Kết quả nổi bật và kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng thôn, bản nông thôn mới ở các xã miền núi khó khăn, tỉnh Thanh Hóa

Từ thực tiễn chỉ đạo triển khai thực hiện xây dựng NTM cấp thôn, bản, Thanh Hóa rút ra một số bài học kinh nghiệm, nhƣ sau: Một là, phải làm tốt , thường xuyên và liên lục công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, nội dung của chương trình xây dựng NTM cấp thôn, bản cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; khơi dậy được sự đồng thuận và tinh thần thi đua chung sức xây dựng NTM. Hai là, cấp ủy, chính quyền địa phương phải quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, sâu sát thực tế, chuyên cần, cầu thị, làm tốt quy chế dân chủ ở cơ sở và phải tạo được môi trường để người dân phát huy được vai trò chủ thể của mình. Ba là, phải xuất phát từ nhu cầu, tình hình thực tế và thế mạnh của từng địa phương để có kế hoạch xây dựng NTM cấp thôn, bản khả thi. Lựa chọn những nội dung mà người dân cần và phục vụ trực tiếp, sát thực đến sản xuất, đời sống của người dân thì làm trước. Chú trọng thực hiện các tiêu chí thu nhập, giảm nghèo, vệ sinh môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, an ninh, an toàn xã hội để tạo điểm nhấn, bước đột phá. Triển khai, xây dựng mô hình thôn, bản NTM kiểu mẫu. Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát; phát huy vai trò giám sát và phản biện của MTTQ, các tổ chức chính trị, xã hội và giám sát của cộng đồng dân cư trong xây dựng thôn, bản NTM; đặc biệt là tổ chức đánh giá sự hài lòng của người dân đối với kết quả xây dựng NTM trên địa bàn thôn, bản.160 Năm là, có chính sách hỗ trợ kích cầu hợp lý để động viên, khuyến khích địa phương và người dân chung sức xây dựng NTM, đồng thời cần đa dạng hóa các nguồn lực: lồng ghép các chương trình, dự án khác, kêu gọi hỗ trợ từ các doanh nghiệp, đơn vị, huy động đóng góp của con em xa quê thành đạt. Những kết quả đạt được thời gian qua là đáng ghi nhận. Kết quả này đã khẳng định, đây là chủ trương đúng đắn, cách làm sáng tạo, phù hợp và hiệu quả. Việc triển khai, thực hiện Quyết định số 1385/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sẽ tạo cơ sở, động lực thúc đẩy mạnh mẽ phong trào xây dựng NTM cấp thôn, bản ở những địa phương có điều kiện tương đồng với Thanh Hóa, góp phần hoàn thành mục tiêu của Chương trình xây dựng NTM cả giai đoạn 2016-2020.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả nổi bật và kinh nghiệm thực tiễn trong xây dựng thôn, bản nông thôn mới ở các xã miền núi khó khăn, tỉnh Thanh Hóa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
156 UBND TỈNH THANH HÓA KẾT QUẢ NỔI BẬT VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN TRONG XÂY DỰNG THÔN, BẢN NÔNG THÔN MỚI Ở CÁC XÃ MIỀN NÖI KHÓ KHĂN, TỈNH THANH HÓA Thanh Hoá là tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ với 3 vùng sinh thái riêng biệt, diện tích tự nhiên là 11.129,48 km2 (đứng thứ 5 so với các tỉnh, thành của cả nước); dân số là 3,6 triệu người (đứng thứ 3 so với các tỉnh, thành của cả nước); có 7 dân tộc, gồm: Kinh, Thái, Mường, Thổ, Dao, H‟mông, Khơ mú; có 27 huyện, thị xã, thành phố, 635 xã, phường, thị trấn, trong đó có 573 xã xây dựng nông thôn mới (NTM), với 3.888 thôn, bản. Là tỉnh có điểm xuất phát về kinh tế thấp, nguồn lực khó khăn, chưa tự cân đối được ngân sách, khi bắt đầu triển khai thực hiện Chương trình xây dựng NTM, bình quân toàn tỉnh mới đạt 4,7 tiêu chí/xã, thu nhập bình quân khu vực nông thôn năm 2010 ở mức 8,9 triệu đồng/người (thấp hơn gần 4 triệu đồng so với bình quân khu vực nông thôn của cả nước), tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn ở mức 26,96% (cao hơn 1,5 lần so với tỷ hộ nghèo khu vực nông thôn của cả nước). Trong 573 xã xây dựng NTM, có 211 xã miền núi và có tới 85 xã thuộc 6 huyện nghèo đang thực hiện Chính sách theo Nghị quyết 30a/NQ-CP của Chính phủ; các xã miền núi đều có địa bàn rộng, dân cư phân bố rải rác, tỷ lệ hộ nghèo cao, mức thu nhập của người dân thấp, mặt bằng dân trí cũng như nhận thức của nhân dân về Chương trình còn hạn chế, kết cấu hạ tầng KT-XH thiếu và yếu, sản xuất chậm phát triển, khi triển khai xây dựng NTM, bình quân mới đạt 3,3 tiêu chí/xã, chưa có xã nào đạt tiêu chí Thu nhập và Hộ nghèo. Thực tế giai đoạn đầu (2010-2013) triển khai thực hiện Chương trình xây dựng NTM, số xã đạt chuẩn NTM của tỉnh Thanh Hóa đều tập trung ở khu vực đồng bằng, còn đối với khu vực miền núi việc xây dựng hoàn thành 19 tiêu chí NTM của các xã là rất khó khăn, vì vậy, các địa phương này bị “trắng xã NTM”, thậm chí còn “dậm chân tại chỗ”. Nghiên cứu Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM, nhận thấy có tới 14/19 tiêu chí liên quan trực tiếp đến thôn, bản; qua khảo sát thực tế, các công trình đầu tư trên địa bàn thôn, bản có nhu cầu kinh phí ít hơn so với công trình cấp xã, phù hợp với khả năng huy động sức dân và linh hoạt hơn trong bố trí nguồn lực của địa phương. Vì vậy, bên cạnh việc xây dựng NTM cấp xã, tỉnh Thanh Hóa đã linh hoạt, sáng tạo trong xây dựng NTM ở thôn, bản của các huyện miền núi, với phương châm “có nhiều thôn, bản NTM thì sẽ có xã NTM”. Để có bước đi phù hợp, Thanh Hóa chỉ đạo các huyện miền núi lựa chọn một số thôn, bản làm điểm để từ đó rút kinh nghiệm và nhân ra diện rộng. Theo đó, lựa chọn những thôn, bản có điều kiện, có đội ngũ lãnh đạo đoàn kết, gương mẫu, năng động, sáng tạo, đủ năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM của thôn, bản; được cán bộ và nhân dân trong thôn, bản đồng thuận, quyết tâm thi đua phấn đấu hoàn thành các nội dung, tiêu chí NTM; Đầu năm 2014, tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Bộ tiêu chí và quy định trình tự, thủ tục, hồ sơ xét, công nhận thôn, bản đạt chuẩn NTM (đến năm 2017, được điều chỉnh, bổ sung), gồm 14 tiêu chí: (1) Việc làm, (2) Thu nhập, (3) Hộ nghèo, (4) Nhà ở dân cư và vườn hộ, (5) Giao thông, (6) Giáo dục & Đào tạo, (7) Y tế, (8) Văn hóa, (9) 157 Môi trường và ATTP, (10) Thủy lợi, (11) Điện, (12) Thông tin truyền thông, (13) Hệ thống chính trị, (14) Quốc phòng và An ninh), đây là căn cứ để các thôn, bản rà soát, đánh giá thực trạng, xây dựng kế hoạch phấn đấu và tổ chức thực hiện. Thẩm quyền quyết định công nhận được giao cho Chủ tịch UBND cấp huyện. Từ thực tiễn đặt ra, tranh thủ sự hỗ trợ của cấp trên, sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1385/QĐ-TTg ngày 21/10/2018 về phê duyệt, triển khai thực hiện Đề án hỗ trợ xây dựng thôn, bản, ấp thuộc các xã đặc biệt khó khăn khu vực biên giới, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo xây dựng NTM và giảm nghèo bền vững, Thanh Hóa đã chủ động phối hợp với Văn phòng Điều phối NTM Trung ương tổ chức hội nghị triển khai, hướng dẫn cho các địa phương thuộc phạm vi Đề án (trong đó, Thanh Hóa có 122 thôn, bản thuộc 5 huyện miền núi). Để nâng cao năng lực và thống nhất cách thức triển khai thực hiện, UBND tỉnh giao cho Văn phòng Điều phối NTM tỉnh, UBND các huyện mở các lớp tập huấn kiến thức xây dựng NTM cho các đối tượng là Trưởng thôn, bản, Chủ tịch UBND xã, Bí thư Đảng ủy xã và cán bộ Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện. UBND tỉnh đã ban hành chính sách hỗ trợ 100 triệu đồng cho mỗi thôn, bản đạt chuẩn NTM; khen thưởng hàng năm và khen thưởng giai đoạn cho các thôn, bản đặc biệt khó khăn có thành tích xuất sắc trong phong trào “Chung sức xây dựng NTM” (thưởng 50 triệu đồng/thôn, bản đối với thôn, bản được khen thưởng giai đoạn). Sở Nông nghiệp và PTNT, với vai trò là cơ quan thường trực BCĐ, đã phân công cho các đơn vị ngành Nông nghiệp trực tiếp theo dõi, hướng dẫn, đỡ đầu thôn, bản xây dựng NTM bằng nhiều hình thức, như: hướng dẫn kỹ thuật chuyển giao tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất, đào tạo nghề cho lao động, xây dựng các mô hình phát triển sản xuất hiệu quả, hỗ trợ tiền mặt, hiện vật, hỗ trợ xi măng, Nhiều huyện mặc dù ngân sách còn khó khăn nhưng cũng đã ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ cho các thôn, bản, như: hỗ trợ xi măng làm đường giao thông, hỗ trợ xây dựng nhà văn hóa thôn, hỗ trợ xây dựng mô hình phát triển sản xuất và thưởng từ 20-100 triệu đồng/thôn đạt chuẩn NTM (Như Thanh, Thạch Thành, Bá Thước, Ngọc Lặc, Lang Chánh); ngoài ra, các địa phương đã kết hợp vốn đầu tư thuộc các chương trình, dự án đang thực hiện trên địa bàn để lồng ghép xây dựng thôn, bản NTM. Thông qua đó, nhiều mô hình phát triển sản xuất đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, được nhân ra diện rộng, điển hình, như: Mô hình trồng Cam ở thôn Mợ xã Thạch Quảng, với quy mô 4,5 ha, Thanh Long ruột đỏ ở thôn 4 xã Thành Tiến (Thạch Thành) cho thu nhập khoảng 350trđ/ha. Mô hình trồng cây Chanh Leo, thôn Quang Hòa, xã Quang Trung (Ngọc Lặc), cho thu nhập 300 trđ/ha; mô hình trồng Riềng làm gia vị tại thôn 5, thôn 6 xã Cán Khê (Như Thanh) cho thu nhập 170 trđ/ha; mô hình trồng Thanh long ruột đỏ, trồng Bưởi da xanh, Ổi Đài Loan ở các thôn Đồng Tâm, Ngọc Liên, Ngọc Tân, Yên Thịnh, Vạn Bảo, xã Thành Tâm (Thạch Thành) cho thu nhập 200 trđ/ha; mô hình trồng rau an toàn ở các thôn Điền Lý, Điền Tiến, xã Điền Lư (Bá Thước), quy mô 20 ha, cung cấp rau cho các huyện 30a; mô hình liên kết sản xuất 17 ha cây Ngô ngọt tại xã Vĩnh Quang (Vĩnh Lộc) với Công ty xuất nhập khẩu rau củ quả Đồng Giao, giá trị kinh tế bằng 1,5 lần so với trồng Ngô thương phẩm trên đất bãi ven sông Mã; Mô hình liên kết tiệu thụ sản phẩm Nếp cái Hoa vàng với công ty Sao Khuê, mô hình thâm canh cây Dứa tại xã Hà Long (Hà Trung); mô hình trồng rừng, kết hợp với chăn nuôi tái sinh rừng ở các thôn, bản thuộc huyện nghèo 30a... Sản xuất phát triển đã giúp người dân nâng cao thu nhập, giảm nghèo bền vững, điển hình như: Thôn Cẩm Bào, xã Vĩnh Long (Vĩnh Lộc), thu nhập người dân đạt 41 158 trđ/người/năm, hộ nghèo còn 4,89%; thôn 8, xã Vĩnh n (Vĩnh Lộc) thu nhập đạt 34 trđ/người/năm, hộ nghèo còn 3,38%; thôn Đồng Thọ, xã Mậu Lâm (Như Thanh) thu nhập đạt 36 trđ/người/năm, hộ nghèo còn 5,7%; thôn Xuân Chính, xã Yên Lễ (Như Xuân), thu nhập đạt 35 trđ/người/năm, hộ nghèo còn 4,3%; bản Chiềng, xã Nam Động (Quan Hóa), thu nhập đạt 33 trđ/người/năm, hộ nghèo còn 4,5%; bản Xắng Hằng, xã Yên Khương (Lang Chánh), thu nhập đạt 33 trđ/người/năm, hộ nghèo còn 4,3%; bản Sáng, xã Quang Chiểu (Mường Lát), thu nhập đạt 31 trđ/người/năm, không còn hộ nghèo... Sau gần 7 năm triển khai, xây dựng NTM ở cấp thôn, bản với cách tiếp cận sáng tạo và phù hợp, đã tạo sự lan tỏa sâu rộng, góp phần tích cực thay đổi bộ mặt nông thôn miền núi. Nhìn chung, tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã có bước phát triển khá toàn diện; đời sống vật chất, tinh thần vùng đồng bào được cải thiện rõ rệt, người nghèo đã tiếp cận thuận lợi và đầy đủ hơn các chính sách trợ giúp của Nhà nước; hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường và củng cố. Các nét văn hóa truyền thống được khôi phục, duy trì; an ninh trật tự xã hội được giữ vững. Thông qua việc triển khai thực hiện xây dựng NTM ở thôn, bản, giúp cho người dân thực sự phát huy vai trò chủ thể và chủ động hơn trong công việc của mình, giảm phụ thuộc, trông chờ, ỷ lại vào hỗ trợ của nhà nước, từ đó đẩy mạnh phong trào xây dựng NTM ở cấp xã, góp phần thu hẹp khoảng cách giữa 2 khu vực miền núi và đồng bằng trong quá trình xây dựng NTM. Kết quả nỗi bật đó là: - Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2011-2018 đạt 8,7%; năm 2018, GRDP bình quân đầu người đạt 1.202 USD. - Đã hình thành một số sản phẩm chủ lực, tạo đà cho phát triển nông nghiệp hàng hóa. Một số mô hình sản xuất có hiệu quả, ứng dụng tiến bộ KHCN được xây dựng và nhân rộng. Trong 5 năm (2014-2018), đã triển khai xây dựng được 605 mô hình phát triển sản xuất thuộc các chương trình MTQG, qua đó, đã giúp cho 10.869 hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được hưởng lợi từ các dự án, mô hình; bình quân có khoảng 15% hộ gia đình tham gia dự án thoát nghèo hàng năm. - Lĩnh vực văn hóa, xã hội có chuyển biến tích cực; đời sống nhân dân được cải thiện; an ninh lương thực được đảm bảo. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 45,5%; tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 94%, tỷ lệ trẻ mẫu giáo 5 tuổi ra lớp đạt 99,92%. Đến nay, khu vực miền núi tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 12,53%, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt gần 23 triệu đồng; có 01 huyện (Như Xuân) thoát khỏi diện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ; có 20 xã đặc biệt khó khăn (17,4%) và có 16 thôn, bản đặc biệt khó khăn (8,12%) vùng dân tộc miền núi thoát khỏi diện đặc biệt khó khăn theo tiêu chí quy định. - Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã được quan tâm, đầu tư nâng cấp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển: 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã; tỷ lệ hộ dân sử dụng điện lưới quốc gia đạt trên 90%; tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch và nước hợp vệ sinh đạt 84,5%...; tình hình chính trị- xã hội ổn định, quốc phòng- an ninh được củng cố, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. - Đến hết quý II/2019, trong tổng số 296 xã đã đạt chuẩn NTM toàn tỉnh thì khu vực miền núi đã có 56 xã và 576 thôn, bản đạt chuẩn NTM (trong đó, có 13 thôn thuộc phạm vi Đề án 1385), bình quân đạt 10,5 tiêu chí/thôn, bản; riêng tại 11 huyện miền núi, đã có 40 xã, 437 thôn, bản đạt chuẩn NTM, bình quân đạt 13,5 tiêu chí/xã; và có 72/645 thôn, bản đặc biệt khó khăn đạt chuẩn NTM, chiếm 11,16 %. 159 Hiện nay, tỉnh đang tập trung chỉ đạo các địa phương rà soát đánh giá sâu hơn về thực trạng các thôn, bản; đồng thời, xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai với những giải pháp cụ thể, khả thi, phấn đấu đến năm 2020, có 30-40% số thôn, bản đặc biệt khó khăn đạt chuẩn NTM. Bên cạnh việc tập trung chỉ đạo cho các xã miền núi sớm đạt chuẩn NTM, thì Thanh Hóa đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, toàn tỉnh có 10% số xã trở lên đạt tiêu chí kiểu mẫu theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong 2 năm 2017-2018, Thanh Hóa đã lựa chọn và triển khai thực hiện thí điểm, nhân rộng 6 mô hình thôn, bản NTM kiểu mẫu ở các xã miền núi, đồng thời, xây dựng dự thảo Bộ tiêu chí thôn, bản NTM kiểu mẫu theo hướng nâng cao toàn diện các chỉ tiêu, tiêu chí thôn, bản NTM làm cơ sở cho việc rà soát, đánh giá. Đến nay, các thôn cơ bản hoàn thành các tiêu chí theo quy định. Thông qua việc xây dựng mô hình đã tạo ra diện mạo mới khá rõ nét trong khu dân cư và phát triển kinh tế vườn hộ; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của người dân về phát triển kinh tế, nhờ đó, thu nhập và đời sống của nhân dân đã có bước khá hơn, bộ mặt nông thôn thực sự khởi sắc (điển hình thôn Xuân Lập, xã Ngọc Phụng, thu nhập bình quân đạt 41 triệu đồng, không còn hộ nghèo; thôn Giáng, xã Quang Hiến, thu nhập bình quân đạt 43 triệu đồng, không còn hộ nghèo; thôn Yên Thịnh, xã Thành Tâm, thu nhập đạt 46 triệu đồng, không còn hộ nghèo). Các giá trị văn hóa truyền thống của mỗi làng quê được giữ gìn và phát triển theo hướng văn minh, hiện đại; tình làng, nghĩa xóm trong cộng đồng được coi trọng, sự tương trợ giúp đỡ lẫn nhau và tinh thần đoàn kết luôn được tăng cường. Môi trường sinh thái nông thôn đã có bước chuyển biến rõ nét, ý thức của người dân về việc giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường được nâng lên, cảnh quan môi trường nông thôn sáng - xanh - sạch - đẹp đã được hiện hữu. Năm 2019, cùng với việc chính thức ban hành Bộ tiêu chí thôn, bản NTM kiểu mẫu, tỉnh Thanh Hóa tiếp tục triển khai nhân rộng thêm 6 mô hình thôn, bản NTM kiểu mẫu ở 6 huyện, thành phố; phấn đấu đến năm 2020, mỗi huyện, thị xã, thành phố sẽ có 01 thôn, bản được công nhận đạt chuẩn NTM kiểu mẫu. Từ thực tiễn chỉ đạo triển khai thực hiện xây dựng NTM cấp thôn, bản, Thanh Hóa rút ra một số bài học kinh nghiệm, nhƣ sau: Một là, phải làm tốt , thường xuyên và liên lục công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, nội dung của chương trình xây dựng NTM cấp thôn, bản cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; khơi dậy được sự đồng thuận và tinh thần thi đua chung sức xây dựng NTM. Hai là, cấp ủy, chính quyền địa phương phải quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, sâu sát thực tế, chuyên cần, cầu thị, làm tốt quy chế dân chủ ở cơ sở và phải tạo được môi trường để người dân phát huy được vai trò chủ thể của mình. Ba là, phải xuất phát từ nhu cầu, tình hình thực tế và thế mạnh của từng địa phương để có kế hoạch xây dựng NTM cấp thôn, bản khả thi. Lựa chọn những nội dung mà người dân cần và phục vụ trực tiếp, sát thực đến sản xuất, đời sống của người dân thì làm trước. Chú trọng thực hiện các tiêu chí thu nhập, giảm nghèo, vệ sinh môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, an ninh, an toàn xã hội để tạo điểm nhấn, bước đột phá. Triển khai, xây dựng mô hình thôn, bản NTM kiểu mẫu. Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát; phát huy vai trò giám sát và phản biện của MTTQ, các tổ chức chính trị, xã hội và giám sát của cộng đồng dân cư trong xây dựng thôn, bản NTM; đặc biệt là tổ chức đánh giá sự hài lòng của người dân đối với kết quả xây dựng NTM trên địa bàn thôn, bản. 160 Năm là, có chính sách hỗ trợ kích cầu hợp lý để động viên, khuyến khích địa phương và người dân chung sức xây dựng NTM, đồng thời cần đa dạng hóa các nguồn lực: lồng ghép các chương trình, dự án khác, kêu gọi hỗ trợ từ các doanh nghiệp, đơn vị, huy động đóng góp của con em xa quê thành đạt. Những kết quả đạt được thời gian qua là đáng ghi nhận. Kết quả này đã khẳng định, đây là chủ trương đúng đắn, cách làm sáng tạo, phù hợp và hiệu quả. Việc triển khai, thực hiện Quyết định số 1385/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sẽ tạo cơ sở, động lực thúc đẩy mạnh mẽ phong trào xây dựng NTM cấp thôn, bản ở những địa phương có điều kiện tương đồng với Thanh Hóa, góp phần hoàn thành mục tiêu của Chương trình xây dựng NTM cả giai đoạn 2016-2020. * Về kiến nghị, đề xuất: - Đề nghị Trung ương bổ sung thêm 50 thôn, bản đặc biệt khó khăn của tỉnh Thanh Hóa vào danh sách thôn, bản thuộc phạm vi hỗ trợ của Đề án theo Quyết định số 1385/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để các địa phương khó khăn của tỉnh có thêm cơ sở, động lực triển khai, thực hiện Chương trình. Đồng thời, xem xét, điều chỉnh mục tiêu của Đề án đến năm 2020 có 50% số thôn đạt chuẩn NTM vì thời gian ít, sẽ khó hoàn thành. - Đề nghị Trung ương tăng mức hỗ trợ hàng năm cho Thanh Hóa để thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM; Nghị quyết 30a/NQ-CP của Chính Phủ; Chương trình bố trí dân cư theo Quyết định số 1776/QĐ-TTg ngày 21/11/2012./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_noi_bat_va_kinh_nghiem_thuc_tien_trong_xay_dung_thon.pdf
Tài liệu liên quan