCC8, không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về các biểu hiện
như tuổi chẩn đoán, cân nặng lúc sinh thấp, mức
độ tăng glucose máu và biểu hiện nhiễm toan
xê tôn. So với nghiên cứu của Andrey, nghiên
cứu của chúng tôi cũng cho thấy biểu hiện lâm
sàng và xét nghiệm ở bệnh nhân có đột biến
gen KCNJ11 và ABCC8 tương tự nhau. Tuy nhiên
trong 5 trường hợp đái tháo đường do đột biến
gen ABCC8, 3 trường hợp có biểu hiện hôn mê
nhiễm toan xê tôn, một trường hợp không có
biểu hiện nhiễm toan xê tôn, cả 5 trường hợp đều
đáp ứng tốt với insulin. Trong thời gian điều trị
bằng insulin tiêm, glucose máu đều được kiểm
soát tốt, HbA1C đều trong giới hạn bình thường.
Khi chuyển đổi phương pháp điều trị từ insulin
sang uống glibenclamide, thời gian chuyển đổi
cũng tương đối ngắn: chỉ mất 3-5 ngày và liều
điều trị glibenclamide cũng ở mức thấp. Nhưng
liệu 3 bệnh nhân này có thể dừng thuốc được hay
không thì vẫn cần phải tiếp tục theo dõi thêm.
Kết quả từ bảng 3.3 và bảng 3.4 cho thấy, 8/9
bệnh nhân của chúng tôi sau khi chuyển đổi sang
sulfonylurea đều có kết quả kiểm soát glucose
máu tốt, giảm được mức HbA1C và c-peptid
tăng lên. Nồng độ C-peptid tăng lên chứng tỏ
chức năng của tế bào beta phần nào được hồi
phục hoặc vẫn còn chức năng. Đặc biệt là bệnh
nhân thứ 2 với hội chứng DEND sau khi điều trị
sulfonylurea 5 tháng trẻ có biểu hiện cải thiện
vận động và ngôn ngữ: trẻ có thể ngồi được,
tập nói được từng từ. Những nghiên cứu trong
y văn cũng đã chỉ rõ bệnh nhân đái tháo đường
sơ sinh có đột biến gen KCNJ11 hoặc ABCC8 kèm
theo hội chứng DEND có thể đáp ứng với điều trị
glibenclamide [7]. Glibenclamide có thể cải thiện
triệu chứng đầu tiên là về vận động ở những bệnh
nhân có hội chứng DEND. Cần có nhiều nghiên
cứu lớn hơn để xác định liệu glibenclamide có
cải thiện được kỹ năng học tập cho bệnh nhân
hay không. Tuy nhiên điều quan trọng là phải
điều trị sớm. Những nghiên cứu này cũng chỉ rõ
sulfonylureas có thể qua được hàng rào máu não
với nồng độ có hiệu quả đặc biệt ở những bệnh
nhân có đột biến thuộc họ ABC.
5. Kết luận
Đái tháo đường do đột biến gen ABCC8 và
KCNJ11 được phát hiện ở 11 bệnh nhân đái tháo
đường sơ sinh, 9/11 bệnh nhân đều được điều trị
thành công với sulfonylurea đường uống thay thế
cho insulin tiêm dưới da.
Cần phải phân tích gen cho những bệnh nhân
đái tháo đường xuất hiện trong 6 tháng đầu sau đẻ
để lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp nhằm
hạn chế những biến chứng trong điều trị, giảm
gánh nặng tài chính cho bệnh nhân và gia đình.
Tập 12, số 02
Tháng 5-2014
Tạp chí Phụ Sản
219
Tạp chí phụ sản - 12(2), 215-219, 2014
Tài liệu tham khảo
1. Edghill EL, Flagan SE, et al. Insulin mutation screening
in 1,044 patients with diabetes: mutation in the INS gene are
a common causeof neonatal diabetes but a rare cause of
diabetes diagnosein chilhood or adulthood. 2008; Diabetes
57: 1034-1042.
2. Diva D De León et al. Permanent Neonatal Diabetes
Mellitus. GeneReview.com. 2008;
3. Ewan R. Pearson, Flechtner I, Njolstad P. R, et al.
Switching from insulin to oral sulfonylureas in patients
with diabetes due to Kir6.2 mutations, New England Journal
of Medicine. 2006; 355: 467-477.
4. Flanagan SE, Patch AM, Mackay DJ, et al. Mutations in
ATP-sensitive K_ channel genes cause transient neonatal
diabetes and permanent diabetes in childhood or adulthood.
2007; Diabetes 56:1930–1937.
5. Flanagan SE, Edghill EL, Gloyn AL, et al. Mutations
in KCNJ11, which encodes Kir6.2, are a common cause of
diabetes diagnosed in the first 6 months of life, with the
phenotype determined by genotype. 2006; Diabetologia
49:1190–1197.
6. Kalhan SC, Schwartz R, Adam PA. Placental barrier to
human insulin-I125 in insulin-dependent diabetic mothers. J
Clin Endocrinol Metab. 1975; 40:139–142
7. Lydia Aguilar- Bryan, Joseph Bryan. Neonatal Diabetes
Mellitus. Endocrine Review . 2008; 29[3]: 265-291.
8. Babenko, Andrey P et al. Activating Mutation in the
ABCC8 Gene in Neonatal Diabetes Mellitus. N Engl Med
2006; 355: 456-66.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_dieu_tri_sulfonylureas_o_benh_nhan_dai_duong_so_sinh.pdf