Kết quả điều trị u miền lây ở trẻ em bằng kem Imiquimod 5%

Qua nghiên cứu nhận thấy, đa số bệnh nhân không gặp các tác dụng phụ gì chiếm 34%, một số bệnh nhân có biểu hiện tại chỗ như 28,3% số bệnh nhân có biểu hiện nổi ban đỏ tại chỗ, 24,5% bệnh nhân thấy ngứa nhẹ, 11,3% bệnh nhân có cảm giác bỏng rát tại chỗ, chỉ có 1,9% bệnh nhân bị loét nhưng không để lại dát tăng hay giảm sắc tố và các triệu chứng này thường mất sau thời gian điều trị. Tác dụng phụ thường gặp trên da là kích ứng tại chỗ từ nhẹ đến trung bình thấy ở tất cả các bệnh nhân điều trị nhưng cũng không có bất kỳ tác dụng phụ toàn thân nào. Tỷ lệ của chúng tôi có thể thấp hơn so với các nghiên cứu trước đó vì có thể hầu hết các bệnh nhân của chúng tối đều được cảnh báo về tác dụng phụ của bôi imiquimod 5% tại chỗ trước đó nên hầu hết các bệnh nhân không thấy có vấn đề gì sau khi bôi thuốc [10], [11] [18]. Khi so sánh tác dụng phụ của imiquimod với các loại thuốc bôi miễn dịch tại chỗ khác như sinecatechins, hay podophylotoxin chúng tôi nhận thấy một điều gần như tất cả các thuốc bôi miễn dịch đều gây các tác dụng phụ tại chỗ. Nó phụ thuộc nhiều vào vị trí và diện tích bôi tại chỗ, mà điều này cần sự tư vấn và hướng dẫn bôi thuốc cẩn thận từ các y bác sỹ. Khi hướng dẫn các bệnh nhân thực hiện quá trình bôi thuốc, chúng tôi khuyến cáo các bệnh nhân chỉ bôi một lượng vừa đủ, và bôi gọn vào tổn thương, không để thuốc lan ra vùng ra xung quanh, nếu lan ra vùng da lành khác, thuốc cần được rửa sạch ngay. Tuy nhiên khi thực hiện, một số bệnh nhân dùng thuốc trên diện rộng hơn thương tổn, với lượng thuốc nhiều hơn vì mong muốn nhanh khỏi bệnh nên có thể gặp một số phản ứng như mô tả.

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả điều trị u miền lây ở trẻ em bằng kem Imiquimod 5%, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC (78 ,(87580(0/ 75( (0%1(0 ,0,8,02 Nguyễn Thị Thanh Thùy*, Trần Lan Anh* TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả điều trị u mềm lây ở trẻ em trên 6 tuổi bằng kem imiquimod 5% tại bệnh viện Da Liễu Trung Ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu so sánh hiệu quả trước - sau điều trị bệnh u mềm lây bằng bôi Imiquimod 5% 3 lần cho trẻ từ 6 tuổi trở lên tại bệnh viện Da Liễu Trung Ương từ tháng 8/2017 đến tháng 8/2018. Kết quả: 53 bệnh nhân từ 6 đến 12 tuổi được điều trị bằng bôi Imiquimod 5% bôi 3 lần/ tuần trong 12 tuần điều trị. Trong số 53 bệnh nhân tham gia điều trị, có 28 bệnh nhân nam, 25 bệnh nhân nữ. Trong đó bệnh nhân ở mức độ trung bình và nặng chiếm 66% và 24,5% tương ứng, chỉ có 5/53 bệnh nhân mức độ nhẹ. Sau 12 tuần điều trị có 86,8% bệnh nhân sạch hoàn toàn tổn thương và tỷ lệ khỏi tăng dần theo thời gian điều trị. Tác dụng phụ gặp nhiều nhất nổi ban đỏ tại chỗ chiếm 28,3%, bỏng rát chiếm 11,3%, ngứa nhẹ chiếm 24,5%, loét 1,9%. Không có bất kỳ tác dụng phụ toàn thân nào liên quan đến thuốc trong thời gian theo dõi điều trị. Kết luận: Imiquimod 5% là thuốc có hiệu quả và an toàn trong điều trị u mềm lây ở trẻ em. Từ khóa: u mềm lây, u mềm lây ở trẻ em, Imiquimod. * Bệnh viện Da liễu Trung Ương 1. ĐẶT VẤN ĐỀ U mềm lây là bệnh nhiễm khuẩn da lành tính thường gặp ở trẻ em. Bệnh được đặc trưng trên lâm sàng là các sẩn nhỏ, hình tròn, bóng, có thể lõm giữa. Bệnh do siêu vi trùng có tên khoa học là Molluscum contagiosum virus (MCV) thuộc nhóm Poxvirus gây nên [1]. Bệnh hay gặp ở trẻ em đặc biệt là lứa tuổi bắt đầu đến trường, kể cả ở trẻ khỏe mạnh cũng như trẻ suy giảm miễn dịch. Bệnh phổ biến ở khắp nơi trên thế giới, nhưng thường hay gặp nhiều hơn ở vùng có khí hậu nhiệt đới với tỷ lệ trẻ em nhiễm vi rút có thể lên tới 20%. Theo thống kê trên toàn thế giới, năm 2010 có khoảng 122 triệu người bị ảnh hưởng bởi u mềm lây (1,8% dân số thế giới), trung bình tỷ lệ mắc u mềm lây trên toàn thế giới là 2-8% dân số [2]. Phương thức lây truyền chủ yếu là do tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp qua các dụng cụ, tắm cùng bể tắm, dùng khăn chung. Đây là bệnh tiến triển lành tính. Một số trường hợp bệnh nhân bị nhẹ, có thể tự khỏi nhưng khi thương tổn lan tỏa sẽ ảnh hưởng đến toàn thân. DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC Có nhiều phương pháp điều trị u mềm lây như nạo bỏ thương tổn bằng curette, áp lạnh bằng ni tơ lỏng, đốt điện, sử dụng các loại laser hoặc dùng các hoá chất như Kem imiquimod, acid Trichloracetic, cantharidin [3], [4], [5]. Tại Bệnh viện Da liễu Trung ương, phần lớn các BN được điều trị bằng nạo bỏ thương tổn. Phương pháp này có ưu điểm là cho kết quả nhanh nhưng thường gây chảy máu nhiều, nhất là những thương tổn có kích thước lớn. Đặc biệt ở trẻ em thường làm cho các cháu sợ hãi, sang chấn về tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Tìm ra biện pháp điều trị với hiệu quả cao, dễ thực hiện, không ảnh hưởng đến tâm lý người bệnh là mục tiêu của nhiều nghiên cứu. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu cho thấy điều trị u mềm lây bằng dung dịch (Dd) KOH và kem imiquimod cho kết quả tốt [6], [7], [8]. Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả điều trị u mềm lây bằng bôi kem imiquimod. Do vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này để đánh giá hiệu quả và tính an toàn của imiquimod 5% trong điều trị u mềm lây ở trẻ em. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: là trẻ em từ 6 tuổi trở lên, được chẩn đoán u mềm lây, đến khám và điều trị tại bệnh viện Da Liễu Trung Ương từ tháng 8/2017 đến tháng 8/2018 Tiêu chuẩn chẩn đoán: chủ yếu dựa vào lâm sàng - Sẩn hình tròn, bề mặt nhẵn, bóng, trên nền da lành, kích thước 1-5mm, một số tổn thương hơi lõm giữa - Màu da bình thường hoặc màu hồng nhạt - Có thể có hiện tượng Koebner - Vị trí thường gặp: mặt, cổ, ngực, thân mình. Tiêu chuẩn chọn Bn: - Tất cả các bệnh nhân trẻ em đủ tiêu chuẩn chẩn đoán u mềm lây. - Tuổi >= 6 tuổi - Không có các bệnh lý toàn thân, không bị các bệnh da liễu khác. - Không có chống chỉ định của imiquimod 5% - Bố mẹ hoặc người bảo hộ đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ: - Bệnh nhân hoặc gia đình không đồng ý tham gia nghiên cứu - Bị dị ứng hoặc kích ứng mạnh với thuốc kem imiquimod - Có các bệnh mạn tính (Đái tháo đường, viêm gan, bệnh thận...) - Bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS - Bệnh nhân mắc các bệnh suy giảm miễn dịch khác hoặc đang dùng các thuốc ức chế miễn dịch. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu so sánh hiệu quả trước – sau điều trị. 2.2.2. Cỡ mẫu: Chọn mẫu thuận tiện 2.2.3. Vật liệu nghiên cứu: - Bộ câu hỏi soạn sẵn, phiếu điều tra. - Thuốc bôi tại chỗ: Kem Imiquad (kem imiquimod): - Hàm lượng 0,25g 5%, hãng Glenmark Ấn Độ sản xuất, dạng gói. Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC - Mỗi gói đơn liều 0,25g có chứa: Hoạt chất: kem imiquimod 12,5mg. Tá dược: Acid isotearic, Cetyl alcohol, Stearyl Alcohol, White Petrolatum, Polysorbate 60, Sorbitan Monostearate, Methylparaben, Propylparaben, Glycerin, Xanthan Gum, Benzyl Alcohol, Nước tinh khiết. - Phương pháp điều trị: Bố, mẹ BN được hướng dẫn dùng tăm bông loại nhỏ, bôi thuốc đúng vào tổn thương. Bôi Kem imiquimod 5% được bôi tuần 3 lần vào buổi tối. Bôi đến khi thấy có dấu hiệu viêm đỏ hay trợt nhẹ trên bề mặt tổn thương. Lưu ý không được để thuốc lan ra vùng da lành. Trường hợp lan ra vùng da lành phải lau sạch ngay bằng nước thường. Các gói mở ra phải dùng ngay. Nếu không dùng hết thì phải bỏ đi, không dùng lại - Thời gian điều trị : 12 tuần. Khám đánh giá điều trị tại tuần 2, 4, 8, 12 tuần. Đánh giá mức độ bệnh trên lâm sàng - Nhẹ: BN có <10 thương tổn - Trung bình: BN có từ 10 đến 30 thương tổn - Nặng: BN có trên 30 thương tổn Đánh giá kết quả điều trị và tác dụng không mong muốn của thuốc ØĐánh giá tác dụng của thuốc thông qua các triệu chứng của phản ứng viêm: nề, đỏ nhẹ, trợt da. Thời điểm đánh giá là sau 2 tuần, 4 tuần, 8 tuần, 12 tuần tính từ lúc bắt đầu điều trị. Ø Theo dõi và đánh giá kết quả điều trị Khỏi bệnh và không khỏi bệnh Khỏi bệnh Không khỏi Không còn thương tổn trên da Vẫn còn thương tổn trên da Xuất hiện các thương tổn mới ØChụp ảnh trước và sau mỗi lần khám lại. Ø Đếm số lượng tổn thương tại mỗi lần thăm khám Ø Ghi nhận các kết quả xét nghiệm công thức máu, chức năng gan, thận trước điều trị và sau 12 tuần điều trị Ø Đánh giá tác dụng không mong muốn của thuốc tại chỗ: Đau, Ngứa, Loét, Rối loạn sắc tố da, Sẹo. Ø Tác dụng phụ toàn thân: Sốt cao, Khó thở, Nổi hạch, thay đổi xét nghiệm * Trong thời gian điều trị, nếu bệnh nhân ngừng tham gia quá trình điều trị, sẽ tư vấn cho bệnh nhân các phương pháp khác điều trị. Nếu phản ứng phụ nặng nề, ngừng sử dụng thuốc điều trị. Tôn trọng quyết định cuối cùng của bệnh nhân. 2.3. Thời gian, địa điểm nghiên cứu - Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viện Da Liễu Trung Ương - Thời gian nghiên cứu: từ 08/2017 đến 8/2018. 3. KẾT QUẢ 3.1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu (n = 53) Bảng 3.1. Đặc điểm của nhóm bệnh nhân điều trị Imiquimod Đặc điểm lâm sàng Số bệnh nhân % Giới - Nam - Nữ 28 25 52,8 47,2 Mức độ bệnh - Nhẹ - Trung bình - Nặng 5 35 13 9,5 66 24,5 Tổng 53 100 DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 3.2. Đánh giá hiệu quả điều trị Bảng 3.2. Tỷ lệ khỏi sau dùng Imiquimod 12 tuần Tỷ lệ khỏi Số bệnh nhân % Khỏi 46 86,8 Không khỏi 7 13,2 Tổng 53 100 Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ khỏi bệnh theo thời gian Bảng 3.4. Thay đổi mức độ bệnh theo thời gian Mức độ bệnh Thời gian Nhẹ Trung bình Nặng N % N % N % Trước ĐT 5 9,5 35 66 13 24,5 Sau 2 tuần 14 26,4 34 64 3 5,6 Sau 4 tuần 25 47,2 18 34 0 0 Sau 8 tuần 22 41,6 4 7,5 0 0 Sau 12 tuần 6 11,3 1 1,9 0 0 100 3.8 18.8 50.9 86.890 80 70 60 50 40 30 20 Sau 2 tuần Sau 4 tuần Sau 8 tuần Sau 12 tuần Tỷ lệ khỏi theo thời gian 10 0 Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 3.3. Đánh giá tác dụng phụ của thuốc Biểu đồ 3.5. Các tác dụng phụ của thuốc Bảng 3.6. Thay đổi chỉ số xét nghiệm trước điều trị và sau điều trị 12 tuần Các chỉ số xét nghiệm (n= 53) X ± SD pTrước ĐT Sau 12 tuần Sốlượng BC 8,35 ± 2,56 7,69 ± 1,61 p = 0,15 > 0,05 Sốlượng BCTT 3,98 ± 1,72 3,53± 0,80 p = 0,26 > 0,05 HC 4,67 ±0,47 4,52 ± 0,40 p = 0,201 > 0,05 AST 28,65 ± 7,17 28,55 ± 5,17 p = 0,571 > 0,05 ALT 15,67 ± 5,09 14,99 ± 3,98 p = 0,324 > 0,05 ure 4,57 ± 1,19 4,79 ± 1,02 p = 0,56 > 0,05 Creatinin 50,98± 8,8 52,50 ± 9,89 p = 0,168 > 0,05 35 34 24.5 28.3 11.3 1.9 0 0 30 25 20 15 10 5 0 Không có Ngứa nhẹ Ban đỏ Bỏng rát Loét Tăng sắc tố Giảm sắc tố 4. BÀN LUẬN U mềm lây là bệnh khá thường gặp ở trẻ em, đặc biệt là trẻ em từ 2 đến 12 tuổi. Tình trạng mắc bệnh thay đổi khác nhau tùy theo khu vực và chủng tộc. Trong số các bệnh nhân đến khám có 53 trẻ trên 6 tuổi đủ tiêu chuẩn và đồng ý tham gia nghiên cứu, điều trị tổn thương u mềm lây bằng Imiquimod 5% bôi tại chỗ 3 lần/ tuần trong 12 tuần. Các bệnh nhân trong nhóm nghiên từ 6 đến 12 tuổi. Trong số đó, có 28/53 (chiếm 52,8%) trẻ nam và 25/53 (chiếm 47,2%) trẻ nữ. Có 5/53 (9,5%) trẻ có tổn thương ở mức độ nhẹ, 35/53 (66%) trẻ có tổn thương mức độ trung bình và 13/53 (24,5%) có tổn thương mức độ nặng. Vị trí tổn thương thường gặp của các bệnh nhân vẫn là DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC vùng mặt, cổ và thân mình chiếm ưu thế, các vị trí khác ít gặp tổn thương u mềm lây hơn. Sau 12 tuần điều trị chúng tối thấy có 46/53 bệnh nhân khỏi hoàn toàn chiếm 86,8%, còn 7/53% bệnh nhân còn tổn thương sau 12 tuần chiếm 13,2%. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự một số nghiên cứu trước đó. Nghiên cứu của Beyerl và cộng sự (2003) cho thấy, trong số 15 trẻ điều trị bằng bôi Imiquimoid 5% 3 lần/ tuần, có 69% đáp ứng tốt với số lượng tổn thương giảm từ 65% đến 100%, và không có bệnh nhân nào tái phát trong 6 tháng theo dõi sau đó [9],[10], [11]. Nghiên cứu của Badavanis và cộng sự (2017) trong số 23 bệnh nhân u mềm lây dùng Imiquimod 5% có 73,91% bệnh nhân thấy có giảm tổn thương trong 3 đến 8 tuần sau điều trị, và có 6 bệnh nhân không đáp ứng với các biện pháp khác trước đó thì cũng thấy cải thiện từ 55-85% với Imiquimod 5% sau 10 đến 12 tuần điều trị [9]. Khi theo dõi tình trạng đáp ứng theo thời gian thì thấy, trong 2 tuần đầu, chỉ có 2/53 (3,8%) số bệnh nhân đáp ứng và các bệnh nhân này đều là những bệnh nhân có ít tổn thương. Sau 4 tuần, tỷ lệ khỏi tăng cao hơn là 18,8% và sau 8 tuần có 50,9% số bệnh nhân khỏi hoàn toàn. Đồng thời, mức độ bệnh cũng giảm dần theo thời gian. Ban đầu số bệnh nhân mức độ trung bình và nặng chiếm tỷ lệ cao hơn, nhưng sau điều trị số bệnh nhân mức độ nặng giảm dần và không còn sau 4 tuần điều trị, đồng thời sau 12 tuần điều trị số bệnh nhân mức độ trung bình còn 1,9% và mức độ nhẹ là 11,3%. Tỷ lệ khỏi bệnh tăng dần theo thời gian, vì thế mà khi sử dụng imiquimod 5% tại chỗ cần khuyến cáo bệnh nhân cần phải kiên nhẫn và chờ đợi, vì đây là thuốc kích thích miễn dịch tại chỗ nên tác dụng chậm hơn so với các thuốc khác [12]. Lý giải những điều này có thể liên quan đến cơ chế kích thích hệ miễn dịch của Imiquimod. Sự hoạt hóa các Toll like receptor làm tăng hệ miễn dịch tự nhiên, và tăng sản sinh cytokine nội sinh như TNF –α, IFN -α, interleukin 1, 2, 6, 8, 10, 12 Những yếu tố này giúp kích thích sự hoạt động các tế bào Nk, đại thực bào... tiêu diệt các tế bào diệt virus. Ngoài ra, nó có kích thích sản sinh T – lympho và sinh kháng thể qua hệ tế bào T help1- 2, đào thải virus ra bên ngoài [10]. Khi đề cập so sánh nhiều với các nghiên cứu can thiệp điều trị bằng hình thức phá hủy tổ chức sùi như điều trị bằng Laser CO2, Ni tơ lạnh, hay phẫu thuật thì các phương pháp can thiệp phá hủy có thể làm nhanh hơn, loại bỏ toàn bộ tổn thương trong lần điều trị đầu tiên. Tuy nhiên các phương pháp này cũng có tỷ lệ tái phát cao hơn so với các thuốc bôi miễn dịch như imiquimod, podophylotoxin[13]. Khi so sánh hiệu quả của Imiquimod so với các phương pháp bôi tại chỗ khác chúng tôi thấy Imiquimod có hiệu quả tương đối cao trong điều trị u mềm lây ở trẻ em, tuy nhiên thời gian điều trị thường dài hơn. Nghiên cứu của Hanna và cộng sự năm 2006 so sánh 4 phương pháp trong điều trị u mềm lây cho 124 trẻ. Trong đó số bệnh nhân được chia thành 4 nhóm, nhóm 1 được điều trị bằng nạo bỏ tổn thương bằng curret, nhóm 2 dùng cantharidin, nhóm thứ 3 dùng dung dịch Duolm (hỗn hợp của Salycilic và axit lactic), nhóm 4 dùng imiquimod. Thời gian điều trị là trong 12 tuần, và được khám định kỳ sau 1 tuần, 2 tuần, 3 tuần. Kết quả sau 1 tuần thấy, tỷ lệ khỏi của nhóm 1,2,3,4 tương ứng là 80,6%, 36,7%, 53,6% và 55,2%, đồng thời tác dụng phụ của các nhóm là 7,4%, 18,5%, 50% và 38,6% tương ứng [14]. Các thuốc như canthardin, Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC podophyllotoxin thì hiếm được sử dụng ở trẻ em do độc tính của thuốc, còn nạo curret thì nhiều trẻ bị sợ hãi và có thể gây sang chấn tâm lý cho trẻ [14], [15], [16]. Trong nghiên cứu của Mutairi và cộng sự khi so sánh hiệu quả của Imiquimod 5% bôi tại chỗ 5 lần/ ngày và áp lạnh trong điều trị u mềm lây cho thấy tỷ lệ khỏi của nhóm dùng Imiquimod 5% là 91,8%, của nhóm dùng áp lạnh là 70,27%, trong khi đó các tác dụng phụ như đau, hình thành bọng nước, thay đổi sắc tố và sẹo gặp nhiều hơn ở nhóm điều trị bằng áp lạnh so với nhóm điều trị bằng Imiquimod [17]. Nghiên cứu của Metkar và cộng sự khi so sánh hiệu quả của dung dịch KOH 10% và Imiquimod 5% trong điều trị u mềm lây cho thấy, tỷ lệ khỏi của nhóm dùng KOH là 42,1%, nhóm dùng Imiquimod là 57%. Điều trị bằng Imiquimod cần thời gian dài hơn nhưng ít tác dụng phụ hơn và đáp ứng tốt với nhóm có tổn thương kích thước nhỏ và số lượng ít. Qua nghiên cứu nhận thấy, đa số bệnh nhân không gặp các tác dụng phụ gì chiếm 34%, một số bệnh nhân có biểu hiện tại chỗ như 28,3% số bệnh nhân có biểu hiện nổi ban đỏ tại chỗ, 24,5% bệnh nhân thấy ngứa nhẹ, 11,3% bệnh nhân có cảm giác bỏng rát tại chỗ, chỉ có 1,9% bệnh nhân bị loét nhưng không để lại dát tăng hay giảm sắc tố và các triệu chứng này thường mất sau thời gian điều trị. Tác dụng phụ thường gặp trên da là kích ứng tại chỗ từ nhẹ đến trung bình thấy ở tất cả các bệnh nhân điều trị nhưng cũng không có bất kỳ tác dụng phụ toàn thân nào. Tỷ lệ của chúng tôi có thể thấp hơn so với các nghiên cứu trước đó vì có thể hầu hết các bệnh nhân của chúng tối đều được cảnh báo về tác dụng phụ của bôi imiquimod 5% tại chỗ trước đó nên hầu hết các bệnh nhân không thấy có vấn đề gì sau khi bôi thuốc [10], [11] [18]. Khi so sánh tác dụng phụ của imiquimod với các loại thuốc bôi miễn dịch tại chỗ khác như sinecatechins, hay podophylotoxin chúng tôi nhận thấy một điều gần như tất cả các thuốc bôi miễn dịch đều gây các tác dụng phụ tại chỗ. Nó phụ thuộc nhiều vào vị trí và diện tích bôi tại chỗ, mà điều này cần sự tư vấn và hướng dẫn bôi thuốc cẩn thận từ các y bác sỹ. Khi hướng dẫn các bệnh nhân thực hiện quá trình bôi thuốc, chúng tôi khuyến cáo các bệnh nhân chỉ bôi một lượng vừa đủ, và bôi gọn vào tổn thương, không để thuốc lan ra vùng ra xung quanh, nếu lan ra vùng da lành khác, thuốc cần được rửa sạch ngay. Tuy nhiên khi thực hiện, một số bệnh nhân dùng thuốc trên diện rộng hơn thương tổn, với lượng thuốc nhiều hơn vì mong muốn nhanh khỏi bệnh nên có thể gặp một số phản ứng như mô tả. Khi nghiên cứu về tác dụng phụ toàn thân chúng tôi đánh giá thông qua các chỉ số xét nghiệm về các dòng tế bào máu và chức năng gan, thận trước và sau 12 tuần điều trị. Các chỉ số xét nghiệm sau 12 tuần điều trị có thay đổi nhẹ nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p >0,05. Số lượng bạch cầu trước điều trị là 8,35 ± 2,56 G/L, sau điều trị là 7,69 ± 1,61 G/L, số lượng bạch cầu trung tính trước điều trị là 3,98 ± 1,72 G/L, sau điều trị là 3,53 ± 0,8 G/L, và các giá trị của hồng cầu, ure, creatinin, men gan AST, ALT đều trong giới hạn bình thường và không có sự khác biệt trước và sau điều trị. Nghiên cứu của Beyer và cộng sự cũng cho thấy hầu hết các tác dụng phụ thường gặp nhất là ban đỏ chiếm 85%, ngứa và châm chích chiếm 75%, bỏng rát DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC chiếm 23% và đau 11%. Không có bệnh nhân nào có tác dụng phụ toàn thân liên quan đến thuốc. Nghiên cứu của Katz còn đưa ra khẳng định là ” imiquimod không những có hiệu quả mà còn an toàn trong điều trị u mềm lây ở trẻ em ” [10]. Nghiên cứu của Badavanis và cộng sự cũng khẳng định Imiquimod bôi tại chỗ là thuốc hiệu quả và an toàn trong điều trị u mềm lây ở trẻ em [9], [4]. Do vậy, sử dụng kem Imiquimod 5% trong điều trị u mềm lây ở trẻ em là lựa chọn phù hợp, với hiệu quả điều trị cao, tương đối an toàn và ít tác dụng phụ. Đồng thời, đây cũng là cơ sở để có thể sử dụng Imiquimod trong điều trị u mềm lây ở trẻ em một cách rộng rãi và dễ dàng hơn. 5. KẾT LUẬN Điều trị bằng Imiquimod 5% cho u mềm lây có kết quả tốt, an toàn và ít gây ảnh hưởng đến tâm lý trẻ hơn so với các biện pháp thủ thuật khác. Tuy nhiên, thời gian điều trị thường dài hơn và cần được theo dõi sát trong thời gian điều trị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dohil, M.A., et al., The epidemiology of molluscum contagiosum in children. J Am Acad Dermatol, 2006. 54(1): p. 47-54. 2. Olsen, J.R., et al., Epidemiology of molluscum contagiosum in children: a systematic review. Fam Pract, 2014. 31(2): p. 130-6. 3. Basdag, H., B.M. Rainer, and B.A. Cohen, Molluscum contagiosum: to treat or not to treat? Experience with 170 children in an outpatient clinic setting in the northeastern United States. Pediatr Dermatol, 2015. 32(3): p. 353-7. 4. Gerlero, P. and A. Hernandez-Martin, Update on the Treatment of molluscum Contagiosum in children. Actas Dermosiliogr, 2018. 109(5): p. 408-415. 5. Margo, C. and N.N. Katz, Management of periocular molluscum contagiosum in children. J Pediatr Ophthalmol Strabismus, 1983. 20(1): p. 19-21. 6. Kose, O., I. Ozmen, and E. Arca, An open, comparative study of 10% potassium hydroxide solution versus salicylic and lactic acid combination in the treatment of molluscum contagiosum in children. J Dermatolog Treat, 2013. 24(4): p. 300-4. 7. Leslie, K.S., G. Dootson, and J.C. Sterling, Topical salicylic acid gel as a treatment for molluscum contagiosum in children. J Dermatolog Treat, 2005. 16(5-6): p. 336-40. 8. Moye, V.A., S. Cathcart, and D.S. Morrell, Safety of cantharidin: a retrospective review of cantharidin treatment in 405 children with molluscum contagiosum. Pediatr Dermatol, 2014. 31(4): p. 450-4. 9. Badavanis, G., et al., Topical Imiquimod is an Eective and Safe Drug for Molluscum Contagiosum in Children. Acta Dermatovenerol Croat, 2017. 25(2): p. 164-166. 10. Katz, K.A., Dermatologists, imiquimod, and treatment of molluscum contagiosum in children: righting wrongs. JAMA Dermatol, 2015. 151(2): p. 125-6. 11. Bayerl, C., G. Feller, and S. Goerdt, Experience in treating molluscum contagiosum in children with imiquimod 5% cream. Br J Dermatol, 2003. 149 Suppl 66: p. 25-9. 12. Arican, O., Topical treatment of molluscum contagiosum with imiquimod 5% cream in Turkish children. Pediatr Int, 2006. 48(4): p. 403-5. Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 13. Beutner KR, W.D., Recurrent external genital warts: a literature review. Papillomavirus Rep, 1997. 8(6): p. 69. 14. Hanna, D., et al., A prospective randomized trial comparing the ecacy and adverse eects of four recognized treatments of molluscum contagiosum in children. Pediatr Dermatol, 2006. 23(6): p. 574-9. 15. Ross, G.L. and D.C. Orchard, Combination topical treatment of molluscum contagiosum with cantharidin and imiquimod 5% in children: a case series of 16 patients. Australas J Dermatol, 2004. 45(2): p. 100-2. 16. Rosdahl, I., et al., Curettage of molluscum contagiosum in children: analgesia by topical application of a lidocaine/prilocaine cream (EMLA). Acta Derm Venereol, 1988. 68(2): p. 149-53. 17. Al-Mutairi, et al., Comparative study on the ecacy, safety, and acceptability of imiquimod 5% cream versus cryotherapy for molluscum contagiosum in children. Pediatr Dermatol., 2010(388-393). 18. Barba, A.R., S. Kapoor, and B. Berman, An open label safety study of topical imiquimod 5% cream in the treatment of Molluscum contagiosum in children. Dermatol Online J, 2001. 7(1): p. 20. ABSTRACT THE EFFECTIVENESS OF IMIQUIMOD 5% IN TREATMENT CONTAGIOUS MOLLUSCUM IN CHILDREN OVER 6 YEARS OF AGE Objective: To evaluate the eectiveness and safety of Imiquimod in treatment contagious molluscum in children over 6 years of age at the National hospital of Dermatology and Venereology. Methods: A study to compare the ecacy before and after treatment with topical Imiquimod 5% 3 time per week in 53 children over 6 years of age with contagious molluscum at the National hospital of Dermatology and Venereology from 8/2017 to 8/2018. Results: 53 patients from 6 to 12 years of age were treated with 5% Imiquimod applied three times a week for 12 weeks. There were 28 males and 25 females, the patients with moderate and severe accounted for 66% and 24.5%, respectively. After 12 weeks of treatment, 86.8% of the patients were completely clear of the lesions and the percentage of lesions progressively increased with time. The most common side eects were erythema (28.3%), burns (11.3%), mild itching (24.5%) and ulceration (1.9%). There are no systemic side eects during treatment monitoring. Conclusion: Imiquimod 5% was eective and safe for treating contagious molluscum in children. Key words: Contagious molluscum, Contagious molluscum in children, Imiquimod 5%.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_dieu_tri_u_mien_lay_o_tre_em_bang_kem_imiquimod_5.pdf
Tài liệu liên quan