Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở nhóm mổ
trích có tinh trùng nồng độ FSH trung bình là
11,0±9,3, nhóm không thấy tinh trùng nồng độ
FSH trung bình là 33,6±17,5, sự khác biệt giữa
2 nhóm khác nhau có ý nghĩa thống kê p<0,05.
Đối với nhóm FSH<12mIU/ml, 91,7% phẫu thuật
tìm thấy tinh trùng, nhóm FSH>24mIU/ml, 91,3%
không tìm thấy tinh trùng. Theo Ju Ta Seo, trong
nhóm vô tinh không do tắc nghẽn, với FSH>24mIU/
ml, có 12,5% mổ trích tinh trùng thành công, từ 12-
24mIU/ml có 32,7% và khi FSH<12mIU/ml tỷ lệ
tìm thấy tinh trùng là 82% [10].
Nghiên cứu được tiến hành trên 56 bệnh nhân,
tất cả các bệnh nhân đều được tiến hành làm
TESA, như một thủ thuật đầu tay. Nếu TESA thất
bại (không tìm thấy tinh trùng trong dịch chọc hút),
bệnh nhân được tiến hành làm PESA. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ tìm thấy tinh trùng khi tiến
hành chọc hút tinh trùng qua da (TESA, PESA) là
25/29 (86,2%). TESE là phương án cuối cùng sau
khi TESA và PESA thất bại, chỉ có 4 trường hợp
được tiến hành làm TESE thành công. Điều này có
nghĩa là, một khi thất bại với chọc hút tinh trùng qua
da (TESA, PESA), thì khả năng tìm thấy tinh trùng
sau TESE là không cao. Một vài nghiên cứu chỉ ra
rằng với những trường hợp vô tinh không phải do
tắc nghẽn, thì TESE dường như là phương pháp
có hiệu quả hơn so với các phương pháp chọc hút
tinh trùng qua da (TESA, PESA) [5]. Một vài nghiên
cứu khác lại cho rằng, phương pháp chọc hút qua
da, dễ làm, hiệu quả cao, ít xâm lấn, TESA nên là
lựa chọn đầu tay trong những trường hợp này [7].
Theo nghiên cứu của J. Houwen và cộng sự, cơ hội
tìm thấy tinh trùng trong TESE là thấp khi tinh trùng
không được tìm thấy theo phương pháp TESA [6].
Từ 2 biểu đồ đường cong ROC ở trên, chúng ta
có thể nhận thấy được rằng, kích thước tinh hoàn
và giá trị FSH rất có ý nghĩa trong việc dự báo
khả năng mổ trích tinh trùng thành công. Hiện
nay các nghiên cứu về ngưỡng giá trị kích thước
tinh hoàn cũng như FSH trong việc dự báo mổ
trích tinh hoàn chưa có nhiều, do đó chúng ta nên
mở rộng cỡ mẫu nghiên cứu, để từ đó đưa ra dự
báo chính xác hơn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả phẫu thuật trích tinh trùng trong các trường hợp vô tinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYỄN THỊ DIỄM THƯ, LÊ MINH TÂM, NGUYỄN THỊ MỸ, CAO NGỌC THÀNH
152
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
P
H
Ụ
K
H
O
A
–
N
Ộ
I
TI
ẾT
,
V
Ô
S
IN
H
Nguyễn Thị Diễm Thư, Lê Minh Tâm, Nguyễn Thị Mỹ, Cao Ngọc Thành
Bệnh viện ĐH Y Dược Huế
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TRÍCH TINH TRÙNG
TRONG CÁC TRƯỜNG HỢP VÔ TINH
Tác giả liên hệ (Corresponding author):
Nguyễn Thị Diễm Thư,
email: diemthu2209@yahoo.com
Ngày nhận bài (received): 10/06/2016
Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised):
24/06/2016
Ngày bài báo được chấp nhận đăng
(accepted): 30/06/2016
Tóm tắt
Mục tiêu nghiên cứu: đánh giá kết quả của phẫu thuật trích tinh trùng
và tìm hiểu mối liên quan giữa kết quả phẫu thuật trích tinh trùng với thể
tích tinh hoàn, giá trị hormone FSH.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: từ tháng 12/2013 đến tháng
12/2015, tại Trung tâm nội tiết sinh sản và vô sinh Bệnh viện Đại học Y
Dược Huế, nghiên cứu tiến cứu trên 56 bệnh nhân được chẩn đoán là vô
tinh (Azoospermia) sau 2 lần làm xét nghiệm tinh dịch đồ.
Kết quả: 29/56 (51,8%) bệnh nhân tìm thấy tinh trùng sau phẫu thuật
mổ trích tinh trùng. Ở nhóm mổ có tinh trùng, thể tích tinh hoàn trung
bình là 16,7±11,4ml, nồng độ FSH trung bình là 11,0±9,3mIU/ml. Ở
nhóm mổ không có tinh trùng, thể tích tinh hoàn trung bình là 4,3±3,3ml,
nồng độ FSH trung bình là 33,6±17,5mIU/ml, sự khác biệt nhau giữa
các nhóm có ý nghĩa thống kê, p<0,05.
Kết luận: Phương pháp chọc hút tinh trùng qua da (TESA, PESA)
mang lại hiệu quả cao. Cần dựa vào thể tích tinh hoàn và giá trị FSH để
dự báo kết quả phẫu thuật trích tinh trùng.
Abstract
RESULT OF SURGICAL SPERM RETRIEVAL IN
MEN WITH AZOOSPERMIA
Objectives: To assess the results of surgical sperm retrieval and
understand the relationship between the results of sperm retrieval
procedures with testicular volume, hormone FSH level.
Materials and methods: From 12/2013 to 12/2015, at the Center
for Reproductive Endocrinology and Infertility, prospective study on
56 patients were diagnosed with azoospermia after two times to test
semen analyse.
Results: Spermatozoa were successfully recovered in 29 of 56
(51.8%) men. In the surgery group had sperm, testicular volume
average was 16.7±11.4ml, average level of FSH was 11.0 ± 9.3mIU /
TẠ
P C
H
Í PH
Ụ
SẢ
N
- 14(03), 152 - 156, 2016
153
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
ml. In the surgery group no sperm, testicular volume average was 4.3±3.3ml, average level of FSH
was 33.6±17.5mIU / ml, the difference between groups was significant statistics, p <0.05.
Conclusions: method percutaneous sperm aspiration (TESA, PESA) provides high efficiency. It
should be based on the volume testicular and level of FSH to predict surgical outcomes of surgical
sperm retrieval.
1. Đặt vấn đề
Azoospermia được ghi nhận là sự thiếu vắng
tinh trùng trong tinh dịch (WHO, 2010) và đó là
hậu quả của một trong hai tinh hoàn thất bại việc
khởi phát hoặc duy trì sự sinh tinh bởi vì nguyên
nhân tại chỗ hoặc các bất thường ngoại sinh (vô
tinh do không tắc nghẽn) hoặc tắc nghẽn hệ thống
dẫn tinh. Hoạt động của tinh hoàn rất phức tạp,
đan xen giữa hoạt động nội tiết và sản xuất tinh
trùng, nó dẫn đến sự sản xuất tinh trùng không chỉ
phụ thuộc vào tế bào Sertoli và hệ thống ống sinh
tinh mà còn phụ thuộc vào hoạt động nội tiết. Theo
báo cáo trong các y văn, Azoospermia thường
được tìm thấy từ 15-20% những người đàn ông đến
khám vô sinh (Bhasin et al., 2007).
Vô tinh có thể được phân loại thành 3 nhóm
chính: trước tinh hoàn, tại tinh hoàn và sau tinh
hoàn. Thông thường vô tinh thường được phát hiện
trong quá trình khám vô sinh. Nó được xác định
dựa trên cơ sở của hai mẫu đánh giá phân tích tinh
dịch ở 2 lần làm khác nhau (khi mẫu tinh dịch sau
khi ly tâm cho thấy không có tinh trùng dưới kính
hiển vi và đòi hỏi một lần làm tinh dịch khác).
Bên cạnh đó, một phân loại khác thường
gặp trên lâm sàng đó là vô tinh do tắc nghẽn
(Obstructive azoospermia: OA) và vô tinh không do
tắc nghẽn (Non-obstructive azoospermia: NOA).
Những bệnh nhân OA do tắc nghẽn hoàn toàn
ống dẫn tinh gây ra bởi các bất thường bẩm sinh,
viêm, chấn thương hoặc do các nguyên nhân khác,
xuất ra không có tinh trùng (Dohle et al., 2005;
McLachlan et al., 2007). Trong những trường hợp
này, chức năng sinh tinh vẫn bình thường, những
bệnh nhân vô tinh do OA thường chiếm khoảng
40% các trường hợp vô tinh. 60% khác không
sản xuất tinh trùng trong tinh hoàn của họ như là
một hệ quả của sự thất bại sinh tinh do thiếu hụt
gonadotrophin, suy tinh hoàn nguyên phát, biến
đổi nhiễm sắc thể hoặc do những nguyên nhân
khác (Dohle et al., 2005; McLachlan et al., 2007).
Chúng sẽ được phân vào nhóm NOA. Nói chung,
đứng trước 1 bệnh nhân vô tinh, chúng ta cần phải
tiến hành làm các xét nghiệm cơ bản như đo lường
các hormone như testosterone, LH và FSH, siêu âm
đánh giá kích thước tinh hoàn hoặc các tổn thương
kèm theo, xét nghiệm nhiễm sắc thể.
Đo kích thước tinh hoàn và định lượng giá trị
hormone sinh dục được xem như là xét nghiệm đầu
tay để đánh giá vô tinh có phải do nguyên nhân
thất bại sinh tinh hay không. Sự giảm kích thước
tinh hoàn và nồng độ hormone sinh dục thường
có nghĩa là thất bại sinh tinh. Tuy nhiên, nồng độ
hormone có thể dao động trong một phạm vi rộng.
Hơn thế nữa, không chi những bệnh nhân vô tinh
do tắc nghẽn mà vô tinh không tắc nghẽn cũng
có thể tích tinh hoàn và nồng độ hormone sinh
dục bình thường, làm hạn chế giá trị dự đoán. Xét
nghiệm nhiễm sắc thể có thể tìm ra một số nguyên
nhân gây vô tinh. Nhưng những xét nghiệm này
thường phức tạp và tốn kém thời gian và tiền bạc.
Mổ trích tinh trùng là một biện pháp để xác định
khả năng sinh tinh trùng của tinh hoàn. Đây là một
phương pháp chính xác để phân biệt giữa OA và
NOA, là một phương pháp đòi hỏi xâm nhập, tiến
hành thực hiện các thủ thuật trên tinh hoàn, mào
tinh hoàn của bệnh nhân vô tinh, vừa góp phần
chẩn đoán nhưng cũng là một bước quan trọng
trong việc điều trị hỗ trợ sinh sản. Ba phương pháp
được tiến hành thực hiện ở trung tâm Nội tiết sinh
sản chúng tôi là TESA (testicular sperm aspiration):
sử dụng kim cánh én chọc vào tinh hoàn, sau đó
hút dịch và mô tinh hoàn dưới áp lực âm, PESA
Nghiên cứu được thực hiện theo phương pháp
nghiên cứu tiến cứu. Những bệnh nhân sau khi
được chẩn đoán là vô tinh sẽ được khám xét lâm
sàng, khai thác tiền sử bệnh sử, làm các xét nghiệm
tiền phẫu cần thiết. Bên cạnh đó, những bệnh nhân
này còn được tiến hành làm siêu âm bìu đánh giá
kích thước tinh hoàn cũng như các tổn thương khác
kèm theo, được định lượng các giá trị hormone như
FSH, LH, testosterone.
Thủ thuật được tiến hành tuần tự theo các phương
pháp TESA, PESA và TESE. Mẫu trích tinh trùng sẽ
được gởi qua phòng lab nam để được xử lí, tìm tinh
trùng. Tiến hành dừng thủ thuật khi phát hiện được
tinh trùng trong mẫu trích. Đối với những bệnh nhân
sau khi tiến hành TESE cả 2bên tinh hoàn mà vẫn
không thấy tinh trùng, thủ thuật sẽ được dừng lại.
Số liệu được nhập và xử lý theo phương pháp
thống kê y học, sử dụng phần mềm SPSS 19.0.
Tính trung bình và độ lệch chuẩn cho các biến số
và giá trị p<0,05 được xem là có ý nghĩa.
3. Kết quả
Tiến hành thực hiện phẫu thuật trích tinh trùng
trên 56 bệnh nhân (Bảng 1).
Có 29/56 bệnh nhân tìm thấy tinh trùng sau
mổ, chiếm tỷ lệ 51,8% (Bảng 2).
Diện tích dưới đường cong ROC của kích thước
tinh hoàn là 90,9% với p=0,0001<0,05. Tại vị trí
kích thước tinh hoàn >8,8ml, có độ nhạy chẩn đoán
là Se=75,9%, độ đặc hiệu chẩn đoán Sp=92,6%,
giá trị chẩn đoán dương tính là 84,6%, giá trị chẩn
đoán âm tính là 87,7%.(Biểu đồ 1)
Diện tích dưới đường cong ROC của FSH
là 89,7% với p=0,0001<0,05. Tại vị trí FSH <
21,78mIU/ml, có độ nhạy chẩn đoán là Se=89,7%,
độ đặc hiệu chẩn đoán Sp=85,2%, giá trị chẩn
đoán dương tính là 86,7%, giá trị chẩn đoán âm
tính là 88,5%. (Biểu đồ 2)
4. Bàn luận
Sự sinh tinh là một quá trình hết sức phức tạp,
điều này không có gì ngạc nhiên khi chúng ta nhận
thấy sự biệt hoá cao độ của tinh trùng, quá trình
này đòi hỏi sự điều hoà của hệ thống hormone như
FSH, LH, testosterone, Cùng với sự phát triển của
y học, đặc biệt là chuyên ngành vô sinh đã mang
lại cơ hội có con cho các cặp vợ chồng vô sinh,
NGUYỄN THỊ DIỄM THƯ, LÊ MINH TÂM, NGUYỄN THỊ MỸ, CAO NGỌC THÀNH
154
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
P
H
Ụ
K
H
O
A
–
N
Ộ
I
TI
ẾT
,
V
Ô
S
IN
H
(percutaneous epidymal sperm aspiration) tương tự
như TESA, sử dụng kim én chọc và hút dịch ở mào
tinh hoàn, TESE (testicular sperm extraction) phẫu
thuật sinh thiết tinh hoàn.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài nhằm
đánh giá kết quả của phẫu thuật trích tinh trùng và
tìm hiểu mối liên quan giữa kết quả phẫu thật trích
tinh trùng với thể tích tinh hoàn, giá trị hormone FSH.
2. Đối tượng và phương
pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 56 bệnh nhân
đến khám và điều trị tại Trung tâm nội tiết sinh sản
và vô sinh từ tháng 12/2013 đến tháng 12/2015
với chẩn đoán là vô tinh (Azoospermia) theo tiêu
chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới WHO 2010, sau
2 lần làm xét nghiệm tinh dịch đồ, không tìm thấy
tinh trùng trong mẫu tinh dịch (sau khi li tâm).
Đặc điểm n % X ±SD
Tuổi
< 35
≥ 35
Tổng
Min
Max
33
23
56
24
69
58,9
41,1
100,0 35,4±8,7
Loại vô sinh
VSI
VSII
Tổng
51
5
56
91,1
8,9
100,0
Thời gian mong con
< 3 năm
≥ 3 năm
Tổng
20
36
56
35,7
64,3
100
4,3±2,9
Bảng 1. Đặc điểm nhóm nghiên cứu
Loại thủ thuật TESA PESA TESE
Số trường hợp mổ có tinh trùng 8 17 4
Bảng 2: Kết quả mổ trích tinh trùng
Đặc điểm Mổ có tinh trùng Mổ không có tinh trùng p
Thể tích tinh hoàn (ml)
≤5
5-15
>15
Max
Min
X ±SD
3 (8,1%)
14 (42,4%)
12 (92,3%)
42,6
3,2
16,7±11,4
34 (91,9%)
19 (57,6%)
1 (7,7%)
16,2
0,8
4,3±3,3
< 0,05
Nồng độ FSH (mIU/ml)
≤12
12-24
>24
Max
Min
X ±SD
22 (91,7%)
5 (55,6%)
2 (8,7%)
63
1,54
11,0±9,3
2 (8,3%)
4 (44,4%)
21 (91,3%)
76,93
3,85
33,6±17,5
< 0,05
Bảng 3: Mối liên quan giữa thể tích tinh hoàn, xét nghiệm nội tiết với kết quả trích tinh trùng
TẠ
P C
H
Í PH
Ụ
SẢ
N
- 14(03), 152 - 156, 2016
155
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
Biểu đồ 1: Chỉ số dự báo các ngưỡng của kích thước tinh hoàn trong dự đoán khả năng mổ
trích tinh trùng thành công
Biểu đồ 2: Chỉ số dự báo các ngưỡng của FSH trong dự đoán khả năng mổ trích tinh trùng
thành công
trong đó có những trường hợp vô tinh. Phẫu thuật
trích tinh trùng là một phương pháp giúp phân biệt
vô tinh do tắc nghẽn hoặc không do tắc nghẽn,
đồng thời là một bước quan trọng trong điều trị
vô sinh, mẫu trích tinh trùng sau khi được xử lý tìm
thấy tinh trùng sẽ được trữ lạnh, và được sử dụng
cho việc ICSI sau này.
Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là
38,4±8,7, dưới 35 tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn là
58,9%. Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu tương
tự như kết quả nghiên cứu của Ju Ta Seo và Woo
Jin Ko là 35,4±2,7 [10]. Vô sinh I chiếm tỷ lệ
91,1%, có 8,9% trường hợp vô tinh gặp ở những
người vô sinh II, những trường hợp này thông
thường là biến chứng của viêm tinh hoàn do quai
bị hoặc không do quai bị. Thời gian mong con
trung bình của mẫu nghiên cứu là 4,3±2,9, trên 3
năm chiếm 64,3%.
Trong 56 bệnh nhân vô tinh được tiến hành trích
tinh trùng có 51,8% bệnh nhân nam được tìm thấy
tinh trùng, và 48,2% không tìm thấy tinh trùng, kết
quả này tương tự kết quả của Houwen là 45,9%
[6]. Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy rằng, kích
thước tinh hoàn càng nhỏ, khả năng phẫu thuật
không tìm thấy tinh trùng càng cao, và ngược lại,
kích thước tinh hoàn càng lớn, khả năng phẫu
thuật có tinh trùng sẽ càng cao. Trong nhóm kích
thước tinh hoàn dưới 5ml, phẫu thuật không tìm
thấy tinh trùng chiếm tỷ lệ rất cao 91,9%. Nhóm
thể tích tinh hoàn 15ml trở lên, 92,3% tìm thấy tinh
trùng, sự khác biệt giữa các nhóm có ý nghĩa thống
kê với p<0,05. Trong nghiên cứu của nhóm tác giả
Ju Ta Seo và Woo Jin Ko, mặc dù chỉ nghiên cứu
trên nhóm đối tượng vô tinh không do tắc nghẽn
như hội chứng duy nhất 1 tế bào Sertoli (Sertoli
cell-only syndrome), hội chứng trưởng thành dừng
lại (maturation arrest) và thiểu năng sinh tinh nặng
(severe hypospermatogenesis) tuy nhiên cũng cho
thấy rằng, thể tích tinh hoàn càng lớn, thì khả năng
phẫu thuật tìm thấy tinh trùng càng cao, thể tích
tinh hoàn trên 15ml, phẫu thuật thành công là
53,2%, từ 6-14ml là 40,4% và dưới 5ml, tỷ lệ tìm
thấy tinh trùng là 6,4% [10].
Vai trò của FSH trong việc phát động và duy
trì quá trình sinh tinh đã được nghiên cứu rộng rãi
nhưng chưa hoàn toàn ở con người, vẫn còn nhiều
câu hỏi đặt ra về tầm quan trọng của FSH trong một
số điều kiện nhất định như những người đàn ông với
đột biến làm bất hoạt các gen mã hoá thụ thể FSH
nhưng hoạt động sinh androgen vẫn bình thường,
và là biểu hiện vai trò của testosterone trong trường
hợp thiếu vắng FSH [2]. Trong điều kiện của chức
năng tuyến yên còn nguyên vẹn và không có tổn
thương tinh hoàn, nồng độ FSH liên quan tích cực
đến sự sinh tinh, với giá trị thấp ở bé trai trước tuổi
dậy thì và tăng ở tuổi trưởng thành. Mối tương quan
này thay đổi trong những trường hợp loạn sản sinh
tinh hoặc vô tinh, FSH sẽ tăng tiết, nồng độ FSH tăng
cao ở ngoại vi. Nồng độ FSH tăng cao được ghi
nhận khi số lượng tinh trùng rất thấp hoặc không tìm
thấy tinh trùng, trong những trường hợp vô tinh. Tuy
nhiên mối quan hệ giữa FSH và quá trình sinh tinh,
không được ứng dụng để phân biệt giữa vô tinh do
tắc nghẽn tổn thương trung ương hoặc cả hai, mà
thay đổi dựa vào bệnh lí cá nhân [2].
NGUYỄN THỊ DIỄM THƯ, LÊ MINH TÂM, NGUYỄN THỊ MỸ, CAO NGỌC THÀNH
156
Tậ
p
14
, s
ố
03
Th
án
g
07
-2
01
6
P
H
Ụ
K
H
O
A
–
N
Ộ
I
TI
ẾT
,
V
Ô
S
IN
H
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở nhóm mổ
trích có tinh trùng nồng độ FSH trung bình là
11,0±9,3, nhóm không thấy tinh trùng nồng độ
FSH trung bình là 33,6±17,5, sự khác biệt giữa
2 nhóm khác nhau có ý nghĩa thống kê p<0,05.
Đối với nhóm FSH<12mIU/ml, 91,7% phẫu thuật
tìm thấy tinh trùng, nhóm FSH>24mIU/ml, 91,3%
không tìm thấy tinh trùng. Theo Ju Ta Seo, trong
nhóm vô tinh không do tắc nghẽn, với FSH>24mIU/
ml, có 12,5% mổ trích tinh trùng thành công, từ 12-
24mIU/ml có 32,7% và khi FSH<12mIU/ml tỷ lệ
tìm thấy tinh trùng là 82% [10].
Nghiên cứu được tiến hành trên 56 bệnh nhân,
tất cả các bệnh nhân đều được tiến hành làm
TESA, như một thủ thuật đầu tay. Nếu TESA thất
bại (không tìm thấy tinh trùng trong dịch chọc hút),
bệnh nhân được tiến hành làm PESA. Trong nghiên
cứu của chúng tôi, tỷ lệ tìm thấy tinh trùng khi tiến
hành chọc hút tinh trùng qua da (TESA, PESA) là
25/29 (86,2%). TESE là phương án cuối cùng sau
khi TESA và PESA thất bại, chỉ có 4 trường hợp
được tiến hành làm TESE thành công. Điều này có
nghĩa là, một khi thất bại với chọc hút tinh trùng qua
da (TESA, PESA), thì khả năng tìm thấy tinh trùng
sau TESE là không cao. Một vài nghiên cứu chỉ ra
rằng với những trường hợp vô tinh không phải do
tắc nghẽn, thì TESE dường như là phương pháp
có hiệu quả hơn so với các phương pháp chọc hút
tinh trùng qua da (TESA, PESA) [5]. Một vài nghiên
cứu khác lại cho rằng, phương pháp chọc hút qua
da, dễ làm, hiệu quả cao, ít xâm lấn, TESA nên là
lựa chọn đầu tay trong những trường hợp này [7].
Theo nghiên cứu của J. Houwen và cộng sự, cơ hội
tìm thấy tinh trùng trong TESE là thấp khi tinh trùng
không được tìm thấy theo phương pháp TESA [6].
Từ 2 biểu đồ đường cong ROC ở trên, chúng ta
có thể nhận thấy được rằng, kích thước tinh hoàn
và giá trị FSH rất có ý nghĩa trong việc dự báo
khả năng mổ trích tinh trùng thành công. Hiện
nay các nghiên cứu về ngưỡng giá trị kích thước
tinh hoàn cũng như FSH trong việc dự báo mổ
trích tinh hoàn chưa có nhiều, do đó chúng ta nên
mở rộng cỡ mẫu nghiên cứu, để từ đó đưa ra dự
báo chính xác hơn.
5. Kết luận
- Phương pháp chọc hút tinh trùng qua da
(TESA, PESA) mang lại hiệu quả cao.
- Cần dựa vào thể tích tinh hoàn và giá trị FSH
để dự báo kết quả phẫu thuật trích tinh trùng.
Tài liệu tham khảo
1. Cao Ngọc Thành, Lê Minh Tâm (2011), Nội tiết phụ khoa và y học
sinh sản, Nhà xuất bản Đại học Huế.
2. Adamopoulos DA, Koukkou EG (2010), Value of FSH and inhibin-B
measurements in the diagnosis of azoospermia’ – A clinician’s overview,
International journal of Andrology, 33, e109–e113.
3. Bhasin S (2007), Approach to the infertile man, J Clin Endocrinol
Metab, 92:1995–2004.
4. Dohle GR, Colpi GM, Hargreave TB, Papp GK, Jungwirth A, Weidner
W (2005), EAU Guidelines on male infertility, Eur Urol 48:703–711.
5. Hauser R, Yogev L, Paz G, Yavetz H, Azem F, Lessing JB, et al (2006),
Comparison of efficacy of two techniques for testicular sperm retrieval in
nonobstructive azoospermia: multifocal testicular sperm extraction versus
multifocal testicular sperm aspiration, J Androl, 2006;27:28-33.
6. Houwen J, Lundin K, Derlund BS, et al (2008), Efficacy of
percutaneous needle aspiration and open biopsy for sperm retrieval
in men with non-obstructive azoospermia, Acta Obstetricia et
Gynecologica, 2008; 87: 1033-1038
7. Khadra AA, Abdulhadi I, Ghunain S, Kilani Z (2003). Efficiency of
percutaneous testicular sperm aspiration as a mode of sperm collection
for intracytoplasmic sperm injection in nonobstructive azoospermia, J
Urol, 2003;169:603-5.
8. Liu B, Su S, Wang P, et al (2011), The value of epididymal protease
inhibitor in differential diagnosis between obstructive azoospermia and
non-obstructive azoospermia, Andrologia 43, 346–352.
9. McLachlan RI, Rajpert-De Meyts E, Hoei-Hansen CE, et al (2007),
Histological evaluation of the human testis – approaches to optimizing the
clinical value of the assessment: mini review, Human Reprod 22:2–16.
10. Seo JT and Ko WJ (2001), Predictive factors of successful testicular
sperm recovery in non-obstructive azoospermia patients, International
journal of andrology, 24:306±310.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_phau_thuat_trich_tinh_trung_trong_cac_truong_hop_vo.pdf