Kết quả phẫu thuật cầu nối động mạch chủ vành trong điều trị hẹp nhiều nhánh động mạch vành ở bệnh nhân có hẹp động mạch cảnh

Chúng tôi gặp 1 trường hợp nào bị tai biến mạch máu não sau mổ. Kỹ thuật phẫu tích trần động mạch ngực trong giúp hạn chế tổn thương mô mềm và hệ thống mạch máu nuôi dưỡng thành ngực, làm giảm tỷ lệ viêm xương ức. Nghiên cứu thực nghiệm trên chó của tác giả Takashi Ueda(23) chứng minh rằng việc phẫu tích trần động mạch ngực trong không làm tăng tỉ lệ tắc cầu nối. Để tránh hiện tượng”ăn cắp máu”từ động mạch ngực trong trái ra động mạch cánh tay, trước mổ ta phải chắc chắn rằng đoạn gần của động mạch dưới đòn trái không bị hẹp bằng cách chụp mạch máu hoặc siêu âm kiểm tra động mạch dưới đòn. Ngoài ưu điểm quan trọng nhất là khả năng kéo dài thời gian và mức độ thông suốt của các cầu nối, giúp cải thiện tiên lượng lâu dài của bệnh nhân sau mổ bắc cầu mạch vành, chúng tôi nhận thấy phương pháp còn có một số ưu điểm khác như sau: Động mạch ngực trong có đường kính và độ dày của thành mạch tương đối giống các nhánh mạch vành. Tĩnh mạch hiển và động mạch quay có kích thước và bề dày khác biệt khá nhiều với hệ mạch vành. Chúng tôi cho rằng miệng nối từ động mạch ngực trong vào động mạch liên thất trước dễ thực hiện hơn từ miệng nối từ tĩnh mạch hiển và động mạch quay. Đó cũng có thể là một yếu tố giúp cải thiện chất lượng lâu dài của các miệng nối.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 191 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phẫu thuật cầu nối động mạch chủ vành trong điều trị hẹp nhiều nhánh động mạch vành ở bệnh nhân có hẹp động mạch cảnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 383 KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CẦU NỐI ĐỘNG MẠCH CHỦ VÀNH TRONG ĐIỀU TRỊ HẸP NHIỀU NHÁNH ĐỘNG MẠCH VÀNH Ở BỆNH NHÂN CÓ HẸP ĐỘNG MẠCH CẢNH Đỗ Kim Quế*, Chung Giang Đông* Đặt vấn đề: Phẫu thuật bắc cầu mạch vành là phương pháp điều trị cho tỷ lệ sống cao hơn, giảm đau thắt ngực sau mổ rõ rệt cho bệnh nhân bị bệnh nhiều nhánh động mạch vành. Chiến lược xử trí cho bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật cầu nối động mạch vành đồng thời có hẹp động mạch cảnh vẫn còn được bàn cãi. Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính khả thi về kỹ thuật của phẫu thuật cầu nối động mạch chủ vành nhằm tái tưới máu toàn bộ cho các bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành và có hẹp nặng động mạch cảnh, đồng thời bước đầu đánh giá kết quả sớm gồm tỷ lệ tử vong và biến chứng sau mổ của phương pháp. Phương pháp nghiên cứu: Toàn bộ bệnh nhân bệnh 3 nhánh động mạch vành và hẹp động mạch cảnh được điều trị phẫu thuật bắc cầu nối động mạch chủ vành có động mạch ngực trong tại bệnh viện Thống Nhất trong thời gian 10 năm từ 2004-2014. Bệnh nhân đượcchẩn đoán bệảnh nhánh động mạch vành và hẹp động mạch cảnh nặng dựa trên DSA động mạch vành và / hoặc MSCT động mạch cảnh. Phẫu thuật cầu nối động mạch vành có tuần hoàn ngoài cơ thể. Toàn bộ các nhánh động mạch vành hẹp có ý nghĩa đượcphẫu thuật bắc cầu nối qua chỗ hẹp. Động mạch ngực trong T dung cho động mạch trước trái xuống, tĩnh mạch hiển và đoang65 mạch quay dung cho các nhánh còn lại. Phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh thực hiện sau khi mổ cầu nối động mạch vành ổn định. Kết quả: 20 bệnh nhân hẹp nhiều nhánh động mạch vành có hẹp nặng động mạch cảnh đã được phẫu thuật tại bệnh viện Thống Nhất. số miệng nối xa trung bình mỗi bệnh nhân là 3.2. 1 trường hợp tử vong do biến chứng suy đa tạng sau mổ. 1 trường hợp có đột quỵ não. Không trường hợp nào viêm trung thất hoặc nhiễm trùng vết mổ. Theo dõi từ 4 tháng – 9 năm, không trường hợp nào bị nhồi máu cơ tim.18 trường hợp được phẫu thuật bóc lớp trong động mạch. Kết luận: Phẫu thuật tái tưới máu toàn bộ cho bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành có hẹp động mạch cảnh, cho kết quả sớm và lâu dài tốt. Phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh sau mổ cầu nối động mạch vành không làm tăng nguy cơ đột quỵ. Từ khoá: Hẹp động mạch cảnh, bệnh 3 nhánh động mạch vành, bệnh động mạch vành, cầu nối động mạch vành, bóc lớp trong động mạch cảnh. ABSTRACT CORONARY ARTERY BYPASS GRAFT FOR TRIPLE VESSELS DISEASES IN PATIENT WHO HAD CAROTID SEVERED STENOSIS Do Kim Que, Chung Giang Dong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 3- 2014: 383 - 388 Background: CABG surgery for patients who had multivessels disease based on superior graft patency, reduced cardiac-retaled eventsand enhanced survival when compared with patients receiving PCI or medical treatment. This study aimed at evaluating the feasibility of total coronary bypass in patients with multi-vessels diseases and severed carotid stenosis. We also analyzed short-term results including post operative mortality and morbidity of the technique and long-term results. Methods: This is a prospective clinical trial including 20 patients with multi-vessels diseases and severed * Bệnh viện Thống Nhất Tác giả liên lạc: PGS. TS. Đỗ Kim Quế ĐT: 0913977628 Email: dokimque@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 384 carotid stenosis underwent total coronary revascularization using CABG at the Thong Nhat hospital from 2004- 2014. All patients was diagnosed by CAG and or MSCT of carotid artery. On pump CABG for all coronary artery are performed with LITA to LAD and SVG or radian artery to the others. Carotid endarterectomy was carried out after CABG operation. Results: 20 patients with multi vessels disease underwent CABG the average numbers of distal anastomoses and LITA anastomoses per patient were 3.2 respectively. No superficial nor deep sternal infection was observed in this group. 1 patient died by multi-organs falure. 1 patient had stroke, 18 patients underwent CEA after CABG. No AMI appeared during months – 10 years follow-up. Conclusions: Total coronary revascularization by CABG then CEA in patients with multi-vessels diseases and severed carotid stenosis was feasible and safe with satisfactory short-term and long-term results. Keywords: multi-vessels diseases, severed carotid stenosis, coronary revascularization, coronary artery bypass. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh mạch vành là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở các nước phát triển. Phẫu thuật cầu nối động mạch vành là một phương pháp điều trị tiêu chuẩn cho bệnh nhân bị bênh đa nhánh động mạch vành. Mặc dù gần đây can thiệp nội mạch phát triển mạnh mẽ nhưng những nghiên cứu dài hạn cho thấy ưu thế của phẫu thuật trong tiên lượng và kết quả lâu dài. Tỉ lệ bệnh nhân có bệnh mạch vành cần phẫu thuật cầu nối động mạch vành đồng thời có hẹp động mạch cảnh khá cao(8,17) Nhiều nghiên cứu đã chứng minh phẫu thuật bắc cầu mạch vành có dùng động mạch ngực trong cho tỷ lệ sống cao hơn, ít có các biến chứng liên quan đến tim hơn so với phẫu thuật bắc cầu mạch vành không sử dụng động mạch ngực trong(19,14,16,18,6,20). Chiến lược xử trí cho bệnh nhân hẹp nặng động mạch cảnh và đã có chỉ định cầu nối động mạch vành vẫn còn được bàn cãi. Phẫu thuật đồng thời cầu nối động mạch vành và bóc lớp trong động mạch cảnh hay phẫu thuật lần lượt cầu nối động mạch vành rối bóc lớp trong động mạch cảnh hoặc ngược lại vẫn còn những quan điểm trái ngược(5,7,9). Nghiên cứu này nhằm đánh giá tính khả thi về kỹ thuật của phẫu thuật cầu nối động mạch vành có dùng động mạch ngực trong nhằm tái tưới máu toàn bộ cho các bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành, đồng thời có hẹp nặng động mạch cảnh. Đánh giá kết quả sớm và lâu dài của phẫu thuật cầu nối động mạch vành trước, bóc lớp trong động mạch cảnh sau đó tại bệnh viện Thống Nhất. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, tiền cứu. Các số liệu thu thập bao gồm đặc điểm lâm sàng, các yếu tố nguy cơ đi kèm, các số liệu liên quan đến phẫu thuật, tỷ lệ tai biến và tử vong sau mổ được phân tích bằng phần mềm SPSS. Các biến chứng sau mổ được theo dõi bao gồm: nhồi máu cơ tim (có ít nhất hai trong số các tiêu chuẩn sau: triệu chứng đau ngực, thay đổi trên điện tim, troponin Ic ≥ 12ng/mL, rối loạn vận động vùng mới xuất hiện trên siêu âm tim); hội chứng giảm cung lượng tim (cần hỗ trợ vận mạch trên 48 giờ); các rối loạn nhịp, suy hô hấp (thở máy trên 48 giờ), suy thận cấp, nhiễm trùng xương ức và viêm trung thất, tai biến mạch máu não (triệu chứng rối loạn tâm – thần kinh kéo dài trên 48 giờ hay được chẩn đoán bằng CT Scan hay MRI), chảy máu phải mổ lại. Bệnh nhân được tái khám định kỳ hàng tháng sau mổ hoặc khi có diễn biến bất thường, được ghi nhận triệu chứng cơ năng, siêu âm tim, các thuốc đang sử dụng. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 385 Tiêu chuẩn chọn bệnh Toàn bộ các bệnh nhân bệnh nhiều nhánh mạch vành có chỉ định phẫu thuật bắc cầu mạch vành đồng thời có hẹp nặng động mạch cảnh tại bệnh viện Thống Nhất từ năm 2004 – 2014. Mô tả kỹ thuật Tái tưới máu toàn bộ được định nghĩa là tất cả các nhánh mạch vành có đường kính 1,5mm trở lên, hẹp từ 70% trở lên (riêng thân chung hẹp từ 50% trở lên) đều được ghép ít nhất một miệng nối xa sau chỗ hẹp. Chúng tôi sử dụng 1 động mạch ngực trong và tĩnh mạch hiển cho tất cả các trường hợp Các động mạch ngực trong được phẫu tích trần (skeletonized) để đảm bảo đạt được độ dài lớn nhất và hạn chế tỷ lệ nhiễm trùng xương ức và viêm trung thất. Động mạch ngực trong trái được giữ nguyên không cắt rời khỏi động mạch dưới đòn trái, được làm miệng nối xa với nhánh với nhánh xuống trước trái theo kiểu tận – bên. Tĩnh mạch hiển trong cắt rời được khâu nối tận bên hoặc liên tiếp hình thoi (diamond shape) với nhánh trung gian, các nhánh bờ tù, động mạch vành phải. Chúng tôi sử dụng tuần hoàn ngoài cơ thể, hạ thân nhiệt trung bình, liệt tim máu ấm thuận chiều ngắt quãng. Phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh được thực hiện sau phẫu thuật cầu nối động mạch vành ít nhất 1 tháng. Bóc lớp trong động mạch cảnh theo kiểu kinh điển hoặc kiểu lộn ngược vỏ động mạch với gây mê nội khí quản. Theo dõi sau mổ Các bệnh nhân được tái khám định kỳ mỗi tháng sau mổ trong ba tháng đầu, sau đó mỗi ba tháng trong năm đầu. Các yếu tố ghi nhận khi tái khám: tử vong, đột quỵ, các triệu chứng lâm sàng, điều trị nội khoa, các lần nhập viện cấp cứu và các biến chứng có liên quan đến cuộc mổ. Bệnh nhân được khuyến khích chụp mạch vành hoặc chụp MS-CT 64 để kiểm tra sự thông thương của các cầu nối và động mạch cảnh trong khoảng thời gian 3 đến 6 tháng sau mổ. KẾT QUẢ Trong 10 năm từ 2004 - 2014, 20 bệnh nhân bị bệnh động mạch vành nhiều nhánh và hẹp nặng động mạch cảnh được phẫu thuật bắc cầu mạch vành có sử dụng động mạch ngực trong. Bảng 1: Đặc điểm bệnh nhân: Đặc điểm bệnh nhân trước mổ Tổng số 20 Tuổi trung bình 65,7 ± 8,5 Nam 18 Tiểu đường 14 Cao huyết áp 18 Hút thuốc lá 15 Rối loạn chuyển hóa lipid 18 Tiền căn nhồi máu cơ tim 8 Tiền căn can thiệp mạch vành qua da 1 Tiền căn tai biến mạch máu não 2 Hẹp động mạch cảnh trên 80% 20 Hẹp động mạch cảnh 2 bên 4 Bệnh mạch máu ngoại vi 5 Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính 4 Suy thận mãn 4 Hẹp thân chung 9 Số lượng nhánh mạch vành bị hẹp trung bình 3,6 Suy chức năng thất trái 12 Đau thắt ngực ổn định 8 Đau thắt ngực không ổn định 4 Dùng clopidogrel trước mổ 6 Dùng aspirin trước mổ 4 Dùng enoxaparin trước mổ 4 Bảng 2: Thông số trong mổ. Số liệu tuần hoàn ngoài cơ thể Thời gian mổ 197 ± 21 ph Thời gian chạy THNCT 98 ± 8 ph Thời gian kẹp ĐMC 79 ± 12 ph Bảng 3: Vị trí và số cầu nối động mạch vành. Số liệu trong mổ ĐMNTT TM hiển Tổng số miệng nối xa 20 47 Nhánh xuống trước trái 20 - Nhánh chéo - 12 Nhánh bờ tù hoặc nhánh mũ - 17 ĐM vành P, nhánh P kéo dài hoặc nhánh xuống sau - 18 Trung bình mỗi bệnh nhân được ghép 3,2 cầu nối động mạch Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 386 Bảng 4: Kết quả phẫu thuật cầu nối động mạch vành. Tử vong và biến chứng Tỷ lệ tử vong 1 Tỷ lệ biến chứng Nhồi máu cơ tim 1 Đột quỵ não 1 Suy tim 4 Rung nhĩ 3 Tràn máu màng phổi 2 Viêm phổi 2 Bảng 5: Phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh. Số liệu trong mổ Bóc kiểu kinh điển Bóc kiểu lộn ngược vỏ động mạch Mức độ hẹp > 90% 10 5 Thời gian kẹp động mạch Trung bình 31 phút 26 phút Dùng Shunt tạm 4 0 Phục hồi động mạch với miếng vá 12 0 BÀN LUẬN Kỹ thuật mổ bắc cầu mạch vành đã chứng minh hiệu quả kể từ các trường hợp phẫu thuật bắc cầu đầu tiên trên thế giới cách nay trên 40 năm qua các nghiên cứu kéo dài nhiều thập kỉ. Các cải tiến kỹ thuật đều nhằm đến mục đích cuối cùng và quan trọng nhất là giúp kéo dài càng lâu càng tốt thời gian sống không có triệu chứng, không có các biến cố về mạch vành và không cần phải can thiệp mạch vành lại. Việc sử dụng cầu nối từ động mạch ngực trong trái vào nhánh xuống trước trái, và sau đó là các cố gắng sử dụng thêm các loại cầu nối động mạch khác để làm giảm thiểu số lượng cầu nối bằng tĩnh mạch hiển đã làm cải thiện rõ rệt tỷ lệ sống còn của bệnh nhân bắc cầu mạch vành(3,7,20). Do cấu trúc thành mạch đặc biệt, hầu như không bao giờ có tổn thương xơ vữa, rất ít co thắt trong và sau mổ, động mạch ngực trong là vật liệu làm cầu nối lý tưởng, có tỷ lệ thông suốt rất cao qua theo dõi lâu dài sau mổ. Bệnh nhân mổ cầu nối động mạch vành có hẹp động mạch cảnh nặng làm tăng nguy cơ đột quỵ và tử vong. Theo Neylor(16) nguy cơ độ quỵ trong phẫu thuật động mạch vành là 2%, và nguy cơ này tăng gấp 4,8 lần ở bệnh nhân có hẹp động mạch cảnh nặng. Phẫu thuật đồng thời cầu nối động mạch vành và bóc lớp trong động mạch cảnh có tỉ lệ tử vong cao hơn nhóm mổ 2 lần riêng biệt(17,8,3). Phẫu thuật cầu nối động mạch vành phát triển khá nhanh trong thời gian gần đây ở nước ta. Trong nghiên cứu của chúng tôi 8/20 (40,0%) các bệnh nhân có tiền căn nhồi máu cơ tim hoặc vừa qua đợt nhồi máu cơ tim cấp. 6/20 (30,0%) bệnh nhân phải dùng kháng đông đến sát ngày mổ, đa số phối hợp hai hay ba thuốc kháng đông (clopidogrel, aspirin, enoxoparin). Phạm Hữu Minh Nhựt, tổng kết 143 trường hợp phẫu thuật cầu nối động mạch tại Viện Tim TP. Hồ Chí Minh tỉ lệ bệnh nhân có nhồi máu cơ tim cũ là 37,1%(19). Trừ các trường hợp bệnh nhân có cơn đau thắt ngực không ổn định cần mổ bán cấp, các trường hợp mới nhồi máu cơ tim thường được điều trị nội khoa và mổ trì hoãn trong vòng 2 tuần sau khi troponin Ic giảm xuống dưới 0,3 mcg/ml. Có 1 trường hợp tử vong nào trong nhóm nghiên cứu. Tỷ lệ tai biến thấp và không ảnh hưởng đến tiên lượng lâu dài, trừ một trường hợp nhồi máu cơ tim trong mổ. Không trường hợp nào bị nhiễm trùng vết mổ, viêm xương ức hay viêm trung thất trong nhóm nghiên cứu. Các nghiên cứu mới đây cho thấy kỹ thuật phẫu tích trần (skeletonize) động mạch ngực trong hai bên làm giảm hẳn nguy cơ này. Các nghiên cứu với số lượng lớn các bệnh nhân tiểu đường được phẫu tích trần động mạch ngực trong có tỷ lệ viêm trung thất sau mổ chỉ khoảng 1,2 đến 2%(11,12,14,15,17,6,23). Trần Quyết Tiến báo cáo 52 trường hợp phẫu thuật cầu nối động mạch vành tại bệnh viện Chợ rẫy có 4 trường hợp suy thận sau mổ, 1 trường hợp nhiễm trùng vết mổ, và 1 trường hợp chảy máu phải mổ lại(22). Chúng tôi gặp 1 trường hợp nào bị tai biến mạch máu não sau mổ. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 387 Kỹ thuật phẫu tích trần động mạch ngực trong giúp hạn chế tổn thương mô mềm và hệ thống mạch máu nuôi dưỡng thành ngực, làm giảm tỷ lệ viêm xương ức. Nghiên cứu thực nghiệm trên chó của tác giả Takashi Ueda(23) chứng minh rằng việc phẫu tích trần động mạch ngực trong không làm tăng tỉ lệ tắc cầu nối. Để tránh hiện tượng”ăn cắp máu”từ động mạch ngực trong trái ra động mạch cánh tay, trước mổ ta phải chắc chắn rằng đoạn gần của động mạch dưới đòn trái không bị hẹp bằng cách chụp mạch máu hoặc siêu âm kiểm tra động mạch dưới đòn. Ngoài ưu điểm quan trọng nhất là khả năng kéo dài thời gian và mức độ thông suốt của các cầu nối, giúp cải thiện tiên lượng lâu dài của bệnh nhân sau mổ bắc cầu mạch vành, chúng tôi nhận thấy phương pháp còn có một số ưu điểm khác như sau: Động mạch ngực trong có đường kính và độ dày của thành mạch tương đối giống các nhánh mạch vành. Tĩnh mạch hiển và động mạch quay có kích thước và bề dày khác biệt khá nhiều với hệ mạch vành. Chúng tôi cho rằng miệng nối từ động mạch ngực trong vào động mạch liên thất trước dễ thực hiện hơn từ miệng nối từ tĩnh mạch hiển và động mạch quay. Đó cũng có thể là một yếu tố giúp cải thiện chất lượng lâu dài của các miệng nối. KẾT LUẬN Phẫu thuật tái tưới máu toàn bộ cho bệnh nhân hẹp nhiều nhánh mạch vành có dùng động mạch ngực trong là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị bệnh nhiều nhánh động mạch vành có hẹp động mạch cảnh nặng. Phẫu thuật bóc lớp trong động mạch cảnh sau khi phẫu thuật cầu nối động mạch vành cho kết quả trước mắt và lâu dài rất khả quan. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ascione R, Underwood MJ, Lloyd CT, Jeremy JY, Bryan AJ, Angelini GD. (2001) Clinical and Angiographic Outcome of Different Surgical Strategies of Bilateral Internal Mammary Artery Grafting. Ann Thorac Surg; 72:959–65 2. Azmoun A, Ramadan R, Al-Attar N, Kortas C, Ghostine S, et al. (2007): Exclusive Internal Thoracic Artery Grafting in Triple-Vessel–Disease Patients Angiographic Control. Ann Thorac Surg 2007;83:2098 –102. 3. Berreklouw E, Rademakers PPC, Koster JM, van Leur L, van der Wielen BJW, Westers P. (2007) Better Ischemic Event-Free Survival After Two Internal Thoracic Artery Grafts - 13 Years of Follow-up. Ann Thorac Surg 2001;72:1535– 41 4. Bical OM, Khoury W, Fromes Y, Fischer M, Uva MS, Boccara G, Deleuze PH. (2007) Routine Use of Bilateral Skeletonized Internal Thoracic Artery Grafts in Middle-Aged Diabetic Patients. Ann Thorac Surg 2004;78:2050 –3 5. Byrne JG, Robbins MR, Leacche M (2007) A New Approach for Combined Carotid and Coronary Disease. Cardiovascular Intervention J; 2009 2(5): 402-3. 6. Cartier R, Leacche M, and Couture P (2002) Changing Pattern in Beating Heart Operations - Use of Skeletonized Internal Thoracic Artery. Ann Thorac Surg 2002;74:1548 –52. 7. De Paulis R, de Notaris S, Scaffa R, Nardella S, Zeitani J, Del Giudice C, De Peppo AP, Tomai F, Chiariello L. (2007) The Effect of Bilateral Internal Thoracic Artery Harvesting on Superficial and Deep Sternal Infection: the Role of Skeletonization. J Thorac Cardiovasc Surg 2005;129:536 -43. 8. Gopaldas RR, Chu D, Dao TK, Huh J, LeMaire SA, Lin P, Coselli JS, Bakaeen FJ. (2011) Staged Versus Synchronous Carotid Endarterectomy and Coronary Artery Bypass Grafting: Analysis of 10-Year Nationwide Outcomes. Ann Thorac Surg 2011;91:1323–9. 9. Hirotani T, Nakamichi T, Munakata M, Takeuchi S. (2003) Risks and Benefits of Bilateral Internal Thoracic artery Grafting in Diabetic Patients. Ann Thorac Surg 2003;76:2017– 22. 10. Kai M, Hanyu M, Soga Y, Nomoto T, Nakano T, Matsuo T, Umehara E, Kawato M, Okabayashi H. (2007) Off-Pump Coronary Artery Bypass Grafting With Skeletonized Bilateral Internal Thoracic Arteries in Insulin-Dependent Diabetics. Ann Thorac Surg 2007;84:32–7 11. Lev-Ran O, Braunstein R, Nesher N, Ben-Gal Y, Bolotin G, Uretzky G. (2004) Bilateral Versus Single Internal Thoracic Artery Gafting in Oral-Treated Diabetic Subsets - Comparative Seven-Year Outcome Analysis. Ann Thorac Surg 2004;77:2039–45 12. Locker C, Mohr R, Lev-Ran O, Uretzky G, Frimerman A, Shaham W, Shapira I. (2004) Comparison of Bilateral Thoracic Artery Grafting With Percutaneous Coronary Interventions in Diabetic Patients. Ann Thorac Surg; 78:471– 6. 13. Lytle BW, Blackstone EH, Sabik JF, Houghtaling P, Loop FD, Cosgrove DM. (2004) The Effect of Bilateral Internal Thoracic Artery Grafting on Survival During 20 Postoperative Year. Ann Thorac Surg 2004; 78:2005–14 14. Momin AU, Deshpande R, Potts J, El-Gamel A, Marrinan MT, Omigie J, Desai JB. (2005) Incidence of Sternal Infection in Diabetic Patients Undergoing Bilateral Internal Thoracic Artery Grafting. Ann Thorac Surg 2005; 80:1765–72 15. Muneretto C, Bisleri G, Negri A, Manfredi J, Metra M, Nodari S, Dei Cas L. (2003) Off-Pump Coronary Artery Bypass Surgery Technique for Total Arterial Myocardial Revascularization: A Prospective Randomized Study. Ann Thorac Surg 2003;76:778–83. 16. Naylor AR, Cuffe RL, Rothwell PM, Bell PR. (2003) A systematic review of outcomes following staged and Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 3 * 2014 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2014 388 synchronous carotid endarterectomy and coronary artery bypass. Eur J Vasc Endovasc Surg; 25:380 –9. 17. Ochi M, Hatori N, Bessho R, Fujii M, Saji Y, Tanaka S, Honma H. (2001) Adequacy of Flow Capacity of Bilateral Internal Thoracic Artery T Graft. Ann Thorac Surg 2001;72:2008 –12 18. Paterson HS, French BG, Puttaswamy V, et al.: (2014) Combined bilateral carotid endarterectomy and coronary bypass surgery. J cardiovascular disease. 2014 2(2): 123-128. 19. Phạm Hữu Minh Nhựt (2007) Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật bắc cầu động mạch ở bênh nhân tổn thương 3 nhánh mạch vành. Luân văn tốt nghiệp thạc sĩ y học. 20. Stevens LM, Carrier M, Perrault LP, Hebert Y, Cartier R, Bouchard D, Fortier A, El-Hamamsy I, Pellerin M. (2004) Single versus Bilateral Internal Thoracic Artery Grafts with Concomitant Saphenous Vein Grafts for Multivessel Coronary Artery Bypass Grafting: Effects on Mortality and Event-Free Survival. J Thorac Cardiovasc Surg 2004;127: 1408-15. 21. Tector AJ, McDonald ML, Kress DC, Downey FX, Schmahl TM (2001) Purely Internal Thoracic Artery Grafts: Outcomes. Ann Thorac Surg; 72:450 –5. 22. Trần Quyết Tiến (2007) Ghép mạch trong mổ bắc cầu động mạch vành tim. Y học TP Hồ Chí Minh. Chuyên đề Ngoại khoa.11: 334-40. 23. Ueda T, Taniguchi S, Kawata T, Mizuguchi K, Nakajima M, Yoshioka A. (2003) Does Skeletonization Compromise the Integrity of Internal Thoracic Artery Grafts? Ann Thorac Surg;75:1429 –33 24. Uva MS, Braunberger E, Fisher M, Fromes Y, Deleuze PH, Celestin JA, Bical OM (1998) Does Bilateral Internal Thoracic Artery Grafting Increase Surgical Risk in Diabetic Patients? Ann Thorac Surg;65:2051–5. 25. Wendler O, Hennen B, Markwirth T, König J, Tscholl D, Qi Huang, Shahangi E, Schäfers HJ. (1998) T Grafts with the Right Internal Thoracic Artery to Left Thoracic Artery Versus the Left Internal Thoracic Artery and Radial Artery - Flow Dynamics in the Internal Thoracic Artery Main Stem. J Thorac Cardiovasc Surg 1999;118:841-848. 26. Zeitani J, de Peppo AP,De Paulis L, Nardi P, Scafuri A, Nardella S, Chiariello L. (2006) Benefit of Partial Right- Bilateral Internal Thoracic Artery Harvesting in Patients at Risk of Sternal Wound Complications. Ann Thorac Surg 2006;81:139–44. Ngày nhận bài báo: 01-05-2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 11-05-2014 Ngày bài báo được đăng: 20-05-2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_phau_thuat_cau_noi_dong_mach_chu_vanh_trong_dieu_tri.pdf
Tài liệu liên quan