Về kết quả nong van: Nghiên cứu của chúng
tôi chỉ ra rằng NVHL bằng bóng Inoue vẫn có
thể tiến hành một cách an toàn và hiệu quả cho
các bệnh nhân HHL khít ngay cả khi điểm siêu
âm khá cao (Wilkins ≥ 9 điểm). Dù diện tích lỗ
van sau nong không thực sự “mỹ mãn” như khi
điểm siêu âm thấp hay nong van bằng dụng cụ
kim loại [10, 14] nhưng các thay đổi trên thông
tim và siêu âm là rất đáng kể và thuyết phục.
Đặc biệt, điều này vô cùng có ý nghĩa với các
BN đang trong tình trạng cấp cứu, phù phổi
cấp, BN không thể mổ vì suy tim quá nặng hoặc
đang trong thai kỳ [7, 9].
Trong các BN có diện tích lỗ van sau nong ≥
1,5 cm2, khi phân tích chúng tôi thấy rằng ở các
BN này điểm vôi hóa lá van thấp hơn rất có ý
nghĩa thống kê so với nhóm diện tích lỗ van sau
nong < 1,5 cm2 (2,07 ± 0,28 so với 2,69 ± 0,47; p <
0,001), các thành phần khác của thang điểm này
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Các BN có
diện tích lỗ van sau nong < 1,5 cm2 cũng có hiện
tượng vôi hóa nhiều trên màn chiếu tia X nhiều
hơn. Phân tích của Bernard Iung [11], Cannan
CR [12], Sutaria R, Palacios [18] cũng cho thấy
điểm vôi hóa van ≥ 2 là yếu tố dự báo độc lập tới
kết quả nong van kém.
Chúng tôi chưa nhận thấy các yếu tố như tuổi,
giới, tình trạng rung nhĩ, HoHL và/hoặc HHoC
đi kèm trước nong, số lần bơm bóng, cỡ bóng tối
đa có ảnh hưởng đến kết quả sau can thiệp.
Về biến chứng: Có 1 trường hợp bị tràn máu
màng tim phải dừng thủ thuật, BN được dẫn lưu
màng tim và không phải mổ cấp cứu. 1 BN cường
phế vị được xử trí tốt, không phải dừng thủ thuật.
Shunt tồn lưu qua vách liên nhĩ gặp ở 7 BN
(3,5%), các shunt này rất bé và không ảnh hưởng
đến huyết động. Tỷ lệ shunt tồn lưu khi nong
van bằng bóng Inoue thấp hơn khi so sánh với
nong van bằng dụng cụ kim loại[10, 14].
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả sớm của phương pháp nong van bằng bóng inoue ở bệnh nhân hẹp hai lá với tổn thương van nặng (Wilkins ≥ 9), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 57 - 2011 11
NGHIEÂN CÖÙU LAÂM SAØNG
Kết Quả Sớm Của Phương Pháp Nong Van Bằng Bóng
Inoue Ở Bệnh Nhân Hẹp Hai Lá Với Tổn Thương
Van Nặng (Wilkins ≥ 9)
Nguyễn Hồng Cường*, Phạm Mạnh Hùng**, Phạm Ngọc Oanh***, Lê Văn Cường*.
TOÙM TAÉT
Đặt vấn đề: Nong van hai lá (NVHL) bằng bóng Inoue ngày nay đã được áp dụng rộng rãi trong nước
và trên thế giới. NVHL đã được chứng minh có hiệu quả ở bệnh nhân có tổn thương van và tổ chức
dưới van mà hình thái van còn phù hợp. Liệu chúng ta có thể nong van hai lá cho những trường hợp
HHL mà van tổn thương khá nặng (điểm siêu âm > 8) hay không là câu hỏi cho đề tài này. Mục tiêu:
Đánh giá kết quả sớm của phương pháp nong van hai lá bằng bóng Inoue trong điều trị hẹp van hai lá
khít ở bệnh nhân có tổn thương van nặng (Wilkins >8). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên
cứu mô tả cắt ngang, theo trình tự thời gian, có so sánh đối chứng. Nghiên cứu tiến hành trên 200
bệnh nhân HHL khít có tổn thương van nặng được NVHL bằng bóng Inoue,có so sánh ghép cặp với
200 bệnh nhân được NVHL mà hình thái van còn phù hợp (Wilkins ≤ 8 điểm). Kết quả: Tỷ lệ thành
công về kỹ thuật cao (99,5%), tỷ lệ thành công về kết quả ở mức khá cao (73,8%), không có các biến
chứng nặng (tử vong, tắc mạch, ép tim cấp...), cải thiện về lâm sàng, huyết động và diện tích lỗ van là
rất đáng kể (p < 0,001). Diện tích lỗ van hai lá trước nong là 0,91 ± 0,20 cm2, sau nong đạt được 1,62 ±
0,34 cm2( p < 0,001) và chênh áp trung bình qua van giảm từ 13,65 ± 2,92 mmHg xuống còn 6,92 ± 2,89
mmHg. Có 1 bệnh nhân bị biến chứng tràn máu màng tim. Có 17 trường hợp HoHL nặng (3/4) sau
nong (chiếm 8,54 %) nhưng đều dung nạp tốt với điều trị nội khoa. Kết luận: Nong van hai lá bằng
bóng Inoue vẫn có thể tiến hành và khả thi cho các bệnh nhân bị hẹp van hai lá mà tổn thương van khá
nặng (Wilkins ≥ 9) với sự thận trọng và tại trung tâm có kinh nghiệm với tỷ lệ thành công cao cũng
như cải thiện đáng kể các thông số về diện tích van và huyết động. Lậ p lạ i siêu âm lầ n 2 đượ c thự c
hiệ n trên 419 bệ nh nhân và có 25 bệ nh nhân (6%) có huyế t khố i tĩ nh mạ ch sâu. Tấ t cả bệ nh nhân đượ c
chẩ n đoá n có huyế t khố i tĩ nh mạ ch sâu đề u đượ c điề u trị bằ ng heparin. Xé t nghiệ m D-dimer đượ c
thự c hiệ n cho 503 bệ nh nhân lú c nhậ n và o. D-DIMER dương tí nh (> 500ng/ml) có giá trị tiên đoá n
dương tí nh thấ p huyế t khố i tĩ nh mạ ch sâu (giá trị tiên đoá n dương tí nh = 32,7% {CI 95%, 27,1-38,8}).
Tuy nhiên, như là mộ t xé t nghiệ m tầ m soá t, kế t quả âm tí nh có giá trị bả o đả m rằ ng bệ nh nhân không
có huyế t khố i tĩ nh mạ ch sâu (giá trị tiên đoá n âm tí nh = 89,4% {CI 95%, 85,0-92,6}) và vớ i lầ n tầ m soá t
ban đầ u xé t nghiệ m nà y nhậ n biế t chí nh xá c 58% bệ nh nhân không có huyế t khố i tĩ nh mạ ch sâu.
(*): Bệnh Viện Đa Khoa Thanh Hóa
(**): Viện Tim Mạch - Bệnh Viện Bạch Mai
(***): Bệnh Viện Đa Khoa Đức Giang - Hà Nội
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG12
MÔÛ ÑAÀU
Bệnh thấp tim và bệnh lý van tim hậu
thấp hiện nay vẫn còn là vấn đề y tế quan
trọng ở các nước đang phát triển. Mặc dù
đã có rất nhiều tiến bộ trong điều trị và dự
phòng, nhưng trên thế giới hằng năm vẫn
có hơn chục triệu trẻ em bị thấp tim, nửa
triệu tử vong và hàng chục triệu người tàn
tật do di chứng của bệnh van tim hậu thấp.
Tại Việt Nam, thấp tim và bệnh van tim hậu
thấp còn phổ biến. Trong đó, bệnh hẹp van
hai lá (HHL) là bệnh hay gặp nhất. Đây là
một bệnh nặng với nhiều biến chứng nguy
hiểm như suy tim, rối loạn nhịp, tắc mạch
nãoảnh hưởng đến sức khỏe, chất lượng
sống của bệnh nhân (BN) và là gánh nặng y
tế của đất nước.
Hơn 20 năm qua, vai trò của nong van hai
lá qua da điều trị bệnh hẹp van hai lá (HHL)
liên tục được phát triển và mở rộng. Trong
đó, phương pháp nong van qua da bằng bong
của Inoue là phương pháp được ưu tiên lựa
chọn vì nhiều ưu điểm nổi bật. Nhiều nghiên
cứu trên thế giới cho thấy lựa chọn bệnh nhân
là nền tảng chủ yếu để dự đoán thành công
và lợi ích của biện pháp can thiệp [17, 18].
Lựa chọn bệnh nhân thích hợp cho nong van
hai lá yêu cầu những đánh giá thận trọng và
chính xác hình thái van tim. Thang điểm siêu
âm của Wilkins được sử dụng rộng rãi nhất
để đánh giá đặc điểm hình thái của van hai
lá - yếu tố quyết định thành công của phương
pháp điều trị. Các nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng các bệnh nhân có điểm siêu âm Wilkins
< 9 có kết quả sau nong van tốt hơn, cải thiện
triệu chứng tốt hơn - các bệnh nhân này là các
bệnh nhân có hình thái thương tổn van khá
phù hợp cho NVHL.
Tại Việt Nam, đứng đầu là Viện Tim mạch
Quốc gia, kỹ thuật nong van hai lá bằng bóng
Inoue đã được triển khai và bước đầu thu
được những kết quả khả quan, đáng khích lệ
qua một số nghiên cứu theo dõi sớm và trung
hạn [1, 2, 3, 4, 6, 9]. Đa số BN được lựa chọn
điều trị là các bệnh nhân có hình thái van khá
phù hợp để thực hiện kỹ thuật này (đánh giá
bằng thang điểm Wilkins).
Tuy nhiên, trong thực hành lâm sàng số
lượng BN có tổn thương van tim với hình thái
tổn thương van nặng nề trên siêu âm (Wilkins
≥ 9 điểm) chiếm một tỷ lệ không nhỏ ở các
bệnh nhân HHL khít. Mặt khác, trong điều
kiện thực tế ở nước ta thì phẫu thuật thay
van vẫn là một gánh nặng về mặt kinh tế mà
nhiều BN không thể chi trả. Phẫu thuật cũng
không thể giải quyết được nhu cầu thay van
cho BN, có quá nhiều BN phải chờ mổ trong
khi suy tim vẫn tiến triển và nguy cơ bị các
tai biến vẫn đang rình rập. Hơn nữa, còn rất
nhiều BN rơi vào các tình trạng lâm sàng đặc
biệt như đang có thai, phù phổi cấp, suy tim
quá nặng vv cần phải giải quyết tình trạng
hẹp lỗ van để cứu sống BN hay chí ít cũng
làm giảm bớt bệnh ở những BN không phẫu
thuật được.
NVHL đã chứng minh sự ưu việt của mình
ở các BN có tổn thương van phù hợp cho kỹ
thuật. Kết quả NVHL bằng bóng Inoue ở các
BN có hình thái tổn thương van nặng nề sẽ ra
sao? Có nên tiến hành kỹ thuật này không?
Yếu tố nào có thể ảnh hưởng đến kết quả
nong van ở các BN này? vv là những vấn
đề cần được nghiên cứu và làm rõ. Chúng tôi
tiến hành đề tài này nhằm các mục tiêu sau:
1. Đánh giá kết quả sớm của kỹ thuật
nong van hai lá bằng bóng Inoue trong điều
trị bệnh hẹp van hai lá khít ở bệnh nhân có
điểm Wilkins ≥ 9.
2. Nghiên cứu một số yếu tố có thể ảnh
hưởng đến kết quả nong van hai lá ở các bệnh
nhân có điểm Wilkins ≥ 9.
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 57 - 2011 13
ÑOÁI TÖÔÏNG VAØ PHÖÔNG PHAÙP NGHIEÂN CÖÙU
1. Đối tượng nghiên cứu
• Gồm 200 BN bị HHL khít (diện tích lỗ
van trên siêu âm < 1,5 cm2) có triệu chứng cơ
năng trên lâm sàng (NYHA ≥ 2) và có điểm
siêu âm Wilkins ≥ 9 được NVHL trong giai
đoạn từ tháng 6 năm 2009 đến tháng 6 năm
2010. Nhóm BN này được lấy theo thời gian
không kể đến tuổi, giới, tình trạng bệnh.
• Không có huyết khối nhĩ trái
• HoHL và/hoặc hở/hẹp van động mạch
chủ kèm theo ≤ 2/4.
Bệnh nhân (hoặc thân nhân) phải ký giấy
cam đoan đồng ý được làm thủ thuật theo
quy định chung của bệnh viện.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang
3. Các bước tiến hành nghiên cứu
- Bệnh nhân được khám lâm sàng, làm đủ
các xét nghiệm cận lâm sàng cơ bản và làm
siêu âm qua thành ngực, siêu âm qua thực
quản chẩn đoán.
- Nong van hai lá bằng bóng theo phương
pháp Inoue tại phòng thông tim chụp mạch
của Viện Tim mạch - Bệnh viện Bạch Mai.
- Kiểm tra lại bằng siêu âm được tiến
hành trong vòng 01 tuần sau nong van để
đánh giá kết quả.
4. Định nghĩa thành công
Thành công về kỹ thuật: kỹ thuật được
xem là thành công khi tiến hành trọn vẹn
được các bước từ chọc tĩnh mạch đùi, chọc
được vách liên nhĩ, đưa được bóng qua lỗ van
hai lá và bắt đầu nong van mà không có các
biến chứng nặng nề do các bước tiến hành
trên gây ra.
Thành công về kết quả: kết quả được
coi là thành công khi: diện tích lỗ van hai lá
(MVA) sau nong ≥ 1,5 cm2 và không có các
biến chứng nặng nề (HoHL ≥ 3/4, tắc mạch
não cấp, ép tim cấp).
5. Xử lý số liệu
Các số liệu thu được xử lý theo thuật toán
thống kê y học trên máy vi tính bằng phần
mềm SPSS 16.0
KEÁT QUAÛ
1. Các thông số chung của bệnh nhân
Từ tháng 6 năm 2009 đến tháng 6 năm
2010, chúng tôi đã tiến hành NVHL bằng
bóng Inoue cho 200 BN bị HHL khít có điểm
siêu âm Wilkins ≥ 9 tại Viện Tim mạch Quốc
gia Việt Nam. Các BN này có các đặc điểm
được trình bày ở bảng 1.
Bảng1. Các thông số chung của bệnh nhân
Đặc điểm Kết quả
Tuổi trung bình (năm) (min – max) 45 ± 11 (23 – 78)
Giới nữ (n) (%) 147 (73,5%)
Nhịp xoang (n) (%) 100 (50%)
Tiền sử mổ tách van (n) (%) 20 (10%)
Tiền sử NVHL (n) (%) 39 (19,5%)
Phụ nữ có thai (n) (%) 5 (2,5%)
Tiền sử bị TBMMN (n) (%) 16 (8%)
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG14
Huyết khối tiểu nhĩ trái (n) (%) 9 (4,5%)
NYHA trung bình 2,44 ± 0,62
Điểm Wilkins (min – max) 9,30 ± 0,54 (9 -11)
NVHL cấp cứu (n) (%) 10 (5%)
HoHL ≤ 2/4 kèm theo (n) (%) 87 (43,50%)
HHoC ≤ 2/4 kèm theo (n) (%) 60 (30,00%)
HoBL ≥ 3/4 kèm theo (n) (%) 42 (21,00%)
2. Kết quả
Về mặt kỹ thuật, chúng tôi thành công
199/200 BN (99,5%). Có 1 BN buộc phải dừng
thủ thuật vì biến chứng tràn máu màng tim
khi chọc vách liên nhĩ (BN này sau đó được
dẫn lưu màng ngoài tim và ổn định - không
phải phẫu thuật cấp cứu). Tỷ lệ thành công về
kỹ thuật không có sự khác biệt nào so với các
thống kê khi NVHL cho BN có điểm Wilkins
< 9 và NVHL bằng dụng cụ kim loại [1, 3, 4,
18].
Về mặt kết quả, chúng tôi thành công
147/199 BN. Hai nguyên nhân cơ bản hạn chế
tỷ lệ thành công là diện tích lỗ van sau nong <
1,5 cm2 (41 BN) và bị biến chứng HoHL nặng
≥ 3/4 sau nong van (17 BN).
Những thông số chính đặc trưng cho mức
độ HHL đều được cải thiện sau nong. Các
thông số huyết động trên thông tim và siêu
âm được thể hiện ở bảng 2.
Bảng 2. Các thông số cơ bản trước và sau nong van
Thông số Trước nong Sau nong p
NYHA 2,44 ± 0,62 1,31 ± 0,55 < 0,001
MaxVG (mmHg) 21,37 ± 7,63 13,51 ± 4,50 < 0,001
MVG (mmHg) 13,20 ± 5,46 7,57 ±3,00 < 0,001
ALĐMP tâm thu (mmHg) (Doppler) 52,48 ± 18,79 42,15 ± 13,35 < 0,001
MVA trên siêu âm 2D (cm2) 0,91 ± 0,23 1,62 ± 0,32 < 0,001
MVA (PHT) (cm2) 0,90 ± 0,24 1,64 ± 0,29 < 0,001
ALNT trung bình (mmHg) (thông tim) 23,10 ± 7,58 14,95 ± 5,28 < 0,001
ALĐMP tâm thu (mmHg) (thông tim) 51,91 ± 18,81 37,62 ± 13,78 < 0,001
3. Biến chứng
- Có 1 BN bị tràn máu màng tim liên quan
đến thủ thuật chọc vách liên nhĩ. BN này ổn
định sau khi đặt dẫn lưu màng ngoài tim và
khônh phải mổ cấp cứu.
- Về biến chứng HoHL nặng sau nong
van: nhìn chung có hiện tượng HoHL tăng
thêm sau nong van. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ
ghi nhận được 17 BN (8,54%) bị HoHL ≥ 3/4
sau nong van, nguyên nhân chủ yếu do rách
lá van, 1 trường hợp do đứt dây chằng. Tất cả
các trường hợp HoHL ≥ 3/4 nói trên đều dung
nạp tốt với điều trị nội khoa, không BN nào
phải mổ cấp cứu.
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 57 - 2011 15
- Shunt tồn lưu qua vách liên nhĩ sau can thiệp
phát hiện bằng siêu âm qua thành ngực găp ở 7
BN (3,5%) và không ảnh hưởng tới huyết động.
- Có 1 BN có phản ứng cường phế vị trong
thủ thuật được xử lý ổn định và thủ thuật vẫn
được tiến hành sau đó.
BAØN LUAÄN
Về kết quả nong van: Nghiên cứu của chúng
tôi chỉ ra rằng NVHL bằng bóng Inoue vẫn có
thể tiến hành một cách an toàn và hiệu quả cho
các bệnh nhân HHL khít ngay cả khi điểm siêu
âm khá cao (Wilkins ≥ 9 điểm). Dù diện tích lỗ
van sau nong không thực sự “mỹ mãn” như khi
điểm siêu âm thấp hay nong van bằng dụng cụ
kim loại [10, 14] nhưng các thay đổi trên thông
tim và siêu âm là rất đáng kể và thuyết phục.
Đặc biệt, điều này vô cùng có ý nghĩa với các
BN đang trong tình trạng cấp cứu, phù phổi
cấp, BN không thể mổ vì suy tim quá nặng hoặc
đang trong thai kỳ [7, 9].
Trong các BN có diện tích lỗ van sau nong ≥
1,5 cm2, khi phân tích chúng tôi thấy rằng ở các
BN này điểm vôi hóa lá van thấp hơn rất có ý
nghĩa thống kê so với nhóm diện tích lỗ van sau
nong < 1,5 cm2 (2,07 ± 0,28 so với 2,69 ± 0,47; p <
0,001), các thành phần khác của thang điểm này
khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Các BN có
diện tích lỗ van sau nong < 1,5 cm2 cũng có hiện
tượng vôi hóa nhiều trên màn chiếu tia X nhiều
hơn. Phân tích của Bernard Iung [11], Cannan
CR [12], Sutaria R, Palacios [18] cũng cho thấy
điểm vôi hóa van ≥ 2 là yếu tố dự báo độc lập tới
kết quả nong van kém.
Chúng tôi chưa nhận thấy các yếu tố như tuổi,
giới, tình trạng rung nhĩ, HoHL và/hoặc HHoC
đi kèm trước nong, số lần bơm bóng, cỡ bóng tối
đa có ảnh hưởng đến kết quả sau can thiệp.
Về biến chứng: Có 1 trường hợp bị tràn máu
màng tim phải dừng thủ thuật, BN được dẫn lưu
màng tim và không phải mổ cấp cứu. 1 BN cường
phế vị được xử trí tốt, không phải dừng thủ thuật.
Shunt tồn lưu qua vách liên nhĩ gặp ở 7 BN
(3,5%), các shunt này rất bé và không ảnh hưởng
đến huyết động. Tỷ lệ shunt tồn lưu khi nong
van bằng bóng Inoue thấp hơn khi so sánh với
nong van bằng dụng cụ kim loại[10, 14].
Biến chứng HoHL nặng sau nong van là
biến chứng rất đáng ngại. Chúng tôi có 17 BN
bị HoHL ≥ 3/4 sau nong van và ghi nhận 16 BN
có HoHL tăng lên 2 độ sau can thiệp. Không
bệnh nhân nào bị phù phổi cấp hay phải mổ cấp
cứu. Điểm Wilkins có vẻ không thực sự dự báo
tốt biến chứng HoHL dù rằng chúng tôi nhận
thấy các BN HoHL nặng có điểm vôi hóa van
cao hơn. Tham khảo thang điểm Padial [17] khi
dự báo biến chứng HoHL chúng tôi thấy các BN
có điểm Wilkins ≥ 9 và điểm Padial ≥ 10 có nguy
cơ HoHL nặng sau nong van cao hơn BN có Pa-
dial < 10 khoảng 2,27 lần (p = 0,032). Các thành
phần trong thang điểm Padial cũng có khả năng
dự đoán biến cố HoHL sau nong van. Đặc biệt,
có sự khác biệt rất có ý nghĩa thống kê về điểm
vôi hóa mép van (2,42 ± 0,5 so với 1,92 ± 0,58; p
< 0,001). lẽ, với các bệnh nhân có điểm vôi hóa
mép ≥ 2 (cả 2 mép bị vôi hóa) thì không nên tiến
hành nong van nữa dù điểm Wilkins chưa cao.
KEÁT LUAÄN
Kỹ thuật Nong van hai lá bằng bóng Inoue
cho các bệnh nhân bị hẹp van hai lá có hình thái
tổn thương van nặng nề (điểm siêu âm Wilkins
≥ 9) đạt được tỷ lệ thành công về kỹ thuật và
kết quả tốt đạt được ở phần lớn các bệnh nhân
(tương ứng là 99,5% và 73,87%), các biến chứng
nặng ở mức chấp nhận được (8,54%).
NVHL vẫn có thể được tiến hành và khả
thi ở những bệnh nhân HHL mà tổn thương
van mức độ nặng (Wilkins ≥ 9) với sự cẩn
trọng và ở trung tâm có kinh nghiệm.
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG16
TAØI LIEÄU THAM KHAÛO
Đỗ Phương Anh, Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn 1.
Lân Việt (2004), “Bước đầu đánh giá kết quả
nong van hai lá ở bệnh nhân có tiền sử mổ
tách van hai lá”, Tạp chí Tim mạch học Việt
Nam, (37): tr 3 – 11.
Tường Thị Vân Anh (2004), “Tìm hiểu sự thay 2.
đổi mức độ hở van ba lá sau nong van hai lá
bằng bóng”, Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ Y
học, Đại học Y Hà Nội.
Phạm Mạnh Hùng (2007), “Kết quả sớm và theo 3.
dõi trung hạn nong van hai lá bằng bóng Inoue
trong điều trị bệnh nhân bị hẹp van hai lá khít”,
Luận văn Tiến sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội.
Phạm Mạnh Hùng, Nguyễn Quang Tuấn, 4.
Nguyễn Lân Hiếu, Nguyễn Ngọc Quang et al
(2010), “Nong van hai lá bằng bóng Inoue trong
điều trị bệnh nhân bị hẹp van hai lá khít: kết
quả sớm và theo dõi trung hạn trên 5700 bệnh
nhân”, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa
học, Đại hội Tim mạch học Quốc gia Việt Nam
lần thứ 12: tr 82.
Dương Thị Bích Liên (2002), “Tìm hiểu thang 5.
điểm Padial trong dự đoán hở hai lá nặng sau
nong van hai lá”, Luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ
Y học, Đại học Y Hà Nội.
Dương Ngọc Long (2007), “Nghiên cứu tình 6.
trạng hở van hai lá sau nong van bằng bóng
Inoue trên bệnh nhân hẹp hai lá khít”, Luận
văn Thạc sỹ Y học, Đại học Y Hà Nội.
Phạm Thị Ngọc Oanh, Phạm Mạnh Hùng, 7.
Nguyễn Lân Việt (2010), “Nong van hai lá ở phụ
nữ có thai bằng bóng Inoue” Kỷ yếu các công
trình nghiên cứu khoa học, Đại Hội Tim mạch
học Quốc gia Việt Nam lần thứ 12: tr 78-79.
Nguyễn Ngọc Quang, Phạm Mạnh Hùng, 8.
Dương Thị Bích Liên và cộng sự (2006),
“Nghiên cứu một số yếu tố dự báo mức độ
hở hai lá nặng sau nong van hai lá bằng bóng
Inoue”, Kỷ yếu các Báo cáo tại Đại hội Tim
mạch toàn quốc lần thứ XI: tr 64-65.
Nguyễn Xuân Tú, Phạm Mạnh Hùng, Phạm 9.
Thị Ngọc Oanh (2010), “Nghiên cứu hiệu quả
của nong van hai lá bằng bóng Inoue trong điều
trị bệnh nhân bị hẹp van hai lá trong tình trạng
cấp cứu hoặc suy tim rất nặng”, Kỷ yếu các công
trình nghiên cứu khoa học, Đại hội tim mạch học
Quốc gia Việt Nam lần thứ 12: tr 83.
Nguyễn Quang Tuấn et al(2002), “Nghiên cứu 10.
kết quả của phương pháp tách van hai lá bằng
dụng cụ kim loại qua da trong điều trị bệnh
hẹp van hai lá khít”, Công trình nghiên cứu
khoa học – Bệnh viện Bạch Mai 2001-2002,
Nhà xuất bản Y học: tr 419 – 20.
Bernard Iung, Eric Garbarz, Luc Doutrelant, 11.
Patricia Berdah et al (2000), “Late Results of
Percutaneous Mitral Commissurotomy for
Calcifi c Mitral Stenosis”, Am J Cardiol (85):
pp 1308 - 14.
Cannan CR., Nishimura RA., Reeder GS., et al 12.
(1997), “Echocardiographic assessment of com-
missural calciuma simple predictor of outcome
aft er percutaneous mitral balloon valvotomy” J
Am Coll Cardiol (29): pp 175 - 80.
Chen CR., Cheng TO et al (2005), “Percutane-13.
ous balloon mitral valvuloplasty by the Inoue
technique: a multicenter study of 4832 patients
in China”, Am Heart J (129) : pp 1197 - 203.
Cribier A., Eltchaninoff H., Koning R., et al (1999), 14.
“Percutaneous mechanical mitral commissuro-
tomy with a newly designed metallic valvulo-
tomeimmediate results of the initial experience
in 153 patients”, Circulation (99): pp 793 - 9.
Ekinci M., Duygu H. et al(2009), “The effi ciency 15.
and safety of balloon valvuloplasty in patients
with mitral stenosis and a high echo score: mid-
and short-term clinical and echocardiographic re-
sults”, Turk Kardiyol Dern Ars, 37 (8): pp 531 - 7.
Hung JS., Pham M. Hung et al (2001), ”Inoue 16.
Balloon Mitral Valvuloplasty: Technical Tips
and Tricks”, Practical Handbook of Advanced
Interventional Cardiology, Chapter 24.
Padial LR., Abascal VM., Moreno PR., Palacios IF 17.
et al (1999), “Echocardiography can predict the
development of severe mitral regurgitation aft er
percutaneous mitral valvuloplasty by the Inoue
technique”, Am J Cardiol (83): pp 1210 - 3.
Palacios IF., Sanchez PL., Harrell LC., Wey-18.
man AE., Block PC (2002), “Which patients
benefi t from percutaneous mitral balloon val-
vuloplasty? Prevalvuloplasty and postvalvu-
loplasty variables that predict long-term out-
come”, Circulation (105): pp 1465 - 71.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_som_cua_phuong_phap_nong_van_bang_bong_inoue_o_benh.pdf