KẾT LUẬN
1. Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch vành
cho nhóm bệnh nhân tổn thương ba nhánh
động mạch vành có kết quả tốt với tỉ lệ tử
vong trong vòng 30 ngày thấp và cải thiện có ý
nghĩa chức năng co bóp cơ tim sau mổ.
2. Theo phân tích đơn biến các yếu tố nguy
cơ làm tăng tỉ lệ tử vong đối với nhóm nghiên
cứu này là :
Tuổi cao.
Phẫu thuật trong tình trạng khẩn hoặc
bán khẩn.
Tiền căn có nhồi máu cơ tim < 7 ngày
trước mổ.
3. Nên thực hiện từ 3 cầu nối trở lên đối
với nhóm bệnh nhân hẹp ba nhánh động mạch
vành để chức năng tim được cải thiện tốt
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 38 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả sớm phẫu thuật bắc cầu động mạch ở bệnh nhân tổn thương ba nhánh động mạch vành tại viện tim thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Phẫu Thuật Lồng Ngực 343
KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT BẮC CẦU ĐỘNG MẠCH Ở BỆNH NHÂN
TỔN THƯƠNG BA NHÁNH ĐỘNG MẠCH VÀNH TẠI VIỆN TIM TPHCM
Phạm Hữu Minh Nhựt*
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật bắc cầu động mạch ở bệnh nhân tổn thương ba
nhánh động mạch vành tại Viện Tim TPHCM.
Phương Pháp nghiên cứu : nghiên cứu hồi cứu các trường hợp phẫu thuật bắc cầu động mạch vành cho các
bệnh nhân được chẩn đoán hẹp ba nhánh động mạch vành.
Kết quả : từ 09/2001 đến 02/2006 có tất cả 143 bệnh nhân có tổn thương ba nhánh động mạch vành.
Tuổi trung bình là 61.3 ±8.5 tuổi (35- 81). Số cầu nối trung bình / bệnh nhân = 3. Tử vong 30 ngày sau mổ
là 2.1%(3 trường hợp). Nghiên cứu cho thấy có sự tăng có ý nghĩa về phân suất tống máu sau mổ so với
trước mổ, đặc biệt ở nhóm được làm từ 3 cầu nối trở lên. Theo phân tích đơn biến, chúng tôi nhận thấy bệnh
nhân >71 tuổi, bệnh nhân có nhồi máu cơ tim trong vòng 7 ngày trước mổ và mổ khẩn hoặc bán khẩn làm
tăng nguy cơ tử vong sau mổ.
Kết luận : Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch vành cho nhóm bệnh nhân tổn thương ba nhánh động mạch
vành có kết quả tốt với tỉ lệ tử vong thấp và cải thiện có ý nghĩa chức năng co bóp cơ tim sau mổ.
Từ Khóa : Phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, tổn thương ba nhánh động mạch vành.
ABSTRACT
EARLY RESULT OF CABG ON PATIENTS WITH 3 VESSEL DISEASE AT THE HEART INSTITUTE OF
HỒ CHÍ MINH CITY
Pham Huu Minh Nhut * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 343 - 348
Objectives: Evaluating the short-term outcome of CABG on patients with 3-vessel disease at The Heart
Institute of Ho Chi Minh city.
Method: in this study, we focus on the 30-day outcome of patients with 3-vessel disease who underwent
CABG.
Results: from 09/2001 to 02/2006, there were 143 patients with 3-vessel diseaes, mean age was 61.3 ±8.5
ages (min 35- max 81), mean number of graft per patient was 3. 30-day mortality was 2.1% (3 patients). The
study showed that there was a significant increase in post-operative Ejection Fraction(EF) in comparison to pre-
operation, especially in those who had more than 2 grafts. According to univariate analysis, patients over 71 year-
old, having acute myocardial infarction during 7 days before surgery or undergoing emergency CABG inceased
the risk of mortality.
Conclusion: CABG for patients with 3-vessel disease at our institute had a good result with low 30-day
mortality and improved significantly post-operative EF.
Key words: CABG, 3-vessel diease.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh mạch vành hay bệnh tim thiếu máu cục
bộ xảy ra khi cơ tim không được tưới máu đủ do
hẹp động mạch vành. Có nhiều nguyên nhân
khác nhau gây hẹp động mạch vành nhưng xơ
* Khoa Phẫu thuật - Viện Tim TP.HCM.
Tác giả liên lạc: BS. Phạm Hữu Minh Nhựt ĐT: Email:
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 344
vữa gây hẹp động mạch là nguyên nhân chính
của bệnh(7). Phẫu thuật bắc cầu động mạch vành
(ĐMV) là một trong các phẫu thuật có ảnh
hưởng lớn đối với nền Y học hiện đại để điều trị
cho bệnh lý này(9). Tại Viện Tim TPHCM, chúng
tôi đã áp dụng phẫu thuật bắc cầu ĐMV cho các
bệnh nhân có hẹp các nhánh ĐMV từ 09/2001.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật bắc
cầu động mạch vành ở bệnh nhân tổn thương ba
nhánh động mạch vành.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả các trường hợp bệnh nhân hẹp ba
nhánh động mạch vành được phẫu thuật tại
Viện Tim thành phố Hồ Chí Minh từ tháng
09/2001 đến tháng 02/2006.
Tiêu chuẩn loại trừ
Các bệnh nhân đã được nong và có đặt giá
đỡ trong lòng động mạch vành trước khi phẫu
thuật.
Các bệnh nhân có bệnh lý van tim kèm theo.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Đoàn hệ hồi cứu. Trong nghiên cứu này
chúng tôi tập trung vào phẫu thuật bắc cầu động
mạch vành cho các trường hợp được chẩn đoán
hẹp ba nhánh động mạch vành.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ 09/2001 đến 02/2006, có 143 trường hợp
bệnh nhân có tổn thương ba nhánh động mạch
vành. Tuổi trung bình là 61.3 ± 8.5 tuổi(35- 81
tuổi). Tỉ lệ giữa bệnh nhân nam và nữ là 2,2/1
(98/45). Đa số các bệnh nhân đều được mổ
chương trình 138 trường hợp (96,5%), 02
trường hợp (1,4%)mổ khẩn vì nhồi máu cơ
tim(NMCT) cấp có choáng tim huyết động
không ổn định và 03 trường hợp(2,1%) NMCT
cấp nhưng can thiệp động mạch vành qua da
thất bại. Các bệnh nhân đa số có NYHA độ II
trước mổ là 90 trường hợp (62,9%), độ I là 26
trường hợp (18,2%), độ III 25 trường hợp
(17,5%) và độ IV 2 trường hợp (1,4%). Tất cả
các bệnh nhân đều có nhịp xoang. Điện tâm
đồ (ĐTĐ) bình thường 80 trường hợp (55,9%),
ĐTĐ có dấu nhồi máu cũ 30 trường hợp
(20,9%), ĐTĐ có dấu thiếu máu cơ tim 30
trường hợp (20,9%), ĐTĐ có dấu hiệu NMCT
cấp 3 trường hợp (2,1%). Tần suất bệnh nhân
bị hẹp thân chung kèm theo là 56 trường hợp
(39,2%).
Thời gian chạy máy tim phổi trung bình là
154,5 ± 33,8 phút, Thời gian kẹp động mạch
chủ trung bình là 95,6 ± 20,5 phút. Số cầu nối
trung bình/bệnh nhân = 3,2 ± 0,7 cầu nối.
Trung vị = 3 (2 – 5).
Bảng 1: Các loại mạch máu được sử dụng
Loại mạch máu được sử dụng Số trường
hợp
%
Động mạch ngực trong trái 143 100%
Tĩnh mạch hiển trong 137 95,8 %
Động mạch quay 71 49,7%
Các thủ thuật và điều trị khác Đặt bóng đối
xung nội động mạch chủ 3(2,1%), Thẩm phân
phúc mạc 4 (2,8%), Sử dụng thuốc vận mạch 33
(23,1%) Số trường hợp mổ lại là 12 trường hợp
(8,4%). Trong đó 9 (6,3%)trường hợp mổ lại do
chảy máu, 3 (2,1%) trường hợp mổ lại do nhiễm
trùng trung thất. Thời gian thở máy sau mổ
trung bình là 11,9 ± 5,6 giờ. Thời gian nằm hồi
sức trung bình là 1,76 ± 0,5 ngày.Thời gian nằm
viện trung bình là 16,2± 6,2 ngày.
Bảng 2 : các biến chứng sau mổ
Biến chứng Số trường hợp %
Rung nhĩ 15 10,5
Chảy máu sau mổ 9 6,3
Tràn máu màng phổi 8 5,6
Suy thận cấp 8 5,6
Nhồi máu cơ tim sau mổ 5 3,5
Nhiễm trùng vết mổ 4 2,8
Nhiễm trùng trung thất 3 2,1
Tràn dịch màng phổi 3 2,1
Trong thời gian sau hồi sức tất cả bệnh nhân
hậu phẫu xa đều có nhịp xoang. Không có
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Phẫu Thuật Lồng Ngực 345
trường hợp nào đau ngực sau mổ trong thời gian
hậu phẫu xa. Tử vong = 3 trường hợp (2,1%)
trong nghiên cứu của chúng tôi thấy có 2 trường
hợp (1,4%) tử vong do tim và 1 trường hợp
(0,7%) bệnh nhân bị suy đa cơ quan.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có sự tăng
có ý nghĩa về phân suất tống máu trước mổ
57,9 ± 12,1 %và sau mổ 61,5 ± 11 % với
P < 0,001.
So sánh phân suất tống máu trung bình trong
các nhóm được thực hiện số lượng cầu nối
khác nhau
Nghiên cứu xác định không có sự cải thiện
về phân suất tống máu nếu chỉ thực hiện 2 cầu
nối. Bệnh nhân được thực hiện từ 3 cầu nối trở
lên thì sự cải thiện về phân suất tống máu trước
và sau mổ mới có ý nghĩa thống kê (bảng 3).
Bảng 3: Sự thay đổi phân suất tống máu trung bình (EF %) ở các nhóm được thực hiện số lượng cầu nối khác
nhau :
Phân suất tống máu (EF %)
Trước mổ Sau mổ P
Nhóm thực hiện 2 cầu nối (N=19) 56,3 ± 11 57,9 ± 10,7 P = 0,45
Nhóm thực hiện 3 cầu nối (N=75) 57,9 ± 11,6 60,6 ± 11,3 P = 0,042
Nhóm thực hiện≥ 4 cầu nối (N=46) 59,1 ± 13,1 62,8 ± 10,6 P = 0,035
Phân tích thống kê cho thấy có mối liên
quan có ý nghĩa giữa tiền căn nhồi máu cơ tim
dưới 7 ngày và tử vong sau mổ với p = 0,002.
Bệnh nhân có bị nhồi máu cơ tim trong vòng 7
ngày trước mổ có nguy cơ tử vong sau mổ cao
(bảng 4).
Bảng 4. Mối liên quan giữa tiền căn nhồi máu cơ tim < 7 ngày và tử vong sau mổ.
Tử vong
không có Tổng số
Nhồi máu cơ
tim < 7 ngày
Không 138 1 139 2 = 45,8 P = 0,002
OR =4,9 (2,2-7,7) Có 2 2 4
Tổng số 140 3 143
Phân tích thống kê cho thấy có mối liên
quan có ý nghĩa giữa loại phẫu thuật và tử
vong, p < 0,001. Bệnh nhân mổ trong tình
trạng khẩn hoặc bán khẩn có nguy cơ tử vong
cao (bảng 5).
Bảng 5. Mối liên quan giữa loại phẫu thuật và tử
vong sau mổ
Tử vong
Không có Tổng số
Loại
phẫu
thuật
Chương
trình
137 1 138 2= 36,2
P=0,003
OR = 4,5
(1,9-7,2)
Mổ khẩn và
bán khẩn
3 2 5
Tổng số 140 3 143
BÀN LUẬN
Theo khuyến cáo của Trường Môn Tim
Mạch/ Hội Tim Mỹ 2004(2), động mạch ngực
trong trái phải được sử dụng và ưu tiên tái
tưới máu cho nhánh trái trước xuống. Nghiên
cứu của chúng tôi có tỉ lệ sử dụng động mạch
ngực trong là 100% và ưu tiên để nối vào động
mạch xuống trước trái. Trong nghiên cứu của
chúng tôi, tỉ lệ sử dụng tĩnh mạch hiển trong
là 95,8 % và tỉ lệ sử dụng động mạch quay là
49,7% để làm các cầu nối không có cuống từ
động mạch chủ xuống các động mạch vành.
Tĩnh mạch hiển trong có nhược điểm lớn là tỉ
lệ hẹp miệng nối cao, tỉ lệ tắc miệng nối sau 5
năm có thể lên đến 25-30%(2,9). Giáo sư Alain
Carpentier là người đầu tiên báo cáo (1973) sử
dụng động mạch quay để làm cầu nối và được
thực hiện sau đó bởi Acar(11). Chúng tôi cũng
sử dụng động mạch quay với tỉ lệ là 51,3%.
Động mạch quay có nhược điểm là cũng bị
XVĐM như các động mạch khác đặc biệt ở các
bệnh nhân lớn tuổi. Theo chúng tôi siêu âm
mạch máu để khảo sát động mạch quay và
động mạch trụ tương ứng là rất quan trọng để
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 346
tránh thiếu máu bàn tay và đảm bảo chất
lượng cầu nối.
Hình 1: Các mạch máu làm cầu nối(11)
Về vấn đề kỹ thuật làm cầu nối, chúng tôi áp
dụng hai loại cầu nối : cầu nối có cuống (sử dụng
động mạch ngực trong trái)và cầu nối không có
cuống (sử dụng động mạch quay hoặc tĩnh mạch
hiển trong). Các loại cầu nối này là những cầu
nối kinh điển được áp dụng từ các giai đoạn đầu
phẫu thuật bắc cầu động mạch vành và hiện nay
vẫn được sử dụng thường qui nhất là trong các
trường hợp mổ cấp cứu.
Ngày nay, nhiều tác giả đã áp dụng nhiều
phương pháp làm cầu nối mới như :
Cầu nối có cuống sử dụng các loại mạch
máu khác: động mạch ngực trong phải, động
mạch vị mạc nối phải và động mạch thượng vị
dưới.
Cầu nối liên tục (sequential graft) : dùng một
mạch máu làm cầu nối thực hiện nhiều miệng
nối ở đầu xa trên tim (trong đó có chỉ có một
miệng nối tận- bên và một hay nhiều miệng nối
bên-bên).
Cầu nối dạng Y (có hai miệng nối tận-bên)
Chúng tôi có 5 trường hợp được chẩn đoán
nhồi máu cơ tim sau mổ, tỉ lệ 3,5%. Theo
nghiên cứu của Nalysnyk L 2003 tổng hợp từ
176 nghiên cứu gồm 205.717 bệnh nhân cho
thấy tỉ lệ nhồi máu cơ tim sau mổ trung bình
là 2,4%(6), dao động trong khoảng từ 0 cho đến
13,9 %. Nghiên cứu của Tavilla G(10) tỉ lệ này là
5%, nghiên cứu của Gaudino M(3) tỉ lệ này là
1,7%. Như vậy tỉ lệ nhồi máu cơ tim sau mổ
trong nghiên cứu này nằm trong khoảng dao
động theo y văn thế giới.
Hình 2: Các loại cầu nối(1)
Trong nghiên cứu này, chúng tôi có 3
trường hợp nhiễm trùng trung thất phải mổ
lại, tỉ lệ là 2,1%. nghiên cứu của Tavilla G với
201 trường hợp mổ bắc cầu động mạch vành
có tỉ lệ nhiễm trùng trung thất là 1,5% (3
trường hợp)(10). Tỉ lệ này tương đương trong
nghiên cứu của chúng tôi, p = 0,9. Nhiễm
trùng trung thất trong các trường hợp này là
do nhiễm trùng vết mổ lan rộng đến viêm mủ
xương ức và lan đến trung thất. Tuy nhiên
nhiễm trùng chỉ mới lan khu trú ngay sau
xương ức và mặt trước tim. Các trường hợp
này chúng tôi phải mổ lại rửa sạch vết mổ,
xương ức và khoang màng ngoài tim; cắt bỏ
mô viêm và xương chết và đặt dẫn lưu kín
bằng redon với bình hút chân không từ 5 ống
trở lên; kết hợp với điều trị kháng sinh phổ
rộng và điều chỉnh theo kháng sinh đồ. Qua
theo dõi tất cả các trường hợp đều lành tốt.
Tỉ lệ tử vong trong nghiên cứu của chúng
tôi là: 2,1 % (3 trường hợp). Khảo sát y văn thế
giới, theo phân tích của Nalsnyk L 2003 từ 176
nghiên cứu gồm 205.717 bệnh nhân, tỉ lệ tử
vong trong 30 ngày sau phẫu thuật bắc cầu nối
trung bình là 2,1 % dao động trong khoảng 0%
đến 7,7%(6). Như vậy tỉ lệ tử vong của nhóm
nghiên cứu này tương đối thấp.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Phẫu Thuật Lồng Ngực 347
Theo phân tích thống kê chúng tôi thấy
trong nghiên cứu này tuổi trung bình của
nhóm tử vong là 71 ± 3,4 tuổi, còn tuổi trung
bình của nhóm không tử vong là 61,1 ± 8,5
tuổi, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p
= 0,045, như vậy tuổi càng lớn thì nguy cơ tử
vong càng cao. Trong các nghiên cứu của
Mozes B (1998, tại Israel, cỡ mẫu là 5100 trường
hợp) khảo sát mối liên quan giữa tuổi và tử
vong sau mổ, tử vong trong vòng 30 ngày sau
mổ cao nếu bệnh nhân lớn hơn 60 tuổi và cao
nhất nếu tuổi từ 75 tuổi trở lên(5). Nghiên cứu
của Michalopoulos A (1999, cỡ mẫu 2014
trường hợp) nghiên cứu các yếu tố nguy cơ đối
với tử vong trong vòng 30 ngày sau mổ cũng
cho thấy là bệnh nhân nằm trong nhóm tuổi >
65 tuổi có nguy cơ tử vong rất cao(4).
Trong nghiên cứu cho thấy trong 143 bệnh
nhân thì có 5 bệnh nhân phải phẫu thuật trong
tình trạng khẩn hoặc bán khẩn. Trong nhóm 5
bệnh nhân này thì có 2 trường hợp tử vong
sau mổ (chiếm tỉ lệ là 66,7%). Trong khi đó, ở
nhóm mổ chương trình (140 trường hợp) chỉ
có một bệnh nhân tử vong (chiếm tỉ lệ 0,7%).
Theo nghiên cứu của Mozes B (1998, tại Israel,
cỡ mẫu là 5100 trường hợp) khảo sát mối liên
quan giữa loại phẫu thuật và tử vong sau mổ
cho kết quả như sau : nhóm bệnh nhân được
mổ trong tình trạng bán khẩn nguy cơ tử vong
cao hơn so với nhóm mổ chương trình với OR
= 2,2 (1,6-3,2)và nhóm bệnh nhân mổ khẩn có
nguy cơ tử vong cao nhất với OR = 11,15 (6,3-
19,6). Nghiên cứu của Seccareccia F (tại
Ý,2002) cũng cho thấy kết quả trên(8). Trong
nghiên cứu của chúng tôi, theo kết quả thống
kê có mối liên quan có ý nghĩa giữa loại phẫu
thuật và tử vong sau mổ, với p= 0,003. Bệnh
nhân phải mổ trong tình trạng khẩn hoặc bán
khẩn có nguy cơ tử vong sau mổ cao, OR = 4,5
với độ tin cậy 95%.
Trong nghiên cứu cho thấy trong 143 bệnh
nhân thì có 4 bệnh nhân có tiền căn bị nhồi
máu cơ tim trong vòng 7 ngày trước mổ.
Trong nhóm 4 bệnh nhân này thì có 2 trường
hợp tử vong sau mổ (chiếm tỉ lệ 50%). Trong
khi đó, ở nhóm không bị nhồi máu cơ tim
trước mổ (139 trường hợp) thì có một bệnh
nhân tử vong (chiếm tỉ lệ 0,7). Theo kết quả
thống kê cho thấy có mối liên quan có ý nghĩa
giữa tiền căn nhồi máu cơ tim < 7 ngày trước
mổ với tử vong sau mổ với p = 0,002. Bệnh
nhân có tiền căn nhồi máu cơ tim thì tăng
nguy cơ tử vong sau mổ cao hơn những bệnh
nhân không có tiền căn này, OR = 4,9 với độ
tin cậy 95%. Theo nghiên cứu của Mozes B
(1998) tại Israel, cỡ mẫu là 5100 trường hợp)(5)
khảo sát mối liên quan giữa tiền căn nhồi máu
cơ tim và tử vong sau mổ thì cho thấy nhóm
bệnh nhân có tiền căn này có nguy cơ tử vong
rất cao với OR = 4 (2,5 – 6,6).
Theo kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận
xét thấy rằng có sự tăng có ý nghĩa của phân
suất tống máu sau mổ so với trước mổ. Xét
giữa các nhóm EF sau mổ : số trường hợp có
phân suất tống máu bình thường (EF > 60 %)
hoặc giảm nhẹ (50 < EF ≤ 60 %) tăng cao hơn
và số trường hợp có phân suất tống máu giảm
vừa (35 <EF ≤ 50%) hoặc nặng (EF ≤ 35%) giảm
đi có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Ngoài ra
kết quả thống kê còn ghi nhận trong nghiên
cứu của chúng tôi chỉ có sự tăng có ý nghĩa về
phân suất tống máu trước và sau mổ ở nhóm
bệnh nhân được thực hiện từ 3 cầu nối trở lên.
Chúng tôi thấy rằng điều này là phù hợp bệnh
nhân tổn thương trên cả ba nhánh động mạch
vành, đây là bệnh lý nặng và lan tỏa do đó
phẫu thuật nếu thực hiện tưới máu càng nhiều
nơi càng phục hồi tưới máu được nhiều vùng
của cơ tim, giảm đi sự rối loạn vận động của
cơ tim và cuối cùng là tăng chức năng co bóp
của cơ tim.
KẾT LUẬN
1. Phẫu thuật bắc cầu nối động mạch vành
cho nhóm bệnh nhân tổn thương ba nhánh
động mạch vành có kết quả tốt với tỉ lệ tử
vong trong vòng 30 ngày thấp và cải thiện có ý
nghĩa chức năng co bóp cơ tim sau mổ.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Ngoại Khoa 348
2. Theo phân tích đơn biến các yếu tố nguy
cơ làm tăng tỉ lệ tử vong đối với nhóm nghiên
cứu này là :
Tuổi cao.
Phẫu thuật trong tình trạng khẩn hoặc
bán khẩn.
Tiền căn có nhồi máu cơ tim < 7 ngày
trước mổ.
3. Nên thực hiện từ 3 cầu nối trở lên đối
với nhóm bệnh nhân hẹp ba nhánh động mạch
vành để chức năng tim được cải thiện tốt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Braunwald E (1992). Chronic Ischemic Heart Disease. In :
Heart Disease 4th edition, p.1292-1334. WB Saunders
Company, Philadelphia.
2. Eagle KA, Guyton RA, et al (2004). ACC/AHA 2004 guideline
for coronary artery bypass graft surgery.
3. Gaudino M, Alessandrini F, Glieca F, et al (2004). Effect of
surgical revascularization of a right coronary artery pibutary
of an infarcted nonischemic territory on the outcome of
patients with three-vessel disease: A prospective randomized
pial. J Thorac Cardiovasc Surg, 127: 435-439.
4. Michalopoulos A, Tzelepis G, Urania D (1999). Determinants
of Hospital Mortality After Coronary Artery Bypass Grafting.
Chest, 115: 1598-1603.
5. Mozes B, Olmer L, Noya Galai et al (1998). A national study of
postoperative mortality associated with coronary artery
bypass grafting in Israel. Ann Thorac Surg, 66: 1254-1262.
6. Nalysnyk L, Fahrback K, Reynolds MV, et al (2003). Adverse
events in coronary bypass graft trials : a systemic review and
analysis. Heart, 89: 767-772.
7. Phạm Nguyễn Vinh(2003). Suy động mạch vành mãn. Siêu
âm tim và bệnh lý tim mạch tập II, tr. 216 – 224. Nhà xuất bản
Y học, TP. Hồ Chí Minh.
8. Seccareccia F, et al. (2006). The Italian CABG Outcome Study :
short-term outcomes in patients with coronary artery bypass
graft surgery. European Journal of Cardio-Thoracic Surgery,
29: 56-64.
9. Sellke FW, Mac Ruel(2005). Surgical treatment of coronary
artery disease and its complications. In: Sabiston and
Spencer’s Surgery of the chest, Vol. 2, 2nd edition, p. 1459-1490.
Anne Lenehan philadelphia. Pennsylvania.
10. Tavilla G, Kappetein AP, Braun J, et al (2004). Long-Term
Follow-Up of Coronary Artery Bypass Grafting in Three-
Vessel Disease Using Exclusively Pedicled Bilateral Internal
Thoracic and Right Gaspoepiploic Arteries. Ann Thorac Surg,
77: 794-799.
11. Waldhausen AJ, William SP, David B.Campbell(1996).
Coronay artery surgery. In: Surgery of the Chest 6th edition, p.
555-577. St Louis : Mosby.
Ngày nhận bài báo: 30/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 28/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 15/01/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ket_qua_som_phau_thuat_bac_cau_dong_mach_o_benh_nhan_ton_thu.pdf