Bảng 3 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân liền xương
tốt là 92,4%; góc cổ thân từ 1200 -1300 là
98,5%; 92,4% bệnh nhân không có ngắn chi
hoặc ngắn <1 cm; 98,5% bệnh nhân có thể đi
lại được bình thường hoặc đi lại được nhưng
đau khi gắng sức. Kết quả này tương đồng với
nghiên cứu của Nguyễn Huy Thành khi 42/55
bệnh nhân (76.4%) không ngắn hoặc ngắn chi
dưới 1cm [8]. Kết quả bảng 3 tương đồng với
kết quả bảng 4, tỷ lệ bệnh nhân đạt kết quả tốt
trở lên là 56,1%. Kết quả này thấp hơn so với
nghiên cứu của Trần Mạnh Hùng [6] và
Nguyễn Văn Tiến Lưu khi tỷ lệ đạt tốt trở lên
ở 2 nghiên cứu lần lượt là 82% và 94,23%
[7]. Nguyên nhân do thời điểm đánh giá kết
quả điều trị xa của chúng tôi đều được thực
hiện trong khoảng thời gian 6-9 tháng sau
phẫu thuật, ngắn hơn nhiều so với nghiên cứu
khác như của Nguyễn Văn Tiến Lưu chỉ có
65,4% bệnh nhân theo dõi trong khoảng 6-9
tháng, còn lại là trên 9 tháng [7], do đó, nhiều
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi vẫn
còn đau nhẹ khi vận động lâu.
Kết quả bảng 5 cho thấy có mối liên quan
giữa nguyên nhân tai nạn và độ tuổi của bệnh
nhân tới kết quả điều trị (p<0,01). Kết quả
này có thể được giải thích do nhóm bị tai nạn
sinh hoạt thì thường có độ tuổi lớn hơn vì độ
tuổi này thường ít tham gia giao thông và làm
các công việc nặng nhọc nên khả năng hồi
phục sau phẫu thuật sẽ kém hơn so với nhóm
bị tai nạn lao động và tai nạn giao thông. Đồng
thời, tuổi càng cao thì tỷ lệ loãng xương càng
lớn nên khi bị chấn thương thì thường sẽ chịu
tổn thương nặng hơn và lâu hồi phục hơn. Kết
quả nghiên cứu này tương đồng với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Văn Ngẫu [9].
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp khóa điều trị gãy vùng mấu chuyển xương đùi tại bệnh viện trung ương thái nguyên và một số yếu tố liên quan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TNU Journal of Science and Technology 225(11): 149 - 153
Email: jst@tnu.edu.vn 149
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT KẾT HỢP XƯƠNG BẰNG NẸP KHÓA ĐIỀU TRỊ
GÃY VÙNG MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG
THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Triệu Quốc Tráng1, Nguyễn Vũ Hoàng1, Hoàng Minh Nam2*
1Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên,
2Trường Đại học Y Dược - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Bài báo đánh giá kết quả điều trị cho 66 bệnh nhân gãy vùng mấu chuyển xương đùi bằng nẹp
khóa tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên và phân tích một số yếu tố liên quan tới kết quả điều
trị. Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả cho thấy kết quả điều
trị rất tốt là 19 bệnh nhân (28,8%); tốt 18 bệnh nhân (27,3%); trung bình là 27 (40,9%) và kém là
02 bệnh nhân (3%). Có mối liên quan giữa việc có tổn thương phối hợp và độ tuổi (< 60 và ≥ 60)
tới kết quả điều trị của bệnh nhân (p < 0,01). Kết quả điều trị phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp
khóa cho bệnh nhân gãy vùng mấu chuyển xương đùi tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên là
rất tốt.
Từ khóa: Gãy vùng liên mấu chuyển; nẹp khóa; nẹp DHS; gãy xương hông; kết hợp xương bằng
nẹp khóa
Ngày nhận bài: 07/10/2020; Ngày hoàn thiện: 28/10/2020; Ngày đăng: 31/10/2020
THE RESULTS OF THE BONE CONBINATION SURGERY
USING THE DYNAMIC HIP SCREW BLADE IN THE TREATMENT OF
INTER-TROCHANTERIC CREST FRACTURES
IN THAI NGUYEN NATIONAL HOSPITAL AND SOME RELATED FACTORS
Trieu Quoc Trang1, Nguyen Vu Hoang1, Hoang Minh Nam2*
1Thai Nguyen National Hospital,
2TNU - University of Medicine and Pharmacy
ABSTRACT
The study evaluated the results of bone combination surgery using dynamic hip screw blade in
treating 66 patients with inter-trochanteric crest fractures at Thai Nguyen National Hospital and
described some related factors of treatment results.. The research applied the descriptive research
methods, and the cross-sectional design. The results showed that 19 patients (28.8%) got very
good treatment ; 18 patients (69.7%) had good resultsand 27 (40.9%) patients’ treatment were
average and bad results belonged to 2 patients (3%). There was an association between combined
injuries and age (<60 and ≥ 60) to outcomes (p <0.01). Using a locking brace for the inter-
trochanteric crest fracture in Thai Nguyen National Hospital had great results.
Key words: Inter-trochanteric fractures; locking brace; Dynamic hip screw; hip fractures; the
bone conbination surgery using the locking brace
Received: 07/10/2020; Revised: 28/10/2020; Published: 31/10/2020
* Corresponding author. Email: hoangnam.ytn@gmail.com
Triệu Quốc Tráng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 149 - 153
Email: jst@tnu.edu.vn 150
1. Đặt vấn đề
Gãy vùng liên mấu chuyển xương đùi là chấn
thương do lực tác động, hay xảy ra ở người
già do tình trạng loãng xương có thể gây ra
tàn tật và tử vong, đây đang là một vấn đề sức
khỏe lớn và có thể sẽ trở nên trầm trọng hơn
bởi sự lão hóa của dân số.
Theo thống kê của Cơ sở dữ liệu quốc gia về
gãy xương hông (NHFD) của Anh: Năm 2013
tại Anh ước tính có 58.639 trường hợp [1],
năm 2017 đã tăng lên 64.858 trường hợp [2].
Theo dự báo vào năm 2040 ở Mỹ, số lượng
người bị gãy liên mấu chuyển xương đùi sẽ
vào khoảng 550.000 người; chi phí chăm sóc
cho bệnh này khoảng 62 tỷ đô [3]. Trước đây,
với gãy liên mấu chuyển xương đùi (đặc biệt
ở người cao tuổi) chủ yếu được điều trị bảo
tồn. Tuy nhiên, điều trị bảo tồn (như kéo nắn
bó bột, xuyên đinh kéo liên tục...) có thể có
nhiều biến chứng do bệnh nhân phải nằm lâu
như: loét tì đè, viêm phổi, viêm đường tiết
niệu ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng,
nhất là các bệnh nhân tuổi cao, sức khỏe yếu.
Điều trị gãy vùng mấu chuyển xương đùi với
phương pháp kết hợp xương bằng nẹp khóa
có ưu điểm là các vít được bắt cố định vào
nẹp ở một góc cố định mang lại sự vững chắc
cho cấu trúc giải phẫu mà không phụ thuộc
vào lực ma sát giữa vít - nẹp - xương tạo nên
sự vững chắc cho vùng mấu chuyển. Nhằm
tổng kết các ca đã phẫu thuật, chúng tôi thực
hiện nghiên cứu với mục tiêu: Đánh giá kết
quả phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp khóa
điều trị gãy vùng mấu chuyển xương đùi tại
Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên giai đoạn
2018 – 2020 và phân tích một số yếu tố liên
quan đến kết quả phẫu thuật.
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân gãy vùng mấu chuyển xương đùi
được phẫu thuật kết hợp xương bằng nẹp
khóa tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên
trong thời gian từ tháng 1/2018 đến tháng
1/2020.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Tháng 7 năm 2019 đến tháng 9
năm 2020.
- Địa điểm: Khoa Chấn thương chỉnh hình,
Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang hồi cứu và tiến cứu không đối chứng
* Cỡ mẫu: Điều tra toàn bộ về bệnh nhân phù
hợp tiêu chuẩn nghiên cứu.
* Kỹ thuật chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện
* Chỉ số nghiên cứu: Đặc điểm của bệnh nhân
gãy xương: tuổi, giới, cơ chế chấn thương; kết
quả điều trị; một số yếu tố liên quan: tuổi,
giới, nguyên nhân gãy xương.
2.4. Kỹ thuật thu thập thông tin.
- Hồi cứu số liệu thứ cấp trên bệnh án, tài liệu
lưu trữ với bệnh nhân cũ; phỏng vấn, khám
lâm sàng trực tiếp những bệnh nhân mới.
2.5. Xử lý số liệu
Theo phương pháp thống kê y học. Tỷ lệ phần
trăm được tính bằng thuật toán thống kê
thông thường; sử dụng Chisque test để phân
tích mối liên quan giữa một số yếu tố tới kết
quả điều trị.
3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
3.1. Kết quả nghiên cứu
Kết quả bảng 1 cho thấy phần lớn đối tượng
có độ tuổi từ 60 trở lên (68,2%); tỷ lệ nam
giới nhiều hơn nữ giới; người nông dân có tỷ
lệ chấn thương (50%) cao hơn các nghề khác;
nguyên nhân chấn thương chủ yếu là tai nạn
sinh hoạt.
Bảng 2 cho thấy sau mổ, 65 bệnh nhân
(98,5%) được hồi phục xương gãy về vị trí
ban đầu và không có nhiễm trùng vết mổ.
Bảng 3 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân liền xương
tốt là 92,4%; góc cổ thân từ 1200 - 1300 là
98,5%; 92,4% bệnh nhân không có ngắn chi
hoặc ngắn < 1cm; 98,5% bệnh nhân có thể đi
lại được bình thường hoặc đi lại được nhưng
đau khi gắng sức.
Triệu Quốc Tráng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 149 - 153
Email: jst@tnu.edu.vn 151
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm chung Số lượng Tỷ lệ
Độ tuổi
<60 21 31,8
60-69 11 16,7
70-79 14 21,2
≥80 20 30,3
Giới
Nam 41 62,1
Nữ 25 37,9
Dân tộc
Kinh 40 60,6
Dân tộc thiểu số 26 39,4
Nghề nghiệp
Hưu trí 14 21,2
Nông dân 33 50,0
Lao động tự do 9 13,6
Khác 10 15,2
Nguyên nhân chấn thương
Tai nạn lao động 9 13,6
Tai nạn giao thông 11 16,7
Tai nạn sinh hoạt 46 69,7
Tổng số 66 100
Bảng 2. Đặc điểm tình trạng sau mổ của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ
Hồi phục xương gãy về
vị trí ban đầu
Tốt 65 98,5
Chấp nhận được 1 1,5
Nhiễm trùng vết mổ
Không 65 98,5
Sâu 1 1,5
Tổng số 66 100
Bảng 3. Kết quả điều trị xa (> 6 tháng) sau phẫu thuật
Tiêu chuẩn đánh giá Số BN Tỷ lệ %
Liền xương tốt 61 92,4
Góc cổ - thân 1200 - 1300 65 98,5
Độ dài chi phẫu thuật
so với chi lành
Không ngắn chi 58 87,9
Ngắn chi <1cm 3 4,5
Ngắn chi 1-2cm 5 7,6
Khả năng đi lại
Đi lại bình thường, không đau 18 27,3
Đi lại được, đau khi gắng sức 47 71,2
Đi đứng phải dùng nạng 1 1,5
Tổng 66 100
Bảng 4. Kết quả điều trị xa (> 6 tháng) sau phẫu thuật
Tiêu chuẩn đánh giá Số BN Tỷ lệ %
Đánh giá chung
Rất tốt 19 28,8
Tốt 18 27,3
Trung bình 27 40,9
Kém 2 3
Tổng 66 100
Kết quả bảng 4 cho thấy số bệnh nhân đạt kết quả rất tốt là 19 bệnh nhân (28,8%), tốt là 18 bệnh
nhân (27,3%), trung bình là 27 bệnh nhân (40,9%) và kém là 2 bệnh nhân (3%).
Triệu Quốc Tráng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 149 - 153
Email: jst@tnu.edu.vn 152
Bảng 5. Một số yếu tố liên quan tới kết quả điều trị của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Rất tốt Tốt, trung bình
p
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
Giới
Nam 15 36,6 26 63,4
0,073
Nữ 4 16 21 84
Nguyên
nhân tai
nạn
Tai nạn giao thông và
Tai nạn lao động
11 55 9 45
0,002
Tai nạn sinh hoạt 8 17,4 38 82,6
Độ tuổi
< 60 15 71,4 6 28.6
0,000
≥ 60 4 8,9 41 91,1
Tổng số 19 28,8 47 71,2
Kết quả bảng 5 cho thấy không có mối liên
quan giữa giới tính tới kết quả điều trị của
bệnh nhân (p > 0,05); có mối liên quan giữa
nguyên nhân tai nạn và độ tuổi của bệnh nhân
tới kết quả điều trị (p<0,01).
3.2. Bàn luận
Kết quả bảng 1 cho thấy phần lớn đối tượng
có độ tuổi từ 60 trở lên (68,2%), điều này
hoàn toàn phù hợp khi tuổi càng cao thì tỷ lệ
loãng xương ở người cao tuổi càng nhiều, họ
dễ dàng bị chấn thương bởi những tác động từ
bên ngoài. Kết quả này tương tự như trong
nghiên cứu của Russel T Burge và cộng sự
khi tỷ lệ người bị gãy xương vùng mấu
chuyển xương đùi tăng dần theo độ tuổi [4]
hay nghiên cứu của Lê Thu Hà cho thấy tỷ lệ
người trên 60 tuổi bị gãy xương chiếm đến
91,9% (p <0,001) [5]; tuy nhiên, tỷ lệ chấn
thương ở nam giới trong nghiên cứu này cao
hơn nữ giới (62,1% và 37,9%) lại khác so với
nghiên cứu của Russel T Burge khi tỷ lệ bệnh
nhân nữ lớn hơn từ 2 đến 3,4 lần so với bệnh
nhân nam [4] hay trong nghiên cứu của Trần
Mạnh Hùng khi tỷ lệ bệnh nhân nữ chiếm
69,5% [6]. Người nông dân có tỷ lệ chấn
thương (50%) cao nhất. Điều này hoàn toàn
phù hợp khi những người hưu trí thì thường
tuổi cao, có thói quen vận động nhẹ nhàng
nhiều hơn so với người nông dân; người lao
động tự do thì phần lớn còn trong độ tuổi lao
động và có sức khỏe tốt hơn. Nguyên nhân
chấn thương chính là tai nạn sinh hoạt, đây
cũng là nguyên nhân chiếm đa số đối với
người cao tuổi trong các nghiên cứu của các
tác giả Trần Mạnh Hùng, nguyên nhân do tai
nạn sinh hoạt là 94,4% [6] hay của Nguyễn
Văn Tiến Lưu,tỷ lệ này là 67,3% [7].
Kết quả bảng 2 cho thấy sau mổ, 65 bệnh
nhân (98,5%) được hồi phục xương gãy về vị
trí ban đầu và không có nhiễm trùng vết mổ.
Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của
Nguyễn Huy Thành trên 55 người trưởng
thành cho thấy 100% bệnh nhân có kết quả
tốt về tình trạng vết mổ, không có biến
chứng [8].
Bảng 3 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân liền xương
tốt là 92,4%; góc cổ thân từ 1200 -1300 là
98,5%; 92,4% bệnh nhân không có ngắn chi
hoặc ngắn <1 cm; 98,5% bệnh nhân có thể đi
lại được bình thường hoặc đi lại được nhưng
đau khi gắng sức. Kết quả này tương đồng với
nghiên cứu của Nguyễn Huy Thành khi 42/55
bệnh nhân (76.4%) không ngắn hoặc ngắn chi
dưới 1cm [8]. Kết quả bảng 3 tương đồng với
kết quả bảng 4, tỷ lệ bệnh nhân đạt kết quả tốt
trở lên là 56,1%. Kết quả này thấp hơn so với
nghiên cứu của Trần Mạnh Hùng [6] và
Nguyễn Văn Tiến Lưu khi tỷ lệ đạt tốt trở lên
ở 2 nghiên cứu lần lượt là 82% và 94,23%
[7]. Nguyên nhân do thời điểm đánh giá kết
quả điều trị xa của chúng tôi đều được thực
hiện trong khoảng thời gian 6-9 tháng sau
phẫu thuật, ngắn hơn nhiều so với nghiên cứu
khác như của Nguyễn Văn Tiến Lưu chỉ có
65,4% bệnh nhân theo dõi trong khoảng 6-9
tháng, còn lại là trên 9 tháng [7], do đó, nhiều
bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi vẫn
còn đau nhẹ khi vận động lâu.
Kết quả bảng 5 cho thấy có mối liên quan
giữa nguyên nhân tai nạn và độ tuổi của bệnh
Triệu Quốc Tráng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(11): 149 - 153
Email: jst@tnu.edu.vn 153
nhân tới kết quả điều trị (p<0,01). Kết quả
này có thể được giải thích do nhóm bị tai nạn
sinh hoạt thì thường có độ tuổi lớn hơn vì độ
tuổi này thường ít tham gia giao thông và làm
các công việc nặng nhọc nên khả năng hồi
phục sau phẫu thuật sẽ kém hơn so với nhóm
bị tai nạn lao động và tai nạn giao thông. Đồng
thời, tuổi càng cao thì tỷ lệ loãng xương càng
lớn nên khi bị chấn thương thì thường sẽ chịu
tổn thương nặng hơn và lâu hồi phục hơn. Kết
quả nghiên cứu này tương đồng với kết quả
nghiên cứu của Nguyễn Văn Ngẫu [9].
4. Kết luận
Tỷ lệ bệnh nhân đạt kết quả rất tốt là 19 bệnh
nhân (28,8%), tốt là 18 bệnh nhân (27,3%),
trung bình là 27 bệnh nhân (40,9%) và kém là
2 bệnh nhân (3%). Trong đó, tỷ lệ bệnh nhân
liền xương tốt là 92,4%; góc cổ thân từ 1200 -
1300 là 98,5%; 92,4% bệnh nhân không có
ngắn chi hoặc ngắn <1cm; 98,5% bệnh nhân
có thể đi lại được bình thường hoặc đi lại
được nhưng đau khi gắng sức. Không có mối
liên quan giữa giới tính với kết quả điều trị
của bệnh nhân (p>0,05); có mối liên quan
giữa nguyên nhân tai nạn và độ tuổi của bệnh
nhân tới kết quả điều trị (p<0,01).
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. J. Kazley, and K. Bagchi, Femoral Neck
Fractures. StatPearls Publishing, Treasure
Island, 2020.
[2]. C. Boulton et al., National Hip Fracture
Database (NHFD) annual report 2017.
London: Royal College of Physicians, 2017.
[3]. S. C. Mears, and S. L. Kates, “A Guide to
Improving the Care of Patients with Fragility
Fractures,” Edition 2. Geriatric orthopaedic
surgery & rehabilitation, vol. 6, no. 2, pp. 58-
120, 2015.
[4]. R. Burge et al., “The cost of osteoporotic
fractures in the UK: Projections for 2000-
2020,” Journal of Medical Economics, vol. 4,
pp. 51-62, 2008.
[5]. L. T. Ha et al., “Clinical, bone density and
complications in patients with fracture neck of
femur,” Internal medicine, vol. 4, pp. 47-52, 2009.
[6]. T. M. Hung, and T. T. Dung, “Evaluate the
result of partial hip replacement for
intertrochanteric fracture in elder patients,”
2014. [Online]. Available:
phau-thuat-thay-khop-hang-ban-phan-dieu-tri-
gay-lien-mau-chuyen-xuong-dui-o-nguoi-cao-
tuoi.htm. [Accessed Aug. 24, 2020].
[7]. N. V. T. Luu, “Evaluation of surgical
treatment results for femoral inter-leg fracture
with a locking brace 2014,” Second degree
specialist. Thesis, University of Medicine
Pham Ngoc Thach: Ho Chi Minh city, 2014.
[8]. N. H. Thanh, “Evaluate the treatment results of
Inter-trochanteric Fractures with locking brace
combination at Viet Duc Hospital,” PhD.
Thesis, Hanoi Medical University, Hanoi, 2018.
[9]. N. V. Ngau, “Research on treatment of Inter-
trochanteric Fractures with Dynamic hip screw,”
Second degree specialist Thesis, Vietnam
Military Medical University, Hanoi, 2017.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_phau_thuat_ket_hop_xuong_bang_nep_khoa_dieu_tri_gay.pdf