Góc chày đùi: Trong phẫu thuật thay
khớp gối nhân tạo, thật khó để phục hồi
trục cơ học của chi dưới do ga rô, vải trải
che phủ vô trùng và đặc biệt những BN
có thể trạng béo làm cản trở phẫu thuật
viên định hướng. Trong nghiên cứu này,
trước phẫu thuật phần lớn BN có góc
chày đùi mở góc vào trong (68,75%),
21,86% gối chưa bị biến dạng nhiều, chỉ
có 9,39% gối bị mở góc ra ngoài. Tương
ứng với đặc điểm này trên phim X-quang,
mâm chày trong bị tổn thương nhiều hơn,
làm cho gối vẹo trong (hình 1, 2, 3). Sau
phẫu thuật, góc chày đùi cải thiện đáng
kể. Trước phẫu thuật, chỉ có 21,86% chi
thẳng trục, sau phẫu thuật là 84,38%,
nhưng vẫn còn 12,5% gối mở góc vào
trong và 3,12% gối mở góc ra ngoài. Tình
trạng gối bị mở góc vào trong hay ra
ngoài là do các lắt cắt ở đầu xa xương
đùi và đầu gần mâm chày chưa đạt được
như mong muốn. Một trong các mục tiêu
của các lát cắt ở đầu xa xương đùi và
đầu gần xương chày là đảm bảo khôi
phục trục cơ học đạt 180º (chỏm xương
đùi - tâm khớp gối và tâm khớp cổ chân
thẳng hàng).
Nghiên cứu của Timothy L. Kahn và CS
[5] cho thấy, góc chày đùi cải thiện so với
trước phẫu thuật: 27,01% trường hợp mở
góc ra ngoài trước phẫu thuật, sau phẫu
thuật tỷ lệ này là 44,83%. 29,89% trường
hợp trước mổ là trung gian, sau phẫu thuật
là 47,13%. 43,10% trường hợp có góc
mở vào trong, sau phẫu thuật là 8,05%.
Tiêu chí đánh giá các góc đùi ngoài xa,
góc chày trong gần và góc chày đùi ở một
số nghiên cứu là khác nhau, chênh lệch
một vài độ [3, 4, 5]. Tuy nhiên, mục đích
cuối cùng vẫn là khôi phục trục cơ học
của chi dưới.
Để phục hồi tối ưu trục cơ học của chi
dưới, cần chụp toàn bộ chi dưới trên 1
phim quy ước nhằm đánh giá mức độ
biến dạng của góc chày đùi, góc đùi ngoài
xa, góc chày trong gần, từ đó làm cơ sở
lựa chọn góc cắt đầu xa xương đùi và
đầu gần mâm chày. Kỹ thuật chụp phim
này khá phổ biến và gần như bắt buộc
trước phẫu thuật ở nhiều nước trên thế
giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, kỹ
thuật này chưa được phổ biến nên ít
nhiều ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phẫu thuật thay khớp gối toàn phần phân tích trên phim X-quang quy ước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
55
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT THAY KHỚP GỐI TOÀN PHẦN
PHÂN TÍCH TRÊN PHIM X-QUANG QUY ƯỚC
Vũ Nhất Định1, Hoàng Thế Hùng1
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá việc khôi phục trục chi dưới và xác định các góc khớp sau phẫu thuật.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu 64 bệnh nhân (BN) gồm 38 nữ, 26 nam
được thay khớp gối tại Bệnh viện Quân y 103 trong giai đoạn 1/2015 - 1/2018. Gá ngoài ống
tủy được sử dụng để cắt đầu gần xương chày. BN được chụp X-quang quy ước khớp gối trước
và sau phẫu thuật ở tư thế đứng tỳ nén. Các góc chày đùi, góc đùi ngoài xa, góc chày trong gần
được đo và đánh giá theo Timothy L. Kahn và CS. Kết quả: Các tham số đo trên phim X-quang
trước và sau phẫu thuật: Góc đùi ngoài xa: Mở góc ra ngoài: 50% và 9,37%, thẳng trục: 21,87%
và 59,38%, mở góc vào trong: 28,13% và 31,25%; góc chày trong gần: Mở góc ra ngoài: 9,37%
và 18,75%, thẳng trục: 6,25% và 50%, mở góc vào trong: 84,38% và 31,25%; góc chày đùi: Mở
góc ra ngoài: 9,39% và 3,12%, thẳng trục: 21,86% và 84,38%, mở góc vào trong: 68,75% và
12,5%. Kết luận: Kỹ thuật thay khớp gối toàn phần lần đầu không xi măng đã cải thiện đáng kể
trục cơ học của chi, các góc chày trong gần, góc đùi ngoài xa. Tuy nhiên, vẫn còn trường hợp
lệch trục (vào trong hoặc ra ngoài). Hạn chế này có thể liên quan tới kỹ thuật gá ngoài để cắt
đầu trên xương chày và góc cắt đầu xa xương đùi chưa dựa vào giải phẫu riêng biệt và phim X-
quang toàn bộ chi dưới.
* Từ khóa: Thay khớp gối toàn phần; X-quang.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phẫu thuật thay khớp gối nhân tạo
được coi là phương pháp điều trị hữu
hiệu đối với thoái hóa khớp gối giai đoạn
cuối, không những giúp giảm đau, phục
hồi lại biên độ vận động của khớp mà còn
phục hồi lại các tham số giải phẫu về góc
chày đùi, góc chày trong gần, góc đùi
ngoài xa. Các tham số giải phẫu này có
ảnh hưởng đến tuổi thọ của khớp và giúp
đánh giá khả năng sửa chữa các biến
dạng của khớp và là yếu tố liên quan trực
tiếp đến tình trạng lỏng các thành phần
của khớp nhân tạo. Mục tiêu của nghiên
cứu: Đánh giá kết quả thay khớp gối toàn
phần lần đầu có xi măng dựa vào một số
tham số giải phẫu trên phim X-quang
quy ước.
1. Bệnh viện Quân y 103
Người phản hồi: Vũ Nhất Định (vunhatdinhbv103@yahoo.com.vn)
Ngày nhận bài: 19/2/2020
Ngày bài báo được đăng: 9/4/2020
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
56
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
64 BN (38 nữ, 26 nam) được thay
khớp gối toàn phần lần đầu có xi măng do
thoái hóa khớp tại Bệnh viện Quân y 103
trong giai đoạn từ 1/2015 - 1/2018.
2. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi
cứu.
* Các bước tiến hành: Tất cả BN đều
được phẫu thuật theo đường mổ bên
trong do 1 phẫu thuật viên chính thực
hiện:
- Dồn máu, ga rô tại 1/3 giữa đùi.
- Đường rạch da bắt đầu từ cực trên
xương bánh chè khoảng 3 cm, hướng
vào trong theo sát bờ trong xương bánh
chè, bờ trong gân bánh chè xuống tới gần
lồi củ trước xương chày. Tiến hành cắt bỏ
lớp màng hoạt dịch khớp, lấy bỏ các mỏ
xương mọc ở đầu dưới xương đùi và đầu
trên xương chày. Gối gấp 90º, cắt dây
chằng chéo trước, đặt Hofman phía sau
mâm chày, đẩy mâm chày ra trước.
- Cắt đầu trên xương chày theo dụng
cụ gá ngoài, trục của thanh dóng đặt song
song với mào chày. Lựa chọn cỡ khớp
được ước lượng với đầu trên xương chày
trong phẫu thuật.
- Cắt đầu dưới xương đùi theo dụng cụ
gá trong ống tủy. Lát cắt xa được đặt tạo
góc mở ra ngoài 6º. Các lát cắt còn lại
(trước, sau, trước trên, trước dưới) được
cắt theo dụng cụ gá dựa vào lát cắt xa và
cỡ khớp ước lượng với đầu dưới xương
đùi trong phẫu thuật.
- Tạo khuôn cho khớp ở đầu trên
xương chày.
- Thử gấp, duỗi, lắp test thử, thay test
bằng khớp nhân tạo có xi măng.
- Tháo ga rô, cầm máu, khâu phục hồi
vết mổ.
Sau mổ 1 ngày, BN được hướng dẫn
tập gấp, duỗi và đi. Chụp X-quang quy
ước khớp gối.
* Tiến hành đo các góc giải phẫu trước
và sau phẫu thuật:
- Góc chày trong gần: Xác định bởi
trục của xương chày và mặt khớp mâm
chày (hình 1).
- Góc đùi ngoài xa: Xác định bởi trục
xương đùi và mặt khớp đầu dưới xương
đùi (hình 2).
- Góc chày đùi: Xác định bởi trục
của xương đùi và trục của xương chày
(hình 3).
* Đánh giá kết quả theo Timothy L.
Kahn và CS [5]:
- Góc chày trong gần được chia làm 3
nhóm: Mở góc vào trong khi < 90º, mở
góc ra ngoài, thẳng trục khi góc 90º, mở
góc ra ngoài khi > 90º.
- Góc đùi ngoài xa được chia làm 3
nhóm: Góc mở ra ngoài khi < 82º, thẳng
trục khi góc trong khoảng 82 - 86º, mở
góc vào trong khi > 86º.
- Góc chày đùi được chia làm 3 nhóm:
Mở góc vào trong khi > 178º, thẳng trục
khi góc trong khoảng 173 - 178º, mở góc
ra ngoài khi < 173º.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
57
Hình 1: Góc chày trong gần trước và sau phẫu thuật.
Hình 2: Góc đùi xa ngoài trước và sau phẫu thuật.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
58
Hình 3: Góc chày đùi trước và sau phẫu thuật.
Tất cả tham số nghiên cứu trên phim X-quang do bác sỹ X-quang thực hiện và
thống nhất bởi bác sỹ chuyên khoa phẫu thuật khớp.
Các tham số X-quang: So sánh góc đùi-chày, góc chày trong gần, góc đùi ngoài xa
trước và sau phẫu thuật.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN
Bảng 1: Đặc điểm nhóm nghiên cứu.
Nam (n = 26) Nữ (n = 38) Tổng
Tuổi:
> 60
55 - 60
39 - 82
18 (69,23%)
54 - 79
30 (78,95%)
37 (97,37%)
Khớp gối phải 16 (61,54%) 20 (52,63%) 36 (56,25%)
Khớp gối trái 10 (38,46%) 18 (47,37%) 28 (43,75%)
Kết quả cho thấy, tỷ lệ BN nữ nhiều hơn nam, phần lớn BN > 60 tuổi ở cả 2 giới, chỉ
có 1 BN nữ < 55 tuổi. Không có sự khác biệt rõ rệt giữa số chân phải và chân trái được
phẫu thuật ở cả 2 nhóm BN. Có 10 BN bị tổn thương cả 2 gối nhưng những trường
hợp này chưa được phẫu thuật gối còn lại.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
59
Bảng 2: Các tham số đo trên phim X-quang trước và sau phẫu thuật.
Trước phẫu thuật
n (%)
Sau phẫu thuật
n (%)
Góc chày trong gần
< 90º (mở góc vào trong)
90º (thẳng trục)
> 90º (mở góc ra ngoài)
54 (84,38)
4 (6,25)
6 (9,37)
20 (31,25)
32 (50)
12 (18,75)
Góc đùi ngoài xa
< 82º (mở góc ra ngoài)
82 - 86º (thẳng trục)
> 86º (mở góc vào trong)
32 (50)
14 (21,87)
18 (28,13)
6 (9,37)
38 (59,38)
20 (31,25)
Góc chày đùi
< 173º (mở góc ra ngoài)
173 - 178º (thẳng trục)
> 178º (mở góc vào trong)
6 (9,39)
14 (21,86)
44 (68,75)
2 (3,12)
54 (84,38)
8 (12,5)
* Góc chày trong gần: Trước phẫu
thuật, phần lớn BN đều bị tổn thương
mâm chày trong nhiều hơn mâm chày
ngoài (84,38%). Đây là một trong những
nguyên nhân chính làm cho góc chày đùi
mở góc vào trong (gối vẹo trong). Sau
mổ, góc này được cải thiện hơn, chỉ còn
31,25% mở góc vào trong. Tuy nhiên, chỉ
50% BN có góc chày trong gần đạt 90º
(trước phẫu thuật: 6,25%). Trong phẫu
thuật, dù góc này là bao nhiêu độ, phẫu
thuật viên cũng luôn hướng tới cắt mâm
chày sao cho mặt cắt vuông góc với trục
của xương chày (góc chày trong 90º). Để
thực hiện lát cắt này, có thể sử dụng gá
ngoài ống tủy hoặc gá trong ống tủy
xương chày. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi sử dụng kỹ thuật gá ngoài ống
tủy xương chày. Đây có lẽ là nguyên
nhân dẫn tới độ chính xác không cao khi
cắt mâm chày.
Vikas Karade và CS (2012) [1] đã tiến
hành so sánh độ chính xác của lát cắt
mâm chày giữa 2 kỹ thuật gá ngoài ống
tủy (65 trường hợp) và gá trong ống tủy
(27 trường hợp). Kết quả cho thấy, các
trường hợp gá trong ống tủy xương chày
cho độ chính xác của lát cắt cao hơn gá
ngoài ống tủy.
Nghiên cứu của Timothy L. Kahn và
CS [5] thực hiện ở 172 trường hợp với
174 khớp gối được phẫu thuật. Kết quả
góc chày trong gần được cải thiện từ
67,82% mở góc vào trong trước phẫu
thuật còn 18,39% và 32,18% mở góc ra
ngoài lên 81,61%.
* Góc đùi ngoài xa: Trong nghiên cứu
này, góc đùi ngoài xa cũng được cải thiện
từ 21,87% trước phẫu thuật lên 59,38%
trong khoảng 82 - 86º (thẳng trục). Góc
này phụ thuộc vào lát cắt đầu xa của
xương đùi. Tất cả các kỹ thuật cắt đầu xa
của xương đùi đều sử dụng gá trong ống
tủy xương đùi. Tuy nhiên, góc này còn
phụ thuộc vào điểm của gá trong ống tủy
xương đùi (khi điểm vào không trùng với
trục của ống tủy, hướng cắt đầu xa sẽ
thay đổi) và góc định hướng cắt đầu xa
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
60
so với gá cố định trong ống tủy xương đùi
do phẫu thuật viên lựa chọn (nghiên cứu
này chọn 6º). Đây là góc tạo bởi trục của
xương đùi và trục cơ học của chi dưới
(đường nối từ tâm chỏm xương đùi qua
tâm khớp gối đến tâm của cổ chân, vuông
góc với khe khớp gối). Trong nhiều
nghiên cứu, góc này được xác định trong
khoảng 5 - 7º. Tuy nhiên, đây là các
nghiên cứu ở châu Âu và Mỹ. Theo chúng
tôi, góc này có thể thay đổi theo chủng
tộc và từng cá thể.
Hamidreza Yazdi và CS [2] đã chỉ ra:
Trong phẫu thuật thay khớp gối, dụng cụ
gá nằm trong ống tủy xương đùi được sử
dụng như trục của thân xương đùi. Độ
chính xác của góc cắt đùi ngoài xa còn
phụ thuộc vào độ dài của dụng cụ gá
trong lòng ống tủy xương đùi. Phần gá
trong lòng ống tủy càng dài, độ chính xác
càng cao.
Theo Timothy L. Kahn và CS [5], góc
đùi xa ngoài cải thiện từ 8,62% trường
hợp mở góc ra ngoài trước phẫu thuật
còn 2,3% sau phẫu thuật, 50% trường
hợp là góc trung gian trước phẫu thuật
còn 26,44% sau phẫu thuật; 41,38%
trường hợp mở góc vào trong trước phẫu
thuật, sau phẫu thuật là 71,26%.
* Góc chày đùi: Trong phẫu thuật thay
khớp gối nhân tạo, thật khó để phục hồi
trục cơ học của chi dưới do ga rô, vải trải
che phủ vô trùng và đặc biệt những BN
có thể trạng béo làm cản trở phẫu thuật
viên định hướng. Trong nghiên cứu này,
trước phẫu thuật phần lớn BN có góc
chày đùi mở góc vào trong (68,75%),
21,86% gối chưa bị biến dạng nhiều, chỉ
có 9,39% gối bị mở góc ra ngoài. Tương
ứng với đặc điểm này trên phim X-quang,
mâm chày trong bị tổn thương nhiều hơn,
làm cho gối vẹo trong (hình 1, 2, 3). Sau
phẫu thuật, góc chày đùi cải thiện đáng
kể. Trước phẫu thuật, chỉ có 21,86% chi
thẳng trục, sau phẫu thuật là 84,38%,
nhưng vẫn còn 12,5% gối mở góc vào
trong và 3,12% gối mở góc ra ngoài. Tình
trạng gối bị mở góc vào trong hay ra
ngoài là do các lắt cắt ở đầu xa xương
đùi và đầu gần mâm chày chưa đạt được
như mong muốn. Một trong các mục tiêu
của các lát cắt ở đầu xa xương đùi và
đầu gần xương chày là đảm bảo khôi
phục trục cơ học đạt 180º (chỏm xương
đùi - tâm khớp gối và tâm khớp cổ chân
thẳng hàng).
Nghiên cứu của Timothy L. Kahn và CS
[5] cho thấy, góc chày đùi cải thiện so với
trước phẫu thuật: 27,01% trường hợp mở
góc ra ngoài trước phẫu thuật, sau phẫu
thuật tỷ lệ này là 44,83%. 29,89% trường
hợp trước mổ là trung gian, sau phẫu thuật
là 47,13%. 43,10% trường hợp có góc
mở vào trong, sau phẫu thuật là 8,05%.
Tiêu chí đánh giá các góc đùi ngoài xa,
góc chày trong gần và góc chày đùi ở một
số nghiên cứu là khác nhau, chênh lệch
một vài độ [3, 4, 5]. Tuy nhiên, mục đích
cuối cùng vẫn là khôi phục trục cơ học
của chi dưới.
Để phục hồi tối ưu trục cơ học của chi
dưới, cần chụp toàn bộ chi dưới trên 1
phim quy ước nhằm đánh giá mức độ
biến dạng của góc chày đùi, góc đùi ngoài
xa, góc chày trong gần, từ đó làm cơ sở
lựa chọn góc cắt đầu xa xương đùi và
đầu gần mâm chày. Kỹ thuật chụp phim
này khá phổ biến và gần như bắt buộc
trước phẫu thuật ở nhiều nước trên thế
giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, kỹ
thuật này chưa được phổ biến nên ít
nhiều ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật.
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 3-2020
61
KẾT LUẬN
Kỹ thuật thay khớp gối toàn phần lần
đầu không xi măng đã cải thiện đáng kể
trục cơ học của chi, các góc chày trong
gần, góc đùi ngoài xa. Tuy nhiên, vẫn còn
15,62% trường hợp lệch trục (vào trong
hoặc ra ngoài). Hạn chế này có thể liên
quan tới kỹ thuật gá ngoài để cắt đầu trên
xương chày và góc cắt đầu xa xương đùi
chưa dựa vào giải phẫu riêng biệt và
phim X-quang toàn bộ chi dưới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vikas Karadel, B. Ravil, Manish Agarwal.
Extramedullary versus intramedullary tibial
cutting guides in megaprosthetic total knee
replacement. Journal of Orthopaedic Surgery
and Research. 2012, 7, p.33.
2. Hamidreza Yazdi, Ara Nazarian, Jim S.
Wu et al. Different references for valgus cut
angle in total knee arthroplasty. Arch Bone Jt
Surg. 2018, 6(4), pp.289-293.
3. D. Deokate Pravin, Vishal S. Patil, R.G.
Puranik. Radiological assessment of alignment
of knee and prosthesis after primary total
knee arthroplasty. International Journal of
Scientific Study. 2017, 5(3), pp.248-251.
4. Yu-Hsien Lin, Feng-Shuo Chang, Kun-
Hui Chen et al. Mismatch between femur and
tibia coronal alignment in the knee joint:
Classification of five lower limb types
according to femoral and tibial mechanical
alignment. BMC Musculoskeletal Disorders.
2018, 19, p.411.
5. Timothy L. Kahn, Aydin Soheili, Ran
Schwarzkopf. Outcomes of total knee
arthroplasty in relation to preoperative
patient-reported and radiographic measures:
Data from the osteoarthritis initiative. Geriatric
Orthopaedic Surgery & Rehabilitation. 2013,
4(4), pp.117-126.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_phau_thuat_thay_khop_goi_toan_phan_phan_tich_tren_ph.pdf