Kết quả đo các chỉ số niệu động bình thường trên phụ nữ

Cảm giác của bàng quang trong quá trình được đổ đầy Giá trị trung bình của dung tích nước đổ đầy vào bàng quang để có được cảm giác buồn tiểu đầu tiên trong nghiên cứu của chúng tôi là 157,5 ± 36,6 mL là giá trị được thực hiện trên những phụ nữ bình thường nằm trong giới hạn bình thường. Cảm giác buồn đi tiểu đầu tiên xuất hiện khi dung tích nước đổ đầy chiếm khoảng 50% dung tích bàng quang, giá trị trung bình của cảm giác buồn đi tiểu đầu tiên trong nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên những phụ nữ bình thường là 157,5 ± 36,6 mL, nằm trong giới hạn bình thường từ khoảng 150-250 mL(52). Cảm giác buồn đi tiểu dữ dội xuất hiện khi dung tích nước đổ đầy chiếm khoảng 90% dung tích bàng quang, giá trị trung bình của cảm giác buồn đi tiểu dữ dội ở những phụ nữ bình thường trong nghiên cứu này là 261,5 ± 54,5 mL, nằm trong giới hạn bình thường từ 300-500 mL(52). Tăng cảm giác buồn tiểu hay gặp trong những trường hợp bàng quang tăng hoạt tính thì cảm giác buồn tiểu đầu tiên sẽ nhỏ hơn 100 mL. Những trường hợp giảm cảm giác đặc trưng bằng giảm cảm giác buồn tiểu đầu tiên, cảm giác buồn đi tiểu đầu tiên và những bệnh nhân này không bao giờ có cảm giác buồn đi tiểu dữ dội. Bên cạnh đó, những trường hợp không có cảm giác khi dung tích bàng quang đã ở mức tối đa thì bệnh nhân đã có bất thường về thần kinh chi phối.

pdf15 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 120 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả đo các chỉ số niệu động bình thường trên phụ nữ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
máy: dung tích đổ đầy bàng quang= 351,5 ± 67,1mL, không có sự khác biệt theo tuổi và IPSS từ 1 đến 3, Cg1 =157,5 ± 36,6 mL, Cg2=209,8 ± 51,9 mL, Cg3 =261,5 ± 54,5 mL, có khuynh hướng tăng dần theo tuổi, không thay đổi với IPSS từ 1-3. Dung tích nước tiểu tồn lưu (RU)= 18,5 ± 13,4 mL, không có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi, không có sự khác biệt giữa các nhóm có điểm IPSS từ 1 đến 3. Qmax= 5,2 mL/giây (n=30), nhóm trẻ hơn 50 tuổi có RU thấp hơn. không có sự khác biệt giữa các nhóm có điểm IPSS từ 1 đến 3. Pdet = 43,9 ± 10,7 cm H2O, không có sự thay đổi giá trị trung bình của Pdet theo tuổi. Pabd của áp lực ổ bụng (đo qua âm đạo) trong loạt này là: 53,3 ± 13,5 cm H2O, nhóm trẻ hơn 50 tuổi có Pabd cao hơn. Pves=98,2 ± 15,8 cm H2O, không có sự khác biệt giữa các lứa tuổi. Kết luận: Lần đầu tiên tại Việt Nam các chỉ số niệu động được đo trên nhóm phụ nữ không triệu chứng đường tiết niệu dưới (IPSS ≤3/35 điểm). Các chỉ số niệu động học đường tiết niệu dưới này khác biệt hầu hết với các tác giả khác trên thế giới. Khác biệt đó không nhiều, có thể do có sự khác nhau ở khối lượng cơ thể, chủng tộc, và phái tính. Ngoài ra mẫu của khảo sát này còn nhỏ (n=30) chưa là đại diện cho nữ giới Việt Nam, nhưng cũng có thể làm tư liệu trong các đánh giá lâm sàng. Từ khóa: Niệu động học. ABSTRACT URODYNAMICS CONSTANTS ON FEMALE Tran Ngoc Sinh, Phan Diem Thuy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 3 - 2012: 441 - 455 * Đại Học Y Dược Tp.HCM, bệnh viện Chợ Rẫy ** Sinh viên Y 6, Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, khoá 2005-2011 Tác giả liên lạc: PGS.TS Trần Ngọc Sinh ĐT: 0983723493 Email: tnsinh09@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 442 Background: Urodynamic is a subdivision of Urology, it‘s developing these day. There were the constants in many countries, but in viet Nam, it’s lack of data. Patients and method: Retrospective study of cancer cases were followed after a kidney transplant at Cho Ray Hospital (CRH) from 12/1992-5/2012 divided into 2 groups: one group transplanted at CRH and another group from other centers. We reconside the formulation and dose of immunosuppressive drugs, tumor detection time, how the treatment after surgery and results. Results: From Dec. 1992 to May 2012, 540 pts are following after renal transplantation at CRH. 250/540 pts (46.3%) were transplanted at CRH, and 290/540 pts (53.7%) from other centers. 16/540 pts (2.9%) detected cancer. 3/16 pts (18.75%) from CRH and 13/16 pts (81.25%) from other centers. 9/16 pts (56.25%) are females and 7/16 pts (43.75%) are men. The mean age is 45,56±11.24 yo (68.25). The average of time to detect neoplasm is 6.7±3.9 ys (14.2). The immunosuppressive drugs often use are Steroids / Sandimmun Neoral / Tacrolimus / Azathioprine / Mycophenolate Mofetil. The induction therapy is Daclizumab, Basiliximab for CRH group. The main cancer treatment is surgery combined with chemotherapy or radiation. The mortality rate is 68.75%. Conclusions: The recommended immunosuppressive drugs for long-term use after transplantation are capable of developing cancer. Cancer rate after transplantation depends on each person's response to immunosuppressive drugs. Therefor, cancer treatment is more difficult and can increased mortality rate. Key words: Urodynamic constant, female urology. ĐẶT VẤN ĐỀ Niệu động học là một phân chuyên ngành trong Tiết Niệu học. Ứng dụng đầu tiên của niệu động học được Davis và Zimskind dùng để khảo sát chức năng đường tiểu trên(70), những năm sau đó Susset thấy có mối liên quan về sinh lý, sinh lý bệnh giữa sự vận chuyển nước tiểu từ thận xuống bàng quang cũng như chức năng lưu trữ và bài xuất nước tiểu(24), từ đó niệu động học được đưa vào để đáng giá chức năng đường tiết niệu dưới. Sau hơn 30 năm nghiên cứu, Jarvis GJ (1980)(25) và Powell PH (1981)(48) mở rộng ứng dụng thử nghiệm niệu động học trong khảo sát chức năng đường tiết niệu dưới ở những phụ nữ có những triệu chứng của tiểu không kiểm soát. Bàng quang có chức năng lưu trữ và tống xuất nước tiểu được thể hiện qua việc đo áp lực và lưu lượng nước tiểu gọi là niệu động học. Bởi vì, các triệu chứng và khám lâm sàng có giá trị chẩn đoán rất hạn chế trong chẩn đoán các bệnh lý có liên quan đến đường tiết niệu dưới nên thông thường các bác sĩ tiết niệu, phụ khoa sẽ đưa khảo sát niệu động học giúp phát hiện các bệnh lý có liên quan đến bàng quang hay niệu đạo. Bằng các chỉ số, có tính hằng định trên người thường, người ta có thể đánh giá trạng thái bệnh lý. Mục tiêu của nghiên cứu này là tìm ra các chỉ số số hằng định về niệu động học đường tiết niệu dưới của người Việt Nam do đó rất cần thiết để có thể đối chiếu với chỉ số các nước và chẩn đóan thêm chính xác trên bệnh nhân Việt Nam. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu Phương pháp mô tả cắt ngang Tiêu chuẩn chọn bệnh Đối tượng nghiên cứu là người phụ nữ có tình trạng đi tiểu bình thường, không có rối loạn đi tiểu. Những phụ nữ này phải không có tiền căn của bệnh lý đường tiết niệu dưới. Chỉ chọn các đối tượng gần như không có triệu chứng đường tiết niệu dưới (LUTS), tức IPSS≤3/35 điểm. Người được nghiên cứu được giải thích và đồng ý với mục tiêu ngiên cứu Tiêu chuẩn loại trừ Nghi ngờ có các biểu hiện bệnh lý đường tiết niệu dưới ; có tiền căn của bệnh lý đường tiết niệu dưới; có chấn thương cột sống hay tổn thương hệ thần kinh trung ương và ngoại Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 443 biên; có dấu hiệu thần kinh khu trú: rối loạn trương lực cơ chi dưới và trương lực cơ vòng hậu môn, bất thường của các phản xạ thần kinh nông và sâu. Quy trình thực hiện - Khảo sát các điều kiện để thực hiện nghiên cứu niệu động học: + Điểm số đánh giá triệu chứng đường tiết niệu dưới theo bảng điểm IPSS có trị số ≤7 /35 điểm, bệnh nhân tự đánh giá theo chủ quan của mình (bảng 1). Chỉ chọn các đối tượng gần như không có triệu chứng đường tiết niệu dưới (LUTS). Bảng 1: Điểm số triệu chứng IPSS(6) Trong tháng qua hay khoảng như vậy, bà thường nhận thấy có: Không có gì < 1 lần trong 5 lần đi tiểu < 1/2 số lần đi tiểu Khoảng 1/2 số lần đi tiểu có > 1/2 số lần đi tiểu có Hầu như lúc nào cũng có 1) Cảm giác tiểu không hết sau khi đi tiểu xong không? 0 1 2 3 4 5 2) Hiện tượng phải đi tiểu lại dưới 2 giờ không? (bình thường khoảng 4 giờ đi 1lần) 0 1 2 3 4 5 3) Hiện tượng đi đái làm nhiều giai đoạn? (tia nước tiểu ngắt quãng, ngập ngừng) 0 1 2 3 4 5 4) Hiện tượng khó nhịn tiểu hay buồn đi tiểu không? 0 1 2 3 4 5 5) Tia nước tiểu yếu lúc đi tiểu không? 0 1 2 3 4 5 6) Phải rặn khởi động lúc đi tiểu không? 0 1 2 3 4 5 7) Trung bình mỗi đêm, bà phải thức dậy đi tiểu mấy lần kể từ lúc lên giường đến buổi sáng khi thức dậy? 0 Không 1 Một lần 2 Hai lần 3 Ba lần 4 Bốn lần 5 Năm lần hoặc hơn Cách tính điểm như sau: điểm số tối đa của 7 câu hỏi là 35 điểm được chia thành 3 mức độ: Từ 0 – 7 điểm: rối loạn nhẹ Từ 8 – 19 điểm: rối loạn trung bình. Từ 20 – 35 điểm: rối loạn nặng. + Bảng đánh giá chất lượng cuộc sống (QoL) (bảng 2): điểm QoL do bệnh nhân tự đánh giá theo chủ quan của mình (bảng 2.1): Bảng 2: Điểm chất lượng cuộc sống(6) Bà nghĩ sao nếu sống mãi với các triệu chứng trên? Hoan nghênh Sống tốt Sống được Sống tạm được Sống khó khăn Sống khổ sở Không chịu được 0 1 2 3 4 5 6 Cách tính: Từ 1 – 2 điểm: nhẹ. Từ 3 – 4 điểm: trung bình, nên điều trị. Từ 5 – 6 điểm: nặng. Đo niệu dòng đồ +Giải thích cho người tham gia đo niệu dòng đồ hiểu rõ những bước thực hiện để họ an tâm. +Dặn dò người tham gia uống nước và nhịn tiểu cho đến khi có cảm giác buồn tiểu thật sự không chịu được. +Trong phòng đo niệu dòng đồ, người tham gia sẽ tự ngồi tiểu một cách tự nhiên như thói quen hàng ngày vào máy đo và không cố gắng rặn thành bụng quá mức. +Lượng nước tiểu bài xuất nên trong khoảng từ 150 – 500 ml. +Các thông số được đọc tự động trên máy và in ra trên giấy và kết quả cần ghi nhận nhất là lưu lượng niệu dòng tối đa (Qmax). - Đo thể tích nước tiểu tồn lưu (RU): +Sau khi thực hiện xong phép đo niệu dòng, người tham gia đo sẽ được đo thể tích nước tiểu tồn lưu. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 444 +Cho người tham gia đo lên giường nằm theo tư thế sản khoa sao cho họ được thoải mái. +Thăm khám tổng quát vùng bụng, cơ quan sinh dục, cảm giác và vận động hai chi dưới và tầng sinh môn. +Thăm khám âm đạo, trực tràng để đánh giá trương lực cơ hậu môn, sự co thắt cơ hậu môn, tình trạng sa sinh sục, ung thư cổ tử cung,... +Rửa sạch vùng quanh hậu môn bằng cồn 70 độ. +Đặt bóng trực tràng vào ống hậu môn tương ứng với vị trí vùng tam giác bàng quang (lòng trực tràng phải không có phân). +Dán hệ thống 2 điện cực ở vị trí 3 giờ và 9 giờ rìa hậu môn, 1 điện cực ở vị trí thành bụng. +Sát trùng cơ quan sinh dục. +Trải khăn vô trùng. +Đặt thông tiểu để lấy hết nước tiểu tồn lưu trong bàng quang. Phép đo áp lực đồ bàng quang +Ngay sau khi đo thể tích nước tiểu tồn lưu, người tham gia đo sẽ được tiếp tục đo áp lực đồ bàng quang. +Lấy ống thông tiểu ra. +Sử dụng ống thông chuyên dùng hai nhánh 7F, một nhánh dùng để đo áp lực trong bàng quang, nhánh còn lại để bơm nước đổ vào bàng quang. +Nối nhánh bơm nước đổ vào bàng quang với hệ thống dây truyền nước với dịch truyền là nước muối sinh lý đã được giữ ấm ở nhiệt độ 36,50C. +Đuổi khí tất cả các hệ thống để đo. +Đưa vào niệu đạo đến bàng quang một nhánh để đo áp lực trong ổ bụng. +Hệ thống ống thông niệu đạo và bóng trực tràng sẽ được nối với bộ phận cảm nhận (transducer), được đặt ngang mức bờ trên xương mu của bệnh nhân, bộ phận cảm nhận này được nối kết với màn hình vi tính. +Dặn dò người tham gia đo báo lại những cảm giác có được trong khi thực hiện quá trình đổ nước vào bàng quang: cảm giác đổ đầy (cảm giác nặng bụng), cảm giác buồn đi tiểu đầu tiên, cảm giác buồn đi tiểu thật sự, cảm giác buồn đi tiểu dữ dội. +Kiểm tra các ống đã được đặt đúng vị trí bằng cách cho bệnh nhân ho một tiếng. Các ống đúng vị trí khi cả 3 đỉnh áp lực bàng quang, áp lực ổ bụng, áp lực cơ detrusor tương ứng nhau. +Cho nước chảy từ từ vào bàng quang với tốc độ được tính theo công thức trọng lượng cơ thể (kg)/4 (ml/phút)(29) . +Theo dõi cảm giác buồn tiểu của người tham gia đo và các đường biểu diễn áp lực bàng quang, áp lực ổ bụng, áp lực cơ detrusor và điện cơ. +Kết thúc quá trình làm đầy bàng quang khi người tham gia đo có cảm giác buồn đi tiểu không chịu được. +Cho người tham gia đo đi tiểu đồng thời quan sát sự thay đổi của các đường biểu diễn về áp lực bàng quang, áp lực ổ bụng, áp lực cơ detrusor trên máy. Phương tiện nghiên cứu -Dụng cụ dùng trong nghiên cứu: +Máy sử dụng Albyn Medical – Tây Ban Nha, số máy 0309068. -Hệ thống ống chuyên dùng đo áp lực ổ bụng, áp lực bàng quang, áp lực niệu đạo. 3 miếng dán điện cực. 2 ống chích 10cc đựng dung dịch vô trùng bên trong. 2 chai nước muối sinh lý đã được giữ ấm. Bộ dụng cụ đặt thông tiểu. Găng tay vô trùng. Khăn vô trùng. Dung dịch sát khuẩn, cồn 70 độ. Gel bôi trơn. Xử lý số liệu Dùng phương pháp tính trung bình ± độ lệch chuẩn để tính giá trị trung bình, dùng phương pháp thử nghiệm t-student để so sánh Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 445 các số liệu; Dùng phương pháp thử nghiệm χ2, phương pháp phân tích ANOVA để so sánh các số liệu.Tất cả số liệu được xử lý theo chương trình phần mềm SPSS 16.0 và Epi 6.0. KẾT QUẢ Đặc điểm đối tượng nghiên cứu Số người nghiên cứu, tuổi và giới: Tổng cộng nhóm người được nghiên cứu có 30 TH được nghiên cứu có đủ yếu tố chọn lựa. Tất cả những người nghiên cứu là nữ giới, được giải thích mục đích nghiên cứu và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tuổi trung bình 44,0 ± 9,1 (năm), tuổi nhỏ nhất 22 tuổi, lớn nhất 59 tuổi. Lớp tuổi: 30 đối tượng nghiên cứu phần lớn ở lớp tuổi từ 41 – 50 tuổi chiếm 50,0%. Lớp tuổi có phân bố tương đối đồng đều từ 30 đến 59 tuổi. Phân bố địa dư: Người được nghiên cứu đến khám ở thành phố là 10 người chiếm 33,3% ít hơn số người đến khám ở tỉnh là 20 người chiếm 66,7%. Chỉ số cơ thể (BMI): Chỉ số khối cơ thể trung bình 21,6 ± 2,1 (kg/m2). Chỉ số khối cơ thể nhỏ nhất là 18,61 (kg/m2), lớn nhất là 28 (kg/m2). Chỉ số khối cơ thể từ 18,5-22,9 chiếm tỷ lệ cao nhất 76,7% (23/30 TH). Thừa cân nguy cơ béo phì có 5 trường hợp chiếm 16,7% (5/30TH), nhóm béo phì độ I chiếm tỷ lệ thấp nhất 6,6% (2/30 TH). Điểm số triệu chứng đường tiết niệu dưới (LUTS) và điểm số chất lượng cuộc sống đi tiểu (QoL): Kết quả trả lời của bảng câu hỏi IPSS cho thấy nhóm người được nghiên cứu đều không có hoặc có rất ít triệu chứng ở đường tiết niệu dưới (bảng 1). Bảng 3: Điểm số triệu chứng đường tiết niệu dưới của nhóm người được nghiên cứu. Điểm số IPSS Số trường hợp Tỷ lệ % 0 8 26,7 1 11 36,6 2 8 26,7 3 3 10,0 Tổng số 30 100,0 Các chỉ số cơ bản của đi tiểu bình thường ở người phụ nữ Thể tích nước tiểu mỗi lần đi tiểu (qua đi tiểu bình thường) Giá trị trung bình của dung tích nước tiểu khi đi tiểu bình thường: trên nữ 330,09 ± 147,88 mL, giá trị nhỏ nhất là 112 mLvà lớn nhất là 731 Ml. Dung tích nước tiểu khi đi tiểu là một đại lượng mang tích tương đối, có thể thay đổi tuỳ thời điểm, tâm lý của con người. Mục tiêu lần này không đi sâu hơn. Dung tích bàng quang thật sự tức dung tích sinh lý là tổng số của dung tích nước tiểu (lấy qua đi tiểu) + dung tích tồn lưu sau đi tiểu. Dung tích này cũng có được khi đo áp lực đồ bàng quang bằng thủ công hay bằng máy. Vì vậy dung tích nước tiểu có được chỉ phản ảnh một phần dung tích thật của bàng quang, có giá trị trong thực hành, bác sĩ thường chỉ cần khảo lượng nước tiểu đo qua đi tiểu bình thường. Thể tích nước tiểu tồn lưu Giá trị trung bình của dung tích nước tiểu tồn lưu: 18,5 ± 13,4 mL, nhỏ nhất là 0 mL, lớn nhất là 50 mL. Phân tích RU theo lớp tuổi: phân tích giá trị trung bình của nước tiểu tồn lưu theo từng nhóm tuổi từ 21 – 30 tuổi là 14,6 ± 13,6 mL, từ 31 - 40 tuổi là 20,0 ± 14,1 mL, từ 41 - 50 tuổi là 21,2 ± 20,9 mL, từ 51 - 60 tuổi là 22,1 ± 17,3 mL. Dùng phép kiểm định ANOVA, so sách từng cặp các số trung bình và phương sai của chúng cho thấy giá trị trung bình của nước tiểu tồn lưu theo từng nhóm tuổi không có khác biệt ý nghĩa (p>0,05) (bảng 2). Bảng 4: Giá trị trung bình của nước tiểu tồn lưu xếp theo lớp tuổi (n=30) Theo lớp tuổi Trung bình Lớp tuổi 21- 30 (n=2) 31 – 40 (n=6) 41- 50 (n=15) 51-60 (n=7) 44,0 ± 9,1 RU (mL) 14,6 ± 13,6 20,0 ± 14,1 21,2 ± 20,9 22,1 ± 17,3 18,5 ± 13,4 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 446 RU <50 và ≥50 tuổi 16,7 ± 15,6 (n=23) 22,1 ± 17,3 (n=7) P>0,005 Phân tích RU trung bình theo điểm IPSS: Trong nhóm người được nghiên cứu này cho kết quả là: không có sự khác biệt giữa các nhóm IPSS= 0, 1, 2, 3 của loạt này, phép kiểm định ANOVA cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa, p>0,05 (bảng 3). Kết quả này xác nhận thêm rằng việc chọn các đối tượng nghiên cứu là những người bình thường về niệu động học. Vì vậy các chỉ số có được có độ tin cậy. Bảng 5: Giá trị trung bình của nước tiểu tồn lưu theo IPSS từ 1 đến 3 điểm (không có sự khác biệt có ý nghĩa, p>0,05). Số trường hợp Điểm số IPSS Nước tiểu tồn lưu (mL) 8 0 11,5 ± 6,4 11 1 17,1 ± 11,1 8 2 20,6 ± 20,5 3 3 23,8 ± 21,5 Lưu lượng niệu dòng tối đa (qmax) Giá trị trung bình của lưu lượng niệu dòng tối đa (Qmax): là 24,8 ± 5,2 mL/giây (n=30). Giá trị nhỏ nhất là 18 mL/giây, lớn nhất là 37 mL/giây. Tất cả trường hợp đều có trị số rơi vào vùng bình thường trên toán đồ Liverpool. Phân tích giá trị trung bình của Qmax theo từng nhóm tuổi: từ 21 – 30 tuổi là 33,5 ± 4,9 mL/giây, từ 31 - 40 tuổi là 28,8 ± 4,8 mL/giây, từ 41 - 50 tuổi là 24,7 ± 4,0 mL/giây, từ 51 - 60 tuổi là 19,7 ± 1,5 mL/giây (bảng 3.4). Dùng phép kiểm định ANOVA, so sách từng cặp các số trung bình và phương sai của chúng cho thấy: + Ở các lớp tuổi 21-30, 31-40, 41-50 có Qmax không khác biệt (p>0,05). + Các lớp tuổi dưới 50 và từ 50 trở đi lại có sự khác biệt ý nghĩa, trị số RU ở bình thường người trẻ thấp hơn người già (p< 0,05) (bảng 4 và biểu đồ 1). Bảng 6: Phân tích số Qmax trung bình theo từng lớp tuổi. Có sự khác biệt ý nghĩa ở nhóm ≥50 tuổi và các nhóm trẻ hơn (p<0,05). Lớp tuổi 21- 30 31 – 40 41- 50 51-60 Số TH (n=30) 2 6 15 7 Qmax (mL/giây) 33,5 ± 4,9 28,8 ± 4,8 24,7 ± 4,0 19,7 ± 1,5 Lớp tuổi <50 và ≥50 (p<0,05) 26,8 ± 4,9 19,7 ± 1,5 Trung bình Qmax 24,8 ± 5,2 mL/giây Phân tích Qmax giữa các nhóm có điểm số IPSS khác nhau: Phân tích Qmax theo các nhóm điểm IPSS, IPSS= 0, 1, 2, 3, của loạt này, phép kiểm định ANOVA cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa, p>0,05 (bảng 5). Bảng 7: Giá trị trung bình của Qmax theo IPSS Điểm số IPSS Số trường hợp Qmax (mL/giây) (p>0,05) 0 8 24,7 ± 4,5 1 11 26,1 ± 5,6 2 8 23,1 ± 3,9 3 3 20,6 ± 3,1 Tổng công 30 24,84 ± 5,26 Kết quả này xác nhận thêm rằng việc chọn các đối tượng nghiên cứu là những người bình thường về niệu động học. Vì vậy các chỉ số có được có độ tin cậy. Kết quả đo áp lực đồ bàng quang Áp lực cơ detrusor (Pdet): Giá trị trung bình của áp lực cơ chóp bàng quang (detrusor), viết tắt Pdet: 43,9 ± 10,7 cm H2O, thấp nhất là 31 cm H2O, cao nhất 67 cm H2O. Giá trị trung bình của Pdet phân bố theo từng nhóm tuổi: từ 21 – 30 tuổi là 49,8 ± 13,1 cm H2O, từ 31 - 40 tuổi là 47,5 ± 12,0 cm H2O, từ 41 - 50 tuổi là 42,4 ± 11,9 cm H2O, từ 51- 60 tuổi là 41,5 ± 8,9 cm H2O. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 447 Biểu đồ 1: Phân tích số Qmax trung bình theo từng lớp tuổi, cho thấy giữa các lớp tuổi dưới 50 không có sự khác biệt; giữa lớp tuổi trên 50 và các lớp trẻ hơn thì có sự khác biệt có ý nghĩa (Phép kiểm định ANOVA, p<0,05). Dùng phép kiểm định ANOVA, so sách từng cặp các số trung bình và phương sai của chúng cho thấy:ở các lớp tuổi 21-30, 31-40, 41-50, 51-60 các trị số trung bình của Pdet không khác biệt (p>0,05) (bảng 6). Như vậy, không có sự thay đổi giá trị trung bình của Pdet theo tuổi. Bảng 8: Giá trị trung bình của áp lực cơ detrusor (Pdet) theo từng lớp tuổi (n=30). Không có sự khác biệt giữa các lứa tuổi (p>0,05) Theo lớp tuổi Trung bình Lớp tuổi 21- 30 (n=2) 31 – 40 (n=6) 41- 50 (n=15) 51-60 (n=7) 44,0 ± 9,1 Pdet (cm H2O) 49,8 ± 13,1 47,5 ± 12,0 42,4 ± 11,9 41,5 ± 8,9 43,9 ± 10,7 Pdet <50 và ≥50 tuổi (p>0,05) 43,8 ± 10,5 (n=23) 41,5 ± 8,9 (n=7) p>0,05 Phân tích Pdet giữa các nhóm có điểm số IPSS khác nhau: Trong nhóm người được nghiên cứu này cho kết quả là: không có sự khác biệt giữa Pdet phân theo các nhóm IPSS = 0, 1, 2, 3, phép kiểm định ANOVA cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa, p>0,05 (bảng 3.6). Kết quả này xác nhận thêm rằng việc chọn các đối tượng nghiên cứu là những người bình thường về niệu động học (bảng 7). Bảng 9: So sánh giá trị Pdet trung bình và điểm số IPSS, không có sự khác biệt ý nghĩa(phép kiểm định ANOVA, p>0,05. Số trường hợp Điểm số IPSS Pdet (p> 0,05) 8 0 46,3 ± 8,6 11 1 46,5 ± 14,9 8 2 42 ± 8,2 3 3 38,6 ± 5,5 Kết quả đo áp lực ổ bụng (áp lực âm đạo), viết tắt pabd: Giá trị trung bình Pabd của áp lực ổ bụng (đo qua âm đạo) trong loạt này là: 53,3 ± 13,5 cm H2O, giá trị nhỏ nhất là 23 cm H2O và lớn nhất là 81 cm H2O. cm H2O. Giá trị trung bình của Pabd phân bố theo từng nhóm tuổi:từ 21 – 30 tuổi là 39,5 ± 6,3 cm Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 448 H2O, từ 30 -39 tuổi là 47,3 ± 17,5 cm H2O, từ 40- 49 tuổi là 55,6 ± 12,9 cm H2O, từ 50-59 tuổi là 60. Dùng phép kiểm định ANOVA, so sách từng cặp các số trung bình và phương sai của Pabd cho thấy (biểu đồ 3.12 và các bảng 7, bảng 8): + Nếu có sự cách biệt 2 lớp tuổi kế tiếp hơn 10 năm tuổi thì Pabd có khác biệt (p<0,05), Pabd sẽ tăng hơn; + Nhưng lớp tuổi dưới 50 và lớp tuổi trên 50 thì lại có sự khác biệt có ý nghĩa (p<0,05). Bảng 10: Phân tích số Qabd trung bình theo từng lớp tuổi. Có sự khác biệt có ý nghĩa ở nhóm ≥50 tuổi và các nhóm trẻ hơn (p<0,05) Theo lớp tuổi Trung bình Lớp tuổi 21- 30 tuổi (n=2) 31 – 40 tuổi (n=6) 41- 50 tuổi (n=15) 51-60 tuổi (n=7) 44,0 ± 9,1 Pabd cm H2O 39,5 ± 6,3 47,3 ± 17,5 55,6 ± 12,9 60,5 ± 9,9 53,3 ± 13,5 Pabd <50 và ≥50 51,4 ± 14,0 (n=23) 60,5 ± 9,9 (n=7) Bảng 11: Phân tích giá trị Pabd trung bình theo từng lớp tuổi (phép kiểm định ANOVA). STT Nhóm tuổi Pabd p 21- 30 39,5 ± 6,3 1 41- 50 55,6 ± 12,9 p = 0,005 21- 30 39,5 ± 6,3 2 51-60 60,5 ± 9,9 p = 0,0009 STT Nhóm tuổi Pabd p 21- 30 39,5 ± 6,3 3 31 – 40 47,3 ± 17,5 p = 0,26 31 – 40 47,3 ± 17,5 4 41- 50 55,6 ± 12,9 p = 0,27 31 – 40 47,3 ± 17,5 5 51 - 60 60,5 ± 9,9 p = 0,23 41- 50 55,6 ± 12,9 6 51-60 60,5 ± 9,9 p = 0.57 < 50 51,4 ± 14,0 7 ≥50 60,5 ± 9,9 p < 0,05 Áp lực trong bàng quang (pves) Giá trị trung bình của áp lực trong bàng quang (Pves) trong nghiên cứu chúng tôi là 98,2 ± 15,8 cm H2O, giá trị nhỏ nhất là 74 cm H2O và lớn nhất là 155 cm H2O (biểu đổ 3.13). Giá trị áp lực trong bàng quang trung bình theo từng nhóm tuổi: từ 21 – 30 tuổi là 87 ± 18,3 cm H2O, từ 31 - 40 tuổi là 94 ± 10,5 cm H2O, từ 41 - 50 tuổi là 101,5 ± 19,3 cm H2O, từ 51- 60 tuổi là 99,1 ± 11,1cm H2O. Dùng phép kiểm định ANOVA, so sách từng cặp các số trung bình và phương sai của chúng cho thấy:ở các lớp tuổi 21-30, 31-40, 41-50, 51-60 các trị số trung bình của Pdet không có sự khác biệt ý nghĩa (p>0,05) (bảng 3.12 và biểu đồ 3.14). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 449 Biểu đồ 2: Giá trị trung bình của áp lực trong bàng quang (Pves) tính theo từng lớp tuổi. Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các lứa tuổi (n=30), p>0,05, phép kiểm INOVA. Bảng 12: Giá trị trung bình của áp lực trong bàng quang tính theo từng nhóm tuổi, không có ý nghĩa thống kê, p>0,05. Theo lớp tuổi Cộng Lớp tuổi 21- 30 (n=2) 31 – 40 (n=6) 41- 50 (n=15) 51-60 (n=7) 44,0 ± 9,1 Pves (cm H2O) 87 ± 18,3 94 ± 10,5 99,1 ± 11,1 101,5 ± 19,3 98,2 ± 15,8 Pves <50 tuổi và ≥50 tuổi 94,4 ± 17,7 (n=22) 101,5 ± 19,3 (n=7) P>0,05 Phân tích Pves giữa các nhóm có điểm số IPSS khác nhau: Phép kiểm định ANOVA cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa giữa Pves theo các nhóm IPSS = 0, 1, 2, 3 p>0,05 (bảng 3.13). Bảng 13: Pves giữa các nhóm có điểm số IPSS khác nhau. không có sự khác biệt ý nghĩa giữa Pves theo các nhóm IPSS = 0, 1, 2, 3 p>0,05 Số trường hợp Điểm số IPSS Pves 8 0 92,6 ± 14,1 11 1 103,1 ± 19,9 8 2 99,8 ± 9,2 3 3 99 ± 13,4 Tổng 30 Dung tích sinh lý bàng quang và dung tích qua các giai đoạn cảm giác bàng quang Dung tích đỗ đầy bàng quang (dung tích sinh lý bàng quang). Giá trị dung tích đỗ đầy bàng quang: trong loạt này là 351,5 ± 67,1mL, giá trị nhỏ nhất là 270 mL và lớn nhất là 545 mL. Giá trị dung tích đổ đầy bàng quang trung bình theo từng lớp tuổi từ 21 –30 tuổi là 363 ± 18,3 mL, từ 31 - 40 tuổi là 353 ± 55 mL, từ 41 - 50 tuổi là 350,2 ± 84,8 mL, từ 51 - 60 tuổi là 350,8 ± 55 mL. Dùng phép kiểm định ANOVA, so sách từng cặp các số trung bình và phương sai của dung tích đổ đầy bàng quang cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa, p> 0,05 (bảng 11): Bảng 14: Trị trung bình dung tích đổ đầy bàng quang theo lớp tuổi (n=30). Theo lớp tuổi Cộng Lớp tuổi 21- 30 (n=2) 31 – 40 (n=6) 41- 50 (n=15) 51-60 (n=7) 44,0 ± 9,1 DTBQ (mL) 363 ± 18,3 353 ± 55 350,2 ± 84,8 350,8 ± 55 351,5 ± 67,1 <50tuổi và ≥ 50 tuổi 354,18 ± 73,9 (n=23) 350,8 ± 55 (n=7) P> 0,05 Phân tích giá trị trung bình của dung tích bàng quang giữa các nhóm có điểm số IPSS khác nhau, cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa, p>0,05 (bảng 12). Bảng 15: Phân tích giá trị trung bình của dung tích bàng quang và điểm số IPSS, không có sự khác biệt ý nghĩa, p>0,05. Số trường hợp Điểm số IPSS DTBQ 8 0 379,3 ± 73,5 11 1 333,9 ± 82,3 8 2 337,5 ± 41,6 3 3 379 ± 43,3 Các cảm giác đổ đầy bàng quang. Giá trị trung bình của dung tích nước đổ vào bàng quang (Cg1), để có cảm giác đầu tiên đã có nước trong bàng quang (cảm giác nặng bụng) là 157,5 ± 36,6 mL, trị số lớn nhất là 245 mL và nhỏ nhất là 110 mL. Giá trị trung bình của dung tích nước đổ vào bàng quang để có cảm giác mắc tiểu đầu tiên(Cg2), là 209,8 ± 51,9 mL, trị số lớn nhất là 344 mL và nhỏ nhất là 129 mL. Giá trị trung bình dung tích nước đổ vào bàng quang để có cảm giác buồn đi tiểu dữ dội(Cg3), là 261,5 ± 54,5 mL, trị số lớn nhất là 393 mL và nhỏ nhất là 189 mL. Ba giá trị trung bình của dung tích bàng quang tương ứng 3 mức độ cảm giác đầy. Cg1 > Cg2 > Cg3. Có sự khác biệt có nghĩa, n=30 (biểu đồ 3). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 450 Biểu đồ 3: Ba giá trị trung bình của dung tích bàng quang tương ứng 3 mức độ cảm giác đầy. Cg1 > Cg2 > Cg3. Có sự khác biệt có nghĩa, n=30. Phân tích Anova giữa giá trị trung bình của của cảm giác bàng quang phân bố theo từng nhóm tuổi, cho thấy không có sự khác biệt ý nghĩa. Tức là càng lớn tuổi thì dung tích bàng quang gây nên các cảm giác đi tiểu ở bàng quang ở người bình thường không thay đổi theo tuổi. BÀN LUẬN Về đối tượng nghiên cứu Các biến số có thể ảnh hưởng các chỉ số niệu động bình thường: Để xác định độ khách quan và tính trung thực, tính không bệnh lý của các chỉ số. Tác giả đã thực hiện các phép kiểm định theo 2 biến số liên quan đến tiêu chuẩn chọn bệnh: Phân tích theo biến số là các lớp: theo diễn tiến tự nhiên, người lớn tuổi hơn có thể chức năng của các cơ quan của cơ thể sẽ biến đổi thường theo chiều đi xuống. Qua các bảng phân tích cũng đã phát hiện một số chỉ số niệu động có thay đổi theo lớp tuổi. Phân tích theo biến số là các triệu chứng đường tiết niệu dưới là các bảng điềm IPSS và QoL. Trong đó chủ yếu là QoL. Cách chọn đầu vào là những người có IPSS≤3/35 điểm là đúng. Trong tất cả các phân tích số liệu theo điểm IPSS, đã cho thấy biến số này không ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê trên các chỉ số niệu động. Như vậy IPSS≤5/35 điểm và QoL ≤1điểm có thể chấp nhận như trường hợp bình thường về niệu động. Những người đến đo niệu động học là những người được cho là bình thường, chúng tôi tham khảo theo thang điểm của IPSS thì tổng điểm IPSS dưới 5 và hiện tại những người tình nguyện đo niệu động học này không có những triệu chứng bất thường của đường tiết niệu dưới, sau đó chúng tôi sẽ làm bảng điểm để đánh giá chất lượng cuộc sống của họ và những người này đều có chất lượng cuộc sống tốt với thang điểm dưới 3. Những giá trị phù hợp với nghiên cứu của tạp chí nghiên cứu về chất lượng cuộc sống năm 2010(61). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 451 Mặt khác, một số nghiên cứu khác đánh giá mối liên quan giữa lưu lượng niệu dòng tối đa với tuổi ở nam giới cũng cho kết quả khi tuổi càng tăng thì lưu lượng niệu dòng tối đa càng giảm(26), nhưng ở trẻ em khi tuổi càng tăng thì lưu lượng niệu dòng tối đa càng tăng(27,32,57). Chúng tôi thấy lưu lượng niệu dòng tối đa có thể sẽ giảm theo tuổi, khi tuổi càng cao thì lưu lượng niệu dòng tối đa càng giảm. Nên chúng tôi chia làm hai nhóm tuổi nhỏ và lớn hơn 50 cho kết quả những người có tuổi lớn 50 thì lưu lượng niệu dòng tối đa sẽ giảm hơn so với những người có tuổi nhỏ hơn 50, kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Siroky MB (2004)(55). Mối tương quan giữa chỉ số khối cơ thể và lưu lượng niệu dòng tối đa là mối tương quan thuận nghĩa là chỉ số khối cơ thể tăng thì lưu lượng niệu dòng tối đa cũng tăng theo. Trong nghiên cứu này chúng tôi chưa phân tích các yếu tố BMI và chỉ số niệu động. Các yếu tố khác liên quan đến tiểu chuẩn người bình thường: Tuổi trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi 44,7 ± 9,9 (năm), trong khi đó tuổi trung bình trong nghiên cứu của Brostrom S (2002) là 52 tuổi (nhỏ nhất 39, lớn nhất 72)(7). Trong nghiên cứu Madersbacher S (1998) thì tuổi ở những người có rối loạn đường tiết niệu dưới thường có độ tuổi lớn hơn với tuổi trung bình là 59 ± 16 (tuổi)(30). Tại Việt Nam, tuổi thường đến điều trị rối loạn đường tiết niệu dưới là 49,92 (tuổi)(16) nên chúng tôi chọn đối tượng trong nghiên cứu ở độ tuổi này đánh giá trị số bình thường. Về kết quả nghiên cứu Tổng thể tích nước tiểu tống xuất qua niệu đạo Lưu lượng niệu dòng tối đa bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bao gồm tổng dung tích nước tiểu tống xuất qua niệu đạo, tâm lý, tuổi, tăng áp lực ổ bụng, bệnh lý ở cơ detrusor và đề kháng niệu đạo(66). Bảng 16: So sánh giá trị trung bình của tổng dung tích nước tiểu tống xuất qua niệu đạo (VV) với các tác giả khác Tác giả Năm Số trường hợp VV P Groutz A(19) (1) 1999 166 315 ± 70 (1) so (4) p > 0,05 Unsal A(62) (2) 2004 36 331,8 ± 13,3 (2) so (4) p > 0,05 Barapatre Y(5) (3) 2009 308 291 ± 167 (3) so (4) p > 0,05 BVCR(4) 2011 31 330,1 ± 147,9 Tổng dung tích nước tiểu tống xuất qua niệu đạo trung bình 330,1 ± 147,9 mL, giá trị nhỏ nhất là 112 mL và lớn nhất là 731 mL. Giá trị tổng dung tích nước tiểu tống xuất qua niệu đạo trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự như Groutz A (1999)(19), Unsal A (2004)(62), Barapatre Y (2009)(5), không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) giữa các tác giả với chúng tôi. Khi có bệnh lý gây rối loạn tống xuất nước tiểu thì tổng dung tích nước tiểu được tống xuất qua niệu đạo giảm. Lưu lượng nước tiểu có khuynh hướng giảm theo toán đồ của Liverpool là dưới đường bách phân vị thứ 10 trong những trường hợp đi tiểu khó khăn giúp chẩn đoán sớm khoảng 38%(14) đến 39%(21) bệnh nhân có bệnh lý đường tiết niệu dưới. Ngược lại, lưu lượng nước tiểu có xu hướng chảy nhanh hơn với phụ nữ có tăng hoạt động của cơ detrusor. Năm mươi phần trăm những trường hợp có lưu lượng nước tiểu chảy nhanh trên đường bách phân vị 90, thì những phụ nữ này sau đó được chẩn đoán là cơ detrusor tăng hoạt động(23). Dựa vào các kết quả ghi nhận được khi thực hiện phép đo, chúng tôi nhận thấy rằng lưu lượng niệu dòng tối đa tỷ lệ thuận với tổng dung tích nước tiểu tống xuất qua niệu đạo, tỷ lệ nghịch với tuổi. Thể tích nước tiểu tồn lưu Bình thường dung tích nước tiểu tồn lưu có giá trị nhỏ hơn 50mL(51), trong nghiên cứu chúng tôi dung tích nước tiểu tồn lưu là 18,5 ± 13,4 mL Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 452 nằm trong giới hạn bình thường và cũng phù hợp với nghiên cứu trước đó của Wyndaele JJ(68) và Pfisterer MH(47) (bảng 14). Bảng 17: So sánh giá trị trung bình của dung tích nước tiểu tồn lưu với các tác giả khác Tác giả Năm Số trường hợp PVR P Wyndaele JJ(68) (1) 1999 10 19 (1) so (3) p >0,05 Pfisterer MH(47) (2) 2007 24 20 (2) so (3) p > 0,05 BVCR (3) 2011 31 18,5 ± 13,4 Các toán đồ dùng trong khảo sát Qmax + Năm 1989, Haylen và cộng sự đã đưa ra toán đồ Liverpool để cung cấp giá trị tham khảo bình thường đối với lưu lượng nước tiểu tối đa và trung bình, mức dao động của dung tích nước tiểu được tống xuất(23). Trong tất cả các trường hợp đo bằng máy Albyn ở loạt này, các chỉ số tìm ra đều phù hợp rơi vào vùng bình thường trên toán đồ Liverpool. Tham khảo các trị Qmax với các tác giả khác Giá trị của lưu lượng niệu dòng tối đa giúp phát hiện những bất thường về lượng nước tiểu được tống xuất và loại bệnh lý gây bất thường tống xuất. Trong nghiên cứu của chúng tôi lưu lượng niệu dòng tối đa trung bình ở người phụ nữ bình thường là 24,84 ± 5,26 (mL/giây), so sánh với số liệu được công bố với các chủng dân khác, nhưng cho thấy có nhiều tương đồng (bảng 15). Bảng 18: So sánh giá trị trung bình của Qmax với các tác giả khác Tác giả Năm Số TH Qmax p: (4) so sánh với (1),(2),(3) Fantl JA(16) (1) 1983 60 24,4 ± 7,5 p > 0,05 Unsal A(62) (2) 2004 36 28,09 ± 0,66 p < 0,05 Barapatre Y(5) (3) 2009 308 23,06 ± 9,4 p > 0,05 BVCR (4) 2011 31 24,84 ± 5,26 Giá trị trung bình của lưu lượng niệu dòng tối đa trong nghiên cứu chúng tôi tương đương với nghiên cứu của Barapatre Y(5) và Fantl JA(16) do những nghiên cứu này chọn nhóm tuổi dao động từ tuổi nhỏ nhất đến tuổi lớn nhất để thực hiện nghiên cứu. Trị số trung bình của lưu lượng niệu dòng tối đa trong nghiên cứu của Unsal A(62) lớn hơn chúng tôi do nhóm tuổi được chọn để nghiên cứu dao động từ 21-44 (năm) nhỏ hơn nhóm tuổi mà chúng tôi chọn để nghiên cứu từ 22-66 (năm). Lưu lượng nước tiểu tối đa sẽ thấp hơn ở những người có rối loạn chức năng đường tiết niệu dưới khi so với những người không triệu chứng. Bàn luận về kết quả đo áp lực đồ bàng quang Áp lực của cơ detrusor (pdet) Trong pha đổ đầy nước tiểu không thay đổi hay chỉ thay đổi rất ít và không có các cơn co thắt tự phát xảy ra mặc dù được kích thích. Trị số trung bình của áp lực cơ detrusor trên những phụ nữ bình thường trong nghiên cứu chúng tôi là 45,1 ± 13,1 cm H2O cũng nằm trong giới hạn bình thường theo nghiên cứu của patel u (2010)(45) là trong khoảng 40-60 cm H2O. Áp lực cơ detrusor không còn ở giá trị bình thường khi đo áp lực đồ bàng quang có thể giúp phát hiện được sự tăng hoạt động của cơ detrusor và giúp ích rất nhiều trong chẩn đoán bệnh lý bàng quang nếu đi kèm với tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Bởi vì, tăng hoạt động cơ detrusor vô căn có thể gặp trong 30%-35% ở những trường hợp tiểu không kiểm soát khi gắng sức đã trải qua phẫu thuật(33). Áp lực trong bàng quang Áp lực ổ bụng trung bình ở những phụ nữ bình thường trong nghiên cứu chúng tôi là 54,1 ± 16,2 cm H2O cũng nằm trong giới hạn bình thường theo nghiên cứu của Abrams P (2006)(2) thì áp lực ổ bụng muốn đi tiểu được phải trên 40 cm H2O. Trong trường hợp bàng quang không co thắt, sự đi tiểu là do sự giãn hoàn toàn của cơ thắt niệu đạo kết hợp với sự gia tăng áp lực Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 453 trong ổ bụng, nên theo dõi áp lực ổ bụng rất cần thiết để xác định giá trị áp lực cơ detrusor thực sự ở những bệnh nhân đã bị mất phản xạ(39). Trong nghiên cứu trên những phụ nữ bình thường của chúng tôi thì giá trị áp lực trong bàng quang trung bình là 98,2 ± 15,8 cm H2O. Áp lực trong bàng quang (Intravesical pressure) được đo trực tiếp từ bên trong bàng quang, có được từ 2 nguồn: áp lực ổ bụng (Pabd) và áp lực từ cơ detrusor. Dung tích bàng quang và các cảm giác liên quan Về các tiêu chuẩn để đánh giá dung tích bình thường của bàng quang (sinh lý): -Theo Paul Abrams(1), giá trị dung tích bàng quang đổ đầy trong nghiên cứu chúng tôi là 351,5 ± 67,1 mL nằm trong giới hạn bình thường phù hợp với kết quả nghiên cứu của Wyndaele JJ (bảng 4.4.), và giá trị dung tích bàng quang đổ đầy bình thường từ 300 đến 550 mL(68). Khi dung tích bàng quang giảm dưới 250mL và không kèm tăng áp lực cơ detrusor mà bệnh nhân đã có cảm giác muốn đi tiểu thì đó là bệnh lý tăng nhạy ở bàng quang, viêm mô kẽ bàng quang Bảng 19: So sánh giá trị trung bình của dung tích bàng quang đổ đầy với các tác giả khác Tác giả Năm Trung bình Max Min Wyndaele JJ(68) 1999 453 ± 146,4 321 822 BVCR 2011 351,5 ± 67,1 270 545 Cảm giác của bàng quang trong quá trình được đổ đầy Giá trị trung bình của dung tích nước đổ đầy vào bàng quang để có được cảm giác buồn tiểu đầu tiên trong nghiên cứu của chúng tôi là 157,5 ± 36,6 mL là giá trị được thực hiện trên những phụ nữ bình thường nằm trong giới hạn bình thường. Cảm giác buồn đi tiểu đầu tiên xuất hiện khi dung tích nước đổ đầy chiếm khoảng 50% dung tích bàng quang, giá trị trung bình của cảm giác buồn đi tiểu đầu tiên trong nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên những phụ nữ bình thường là 157,5 ± 36,6 mL, nằm trong giới hạn bình thường từ khoảng 150-250 mL(52). Cảm giác buồn đi tiểu dữ dội xuất hiện khi dung tích nước đổ đầy chiếm khoảng 90% dung tích bàng quang, giá trị trung bình của cảm giác buồn đi tiểu dữ dội ở những phụ nữ bình thường trong nghiên cứu này là 261,5 ± 54,5 mL, nằm trong giới hạn bình thường từ 300-500 mL(52). Tăng cảm giác buồn tiểu hay gặp trong những trường hợp bàng quang tăng hoạt tính thì cảm giác buồn tiểu đầu tiên sẽ nhỏ hơn 100 mL. Những trường hợp giảm cảm giác đặc trưng bằng giảm cảm giác buồn tiểu đầu tiên, cảm giác buồn đi tiểu đầu tiên và những bệnh nhân này không bao giờ có cảm giác buồn đi tiểu dữ dội. Bên cạnh đó, những trường hợp không có cảm giác khi dung tích bàng quang đã ở mức tối đa thì bệnh nhân đã có bất thường về thần kinh chi phối. KẾT LUẬN Tóm lại, qua nghiên cứu nhỏ này nhằm tìm ra các chỉ số bình thường về niệu động học trên đối tượng là phụ nữ Việt Nam. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra được một số các chỉ số cơ bản, hy vọng có thể giúp cho ngành Tiết Niệu-Phụ khoa hiện mới phát triển có thêm tư liệu để đối chiếu, nghiên cứu và điều trị. Tuy nhiên, do phạm vi của đề tài và còn nhiều giới hạn, nên số trường hợp nghiên cứu còn ít; một số chỉ số chưa có phương tiện để đào sâu như: áp lực niệu đạo, áp suất niệu dòng, BMI và các chỉ số niệu động Chúng tôi hy vọng có thể tiếp tục công trình này trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abrams P (2006). Urodynamic Techniques, Urodynamics, Springer, pp. 20-21. 2. Abrams P (2006). Urodynamics in Clinical Practice, Urodynamics, Springer, pp. 162. 3. Abrams P, Cardozo L, Fall M, et al. (2002). The standardisation of terminology of lower urinary tract function: report from the Standardisation Sub-committee of the International Continence Society, Am J Obstet Gynecol, 187 (1), pp. 116-26. 4. Abrams P, Cardozo L, Fall M, et al. (2002). The standardisation of terminology of lower urinary tract function: report from the Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Chuyên Đề Thận Niệu 454 Standardisation Sub-committee of the International Continence Society, Neurourol Urodyn, 21 (2), pp. 167-78. 5. Barapatre Y, Agarwal MM, Singh SK, et al. (2009). Uroflowmetry in healthy women: Development and validation of flow-volume and corrected flow-age nomograms, Neurourol Urodyn, 28 (8), pp. 1003-9. 6. Barry MJ, Fowler FJ, Jr., O'Leary MP, et al. (1992). The American Urological Association symptom index for benign prostatic hyperplasia. The Measurement Committee of the American Urological Association, J Urol, 148 (5), pp. 1549-57; discussion 1564. 7. Brostrom S, Jennum P, and Lose G (2002). Short-term reproducibility of cystometry and pressure-flow micturition studies in healthy women, Neurourol Urodyn, 21 (5), pp. 457-60. 8. Cameron AP (2011). Incontinence: The role of ambulatory urodynamics in spinal cord injury, Nat Rev Urol, 8 (6), pp. 298-9. 9. Cardozo L,Staskin D (2001). Cystometry, Textbook of female urology and urogynaecology, Isis Medical Media, pp. 203. 10. Cardozo L,Staskin D (2001). Uroflowmetry, Textbook of female urology and urogynaecology, Isis Medical Media, pp. 187. 11. Chapple CR, MacDiarmid SA, and Patel A (2009). Urodynamics procedures, Urodynamics made easy, Churchill Livingstone, pp. 19-74. 12. Chang SL, Howard PS, Koo HP, Macarak EJ. (1998). Role of type III collagen in bladder filling. Neurourol Urodyn. 1998;17(2):135- 45. 13. Corcos J,Schick E (2008). Normal urodynamic parameters in adults, Textbook of the neurogenic bladder, Informa Healthcare, pp. 501. 14. Costantini E, Mearini E, Pajoncini C, et al. (2003). Uroflowmetry in female voiding disturbances, Neurourol Urodyn, 22 (6), pp. 569-73. 15. Digesu GA, Hendricken C, Fernando R, et al. (2009). Do women with pure stress urinary incontinence need urodynamics?, Urology, 74 (2), pp. 278-81. 16. Đỗ Vũ Phương VLC, Trần Lê Linh Phương, Lê Sỹ Hùng, Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng, Nguyễn Văn Ân, Trần Ngọc Khắc Linh (2011). Kết quả phương pháp phẫu thuật dùng cân cơ thẳng bụng trong điều trị tiểu không kiểm soát khi gắng sức ở nữ, Y học thực hành, 769 + 770, pp. 398-460. 17. Fantl JA, Smith PJ, Schneider V, et al. (1983). Fluid weight uroflowmetry in women, Am J Obstet Gynecol, 145 (8), pp. 1017-24. 18. Gray M,Krissovich M (2004). Characteristics of North American urodynamic centers: measuring lower urinary tract filling and storage function, Urol Nurs, 24 (1), pp. 30-8. 19. Groutz A, Gordon D, Lessing JB, et al. (1999). Prevalence and characteristics of voiding difficulties in women: are subjective symptoms substantiated by objective urodynamic data?, Urology, 54 (2), pp. 268-72. 20. Haylen BT (1989). Residual urine volumes in a normal female population: application of transvaginal ultrasound, Br J Urol, 64 (4), pp. 347-9. 21. Haylen BT, Krishnan S, Schulz S, et al. (2007). Has the true prevalence of voiding difficulty in urogynecology patients been underestimated?, Int Urogynecol J Pelvic Floor Dysfunct, 18 (1), pp. 53-6. 22. Haylen BT, Law MG, Frazer M, et al. (1999). Urine flow rates and residual urine volumes in urogynecology patients, Int Urogynecol J Pelvic Floor Dysfunct, 10 (6), pp. 378-83. 23. Haylen BT, Parys BT, Anyaegbunam WI, et al. (1990). Urine flow rates in male and female urodynamic patients compared with the Liverpool nomograms, Br J Urol, 65 (5), pp. 483-7. 24. Jacques G. Susset (1985). Urodynamic society presidential address: Urodynamics—a step toward experimental urology, Neurourology and Urodynamics, 4 (3), pp. 157-160. 25. Jarvis GJ, Hall S, Stamp S, et al. (1980). An assessment of urodynamic examination in incontinent women, Br J Obstet Gynaecol, 87 (10), pp. 893-6. 26. Jorgensen JB, Jensen KM, Bille-Brahe NE, et al. (1986). Uroflowmetry in asymptomatic elderly males, Br J Urol, 58 (4), pp. 390-5. 27. Kajbafzadeh AM, Yazdi CA, Rouhi O, et al. (2005). Uroflowmetry nomogram in Iranian children aged 7 to 14 years, BMC Urol, 5, pp. 3. 28. Klarskov P,Mortensen S (1999). URODYN. Urodynamics – introduction to clinical application., Copenhagen, pp. 14-22. 29. Klevmark B (1999). Natural pressure-volume curves and conventional cystometry, Scand J Urol Nephrol Suppl, 201, pp. 1-4. 30. Madersbacher S, Pycha A, Schatzl G, et al. (1998). The aging lower urinary tract: a comparative urodynamic study of men and women, Urology, 51 (2), pp. 206-12. 31. Macarak EJ, Howard PS (1999) The role of collagen in bladder filling. Adv Exp Med Biol. 1999;462:215-23; discussion 225-33. 32. Mattsson S,Spangberg A (1994). Flow rate nomograms in 7- to 16-year-old healthy children, Neurourol Urodyn, 13 (3), pp. 267- 80. 33. McGuire EJ, Lytton B, Kohorn EI, et al. (1980). The value of urodynamic testing in stress urinary incontinence, J Urol, 124 (2), pp. 256-8. 34. Mourtzinos A (2010). Are multichannel urodynamics required prior to surgery ina woman with stress urinary incontinence?, Curr Urol Rep, 11 (5), pp. 323-7. 35. Naoki Yoshimura, Michael B. Chancellor (2007). Physiology and pharmacology of the bladder and urethra, Campbell-Walsh urology: ninth edition review, Elsevier Saunders, pp. 1922-1972. 36. Netter FH (2004). The Netter PresenterTM Urinary System: Structure and Function in Overactive Bladder, Icon Custtom Communication LLC, 295 North Stree, Teteboro, NJ07608. 37. Netter FH (2006). Urinary bladder - Orientation and Supports, Atlas of human anatomy, Saunders/Elsevier, pp. 371. 38. Netter FH (2006). Urinary bladder of female, Atlas of human anatomy, Saunders/Elsevier, pp. 372. 39. Ngô Gia Hy (1983). Sinh lý bọng đái, Niệu học, Nhà xuất bản Y học, thành phố Hồ Chí Minh, pp. 83-106. 40. Nguyễn Quang Quyền (2004). Niệu quản, bàng quang và niệu đạo, Bài giảng Giải phẫu học, Nhà xuất bản Y học, pp. 219. 41. Nguyễn Quang Quyền (2004). Niệu quản, bàng quang và niệu đạo, Bài giảng Giải phẫu học, Nhà xuất bản Y học, pp. 208-214. 42. Nguyễn Đạo Thuấn (2008). Vai trò phép đo áp lực niệu dòng trong tiên đoán kết quả cắt đốt nội soi bướu lành tiền liệt tuyến, Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, tr.7-13. 43. Nickell K, Boone TB (1996). Peripheral neuropathy and peripheral nerve injury, Urol Clin North Am, 23 (3), pp. 491-500. 44. Nitti VW (1998). Practical engineering aspects of urodynamics, Practical urodynamics, W.B. Saunders, pp. 5-14. 45. Nitti VW (1998). Urodynamics: Contemporary Evolution, Practical urodynamics, W.B. Saunders, pp. 2-4. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 3 * 2012 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận Niệu 455 46. Patel U (2010). Imaging modalities used for assessment of the bladder, Imaging and urodynamics of the lower urinary tract, Springer, pp. 21. 47. Pfisterer MH, Griffiths DJ, Rosenberg L, et al. (2007). Parameters of bladder function in pre-, peri-, and postmenopausal continent women without detrusor overactivity, Neurourol Urodyn, 26 (3), pp. 356-61. 48. Phạm Đình Lựu (2005). Chức năng nội tiết của thận - Thăm dò chức năng thận - Sự bài xuất nước tiểu, Sinh lý học y khoa, tập 1, Nhà xuất bản Y học, pp. 288-289. 49. Powell PH, Shepherd AM, Lewis P, et al. (1981). The accuracy of clinical diagnoses assessed urodynamically, Prog Clin Biol Res, 78, pp. 201-3. 50. Ramamurthy HR,Kanitkar M (2010). Non invasive urodynamic assessment in children--are they reliable? Validation of non- invasive urodynamics in children with functional voiding disorders, Indian J Pediatr, 77 (12), pp. 1400-4. 51. Rao PN, Srirangam SJ, and Preminger GM (2007). Urodynamics, Urological tests in clinical practice, Springer, pp. 173. 52. Rao PN, Srirangam SJ, and Preminger GM (2007). Urodynamics, Urological tests in clinical practice, Springer, pp. 177. 53. Rosier PF, de la Rosette JJ, Koldewijn EL, et al. (1995). Variability of pressure-flow analysis parameters in repeated cystometry in patients with benign prostatic hyperplasia, J Urol, 153 (5), pp. 1520-5. 54. Singh G, Lucas M, Dolan L, et al. (2010). Minimum standards for urodynamic practice in the UK, Neurourol Urodyn, 29 (8), pp. 1365-72. 55. Siroky MB (2004). Urodynamic studies, Handbook of urology: diagnosis and therapy, Lippincott Williams & Wilkins, pp. 90. 56. Skandalakis JE,Colborn GL (2004). Skandalakis' Surgical anatomy: the embryologic and anatomic basis of modern surgery, PMP ; [London: McGraw-Hill] [distributor], Athens, Greece, 2 v. (xvii, xvii, 1720 p.). 57. Szabo L,Fegyverneki S (1995). Maximum and average urine flow rates in normal children--the Miskolc nomograms, Br J Urol, 76 (1), pp. 16-20. 58. Tanagho EA, McAninch JW, and Smith DRGu (2008). Anatomy of the Genitourinary Tract, Smith's general urology, McGraw- Hill Medical, pp. 7. 59. Tanagho EA, McAninch JW, and Smith DRGu (2008). Neuropathic bladder disorders, Smith's general urology, McGraw-Hill Medical, pp. 438-454. 60. Tanagho EA, McAninch JW, and Smith DRGu (2008), Urodynamic studies, Smith's general urology, McGraw-Hill Medical, pp. 457. 61. The abstracts are grouped by symposia (2010). Abstracts of the International Society for Quality of Life Research ~ 2010 Conference. October 27-30, 2010. London, United Kingdom, Qual Life Res, 19 (Suppl 1), pp. 2-144. 62. Unsal A,Cimentepe E (2004). Voiding position does not affect uroflowmetric parameters and post-void residual urine volume in healthy volunteers, Scand J Urol Nephrol, 38 (6), pp. 469-71. 63. Valentini FA, Robain G, and Marti BG (2011). Urodynamics in women from menopause to oldest age: what motive? What diagnosis?, Int Braz J Urol, 37 (1), pp. 100-7. 64. van Leijsen SA, Hoogstad-van Evert JS, Mol BW, et al. (2011). The correlation between clinical and urodynamic diagnosis in classifying the type of urinary incontinence in women. A systematic review of the literature, Neurourol Urodyn, 30 (4), pp. 495-502. 65. Walsh PC (2002). The neurourologic evaluation, Campbell's urology, Saunders, pp. 900-930. 66. Wein AJ (2007). Urodynamic and videourodynamic evaluation of voiding dysfunction, Campbell-Walsh urology: ninth edition review, Elsevier Saunders, pp. 1986-91. 67. World Health Organization (2000). The Asia-Pacific perspective: redefining obesity and its treatment, pp. 18. 68. Wyndaele JJ (1999). Normality in urodynamics studied in healthy adults, J Urol, 161 (3), pp. 899-902. 69. Yeung CK (2001). Diagnostic evaluation, Campbell-Walsh urology: ninth edition review, Elsevier Saunders, pp. 3604-3656. 70. Zinner NR (1980). Progress in urodynamics, J Urol, 124 (5), pp. 683

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_do_cac_chi_so_nieu_dong_binh_thuong_tren_phu_nu.pdf
Tài liệu liên quan