Kết quả tạo hình sau điều trị ung thư lưỡi

Do phát âm không chỉ phụ thuộc vào tính di động lưỡi mà còn phụ thuộc vào sự tiếp xúc của lưỡi với vòm miệng, mặc dù tính di động lưỡi nhóm may khép không khác với nhóm ghép da nhưng có lẽ do tiếp xúc vòm miệng ít hơn nên nói ngọng nhiều hơn(1). Lưỡi còn lại di động hoàn toàn trong đa số trường hợp (75,3%) dù may khép (28/37 trường hợp; 75,7%) hay tạo hình (27/36 trường hợp 75,0%). Như vậy, tạo hình bằng ghép da hoặc cơ mút giúp cho phần lưỡi còn lại di động không khác may khép. Do chúng tôi chọn những trường hợp khuyết hổng lưỡi lớn hoặc khuyết hổng lưỡi và sàn miệng để ghép da hay dùng vạt, do đó đây là kết quả thuận lợi. Vì nếu khuyết hổng lớn mà may khép sẽ gây nếu kéo phần lưỡi còn lại gây hạn chế cử động sẽ ảnh hưởng nhiều đến chức năng lưỡi. Mặc dù tỉ lệ di động lưỡi chiếm tỉ lệ cao nhưng nói bình thường chiếm tỉ lệ thấp hay nói ngọng chiếm tỉ lệ cao, không có sự tương xứng giữa tính di động lưỡi với giọng nói. Lý do cho sự khác biệt này là ảnh hưởng đến giọng nói ngoài tính di động lưỡi lưỡi còn có thể tích lưỡi. Do đó, để tăng thể tích lưỡi mà vẫn đảm bảo tính di động, một số tác giả sử dụng những vạt lớn hơn(1). Tim Bressmann và cộng sự nghiên cứu tính di động của lưỡi ảnh hưởng lên tính dễ hiểu khi phát âm sau cắt lưỡi một phần, cho thấy tính di động của lưỡi là yếu tố dự đoán có giá trị về phát âm sau cắt lưỡi. Nhưng nghiên cứu này số mẫu nhỏ nên yếu tố này cần đánh giá thêm với mẫu lớn hơn(2). Một nghiên cứu của Chen Chuanjun và cộng sự so sánh hai nhóm bệnh nhân cắt nửa lưỡi hoặc ít hơn nửa lưỡi có hoặc không có tạo hình bằng vạt để đánh giá tính dễ hiểu khi phát âm. Kết quả cho thấy nhóm không tạo hình cho kết quả phát âm tốt hơn. Tạo hình bằng vạt làm ảnh hưởng đến sự mềm dẻo và cản trở sự di động của lưỡi góp phần suy chức năng phát âm Như vậy, nếu quan tâm đến phát âm không cần thiết tạo hình khi cắt nửa lưỡi hoặc ít hơn(3). Hung-Tao Hsiao và cộng sự so sánh 6 trường hợp may khép và 6 trường hợp tạo hình lưỡi bằng vạt cẳng tay quay sau cắt nửa lưỡi, nhận thấy nhóm may khép có kết quả phát âm và tính dễ hiểu tốt hơn, còn nhóm tạo hình có kết quả về chức năng nuốt tốt hơn(8). Tái phát và tạo hình: Khảo sát mối liên quan giữa tái phát và phương pháp tạo hình, tái phát sau may khép 5 trường hợp, ghép da mỏng 3 trường hợp và vạt cơ mút 1 trường hợp. Phương pháp phục hồi khuyết hổng không là yếu tố nguy cơ gây tái phát, nhưng tạo hình nếu vạt lớn là yếu tố có thể che lấp tái phát và dẫn đến phát hiện tái phát muộn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian phát hiện tái phát không khác giữa may khép và tạo hình, do vạt chúng tôi sử dụng để tạo hình không dày nên không che lấp bướu tái phát.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả tạo hình sau điều trị ung thư lưỡi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Chuyên ñề Ung Bướu 92 KẾT QUẢ TẠO HÌNH SAU ĐIỀU TRỊ UNG THƯ LƯỠI Trần Thanh Phương*, Lê Hành†, Lê Trường Giang** TÓM TẮT Mục tiêu: Đánh giá hình dạng và chức năng lưỡi sau cắt nửa lưỡi. Thiết kế nghiên cứu: Thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng. Phương pháp: 73 trường hợp ung thư lưỡi, T1-T3, được cắt nửa lưỡi, và chia 2 nhóm: 37 ca may khép và 36 ca tạo hình bằng ghép da, vạt cơ mút, ghép niêm mạc. Kết quả và bàn luận: Hình dạng lưỡi đa số không phục hồi (95,9%). Tính di động và nuốt không khác biệt giữa may khép và tạo hình, lần lượt tính di động hoàn toàn 28 (75,7%) so với 24 (75%), di động hạn chế 9 (24,3%) so với 8 (25%). Chức năng nói sau tạo hình kết quả tốt hơn sau may khép, nói bình thường 8 (27%) so với 4 (10,8%); và nói ngọng 33 (89,2%) so với 24 (75%). Khi khuyết hổng liên quan sàn miệng, may khép sau cắt nửa lưỡi và sàn miệng sẽ gây níu kéo phần lưỡi còn lại và gây suy chức năng thêm nữa. Kết luận: Chúng tôi áp dụng phương pháp đơn giản để đóng khuyết hổng, may khép và ghép da, giúp hồi phục chức năng lưỡi. Khuyết hổng nửa lưỡi được may khép, khuyết hổng có liên quan sàn miệng được tạo hình. Ghép da là phương pháp đơn giản nhất, dễ thực hiện ở các cơ sở y tế. Từ khóa: Tạo hình, cắt nửa lưỡi, ghép da. ABSTRACT RESULTS OF RECONSTRUCTION IN TONGUE CANCER Tran Thanh Phuong, Le Hanh, Le Truong Giang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh – Vol.14 - Supplement of No 4 – 2010: 92 - 98 Objective: To evaluate shape of reconstructed tongue and postoperative functions after hemiglossectomy Study design: Control clinical trial. Methods: 73 cases of oral tongue cancer, staged T1-T3, treated by hemiglossectomy, including two groups: 37 cases that have defect half of tongue were primary closure and 36 cases that have defect half of tongue and floor of mouth were reconstructed by thin-thickness skin graft (32 cases) or buccinator musculomucosal flap (3 cases) or buccal mucosal flap (one cases). Results and discussion: Almost shape of tongue is not recover (95.9%). Motility, swallowing in cases with primary closure were non-different in cases with reconstruction, respectively, complete motility 28 (75.7%) vs. 24 (75%), limited motility 9 (24.3%) vs. 8 (25%). Speech in cases with reconstruction better in cases with primary closure, respectively, normal speech is 8 (27%) vs. 4 (10.8%); and speech with a lisp 24 (75%) vs. 33 (89.2%). Defects involve floor of mouth mucosa, primary closure of a full hemiglossectomy wound will result in severe tethering of the reconstructed tongue and further motion impairment. Conclusion: We applied the simple methods to close defects, skin graft and primary closure, to help recover of tongue function. Defect half of tongue were primary closure, defects involve floor of mouth mucosa were reconstructed by skin graft or buccinator musculomucosal flap, buccal mucosal flap to help recover of tongue function. Skin graft is simplest method, easiest perform in medicine center. Key words: Reconstruction, hemiglossectomy, skin graft. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư lưỡi là loại ung thư thường gặp nhất trong các loại ung thư hốc miệng, chiếm 30% - 50%. Yếu tố nguy cơ thường gặp: Hút thuốc lá và uống rượu. Ung thư lưỡi dễ phát hiện sớm, tuy nhiên, phần lớn bệnh nhân tới khám khi tổn thương đã lan rộng, phẫu thuật điều trị đúng mức gặp nhiều hạn chế. Phẫu thuật tạo hình có vai trò quan trọng sau * Bệnh viện Ung Bướu TPHCM; † Bệnh viện Chợ Rẫy, ** Sở Y tế TPHCM Địa chỉ liên lạc: BSCKII. Trần Thanh Phương. ĐT: 0903847467 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Chuyên ñề Ung Bướu 93 cắt rộng trong các trường hợp bệnh tiến xa, giúp phục hồi hình dạng và chức năng mà vẫn bảo đảm an toàn về mặt ung bướu học, với mục đích cuối cùng là cải thiện tiên lượng sống còn và chất lượng sống của bệnh nhân. Chúng tôi nghiên cứu về tạo hình sau cắt bỏ sang thương ung thư lưỡi, giúp sự lành vết thương, phục hồi hình dạng và chức năng; nhằm giúp rút ngắn thời gian hậu phẫu để kịp thời điều trị phối hợp cho bệnh nhân. ĐỐI TƯỢNG PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chúng tôi nghiên cứu các trường hợp ung thư lưỡi được điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện Ung Bướu trong 2 năm 2007 - 2008. Thiết kế nghiên cứu là thử nghiệm lâm sàng có nhóm chứng, 73 trường hợp đều được cắt nửa lưỡi và chia làm 2 nhóm: May khép (37 ca, nhóm chứng) và tạo hình (38 ca, nhóm bệnh). Số liệu được xử lý bằng phương pháp thống kê có sự hỗ trợ của phần mềm SPSS 11.5. KẾT QUẢ Đặc ñiểm lâm sàng Tuổi Trung bình 53,8± 14,9 tuổi 24-84 tuổi Giới Nam 47 ca, nữ 26 ca Nam:nữ# 1,8:1 Bờ lưỡi 69 ca (94,5%) Bụng lưỡi 3 ca (4,1%) Vị trí bướu Bờ và bụng lưỡi 1 ca (1,4%) ≤ 2 cm 20 ca (27,4%) 2 - 4 cm 46 ca (63%) Kích thước bướu > 4 cm 7 ca (9,6%) Lưỡi 37 ca Khuyết hổng Lưỡi + sàn miệng 36 ca Điều trị Phẫu trị bướu nguyên phát 73 trường hợp đều được cắt nửa lưỡi. Phương pháp phục hồi khuyết hổng sau cắt lưỡi Bảng 1. Các phương pháp phục hồi khuyết hổng lưỡi Khuyết hổng Phương pháp Số ca Tỉ lệ % Lưỡi May khép 37 50,7 Ghép da mỏng 32 43,8 Ghép niêm mạc má 1 1,4 Lưỡi + sàn miệng Vạt cơ mút 3 4,1 Tổng cộng 73 100 Kết quả sau phục hồi khuyết hổng Bảng 2. Kết quả hình dạng và chức năng lưỡi Kết quả Số ca Tỉ lệ % Không 70 95,9 Phục hồi khuyết hổng 1 phần 3 4,1 Hoàn toàn 55 75,3 Di ñộng Hạn chế 18 24,7 Bình thường 14 19,2 Nói Ngọng 59 80,8 Nuốt Nuốt khó 0 0 Nếm Bình thường 73 100 Phục hồi khuyết hổng & tính di động lưỡi Bảng 3. Phương pháp phục hồi khuyết hổng & tính di động lưỡi Phương pháp Di ñộng hoàn toàn Di ñộng hạn chế May khép (n=37) 28 (75,7%) 9 (24,3%) Ghép da mỏng (n=32) 24 (75%) 8 (25%) Ghép niêm mạc má (n=1) 1 0 Vạt cơ mút (n=3) 2 1 Tổng cộng 55 18 Phục hồi khuyết hổng & giọng nói Bảng 4. Phương pháp phục hối khuyết hổng và giọng nói Phục hồi khuyết hổng Nói ngọng Nói bình thường May khép (n=37) 33 (89,2%) 4 (10,8%) Ghép da mỏng (n=32) 24 (75%) 8 (25%) Ghép niêm mạc má (n=1) 0 1 Vạt cơ mút (n=3) 2 1 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Chuyên ñề Ung Bướu 94 Tổng cộng 59 (%) 14 (%) BÀN LUẬN Phẫu thuật Phẫu trị bướu nguyên phát Tất cả các trường hợp carcinôm tế bào gai lưỡi (T1 - T3) trong nghiên cứu này đều chưa lan đến các cơ sâu của lưỡi và chưa lan đến đường giữa, chúng tôi đều thực hiện cắt nữa lưỡi với rìa cắt 1,5 - 2 cm. Kết quả về mặt ung thư học, rìa âm tính 95,9% (70/73 trường hợp) và rìa dương tính 3 trường hợp (được xạ trị bổ túc). Tất cả các trường hợp đều không có biến chứng sau mổ. Như vậy, phẫu thuật cắt nửa lưỡi là phẫu thuật dễ thực hiện và an toàn. Phục hồi khuyết hổng - tạo hình Sau cắt nửa lưỡi, may khép sẽ gây níu kéo phần lưỡi còn lại dẫn đến hạn chế cử động lưỡi, nhất là khi có khuyết hổng ở sàn miệng(7). Do đó, trong nghiên cứu này chúng tôi chọn may khép cho các trường hợp chỉ khuyết hổng nửa lưỡi (37 ca) và tạo hình cho các trường hợp có thêm khuyết hổng ở sàn miệng (36 ca). Nghiên cứu của Mosier và cộng sự cho thấy may khép khuyết hổng thì một chính xác về mặt cơ học của lưỡi ban đầu cho đáp ứng vỏ não tốt hơn lưỡi mới(1). Bước đầu, chúng tôi áp dụng ghép da mỏng cho các khuyết hổng lớn sau cắt nửa lưỡi. Các khuyết hổng chỉ ở lưỡi sau cắt lưỡi được may khép (nhóm không tạo hình), còn các khuyết hổng gồm ở lưỡi và một phần sàn miệng nếu được may khép sẽ gây níu kéo phần lưỡi còn lại nên chúng tôi thực hiện ghép da (nhóm tạo hình) và so sánh với nhóm may khép. May khép: Sau cắt bỏ bướu nguyên phát, khuyết hổng chỉ là mất nửa lưỡi, chúng tôi thực hiện may khép phần lưỡi còn lại. Chúng tôi may cầm máu bằng cách khâu các cơ lưỡi và đóng khoảng chết rồi may niêm mạc lưỡi bằng Vicryl 3.0 hoặc Chromic 3.0. Đây là phương pháp đơn giản, nhanh(7). Kết quả về mặt phẫu thuật, vết thương lành tốt sau 1 - 2 tuần (Hình 1 & 2). Hình 1. Sang thương loét bờ (P) lưỡi Hình 2. May khép sau cắt nửa lưỡi bên (P) Ghép da: Theo Judith M. Skoner, Joshua Hornig và Terry A. Day(7), khuyết hổng lớn hơn như sau cắt nửa lưỡi liên quan đến niêm mạc sàn miệng, may khép vết thương làm níu kéo phần lưỡi còn lại và gây ra suy chức năng. Ghép da được xem như là một phương pháp tái tạo thích hợp hơn cho khuyết hổng cắt nửa lưỡi nhưng không bù lại sự đầy đặn trong hốc miệng. Sau cắt nửa lưỡi, chúng tôi tạo hình bằng ghép da mỏng 32/36 ca, 88,9%. Sử dụng thường nhất là ghép da mỏng có độ dày từ 0,4 - 0,5 mm, bao gồm lớp thượng bì và một phần lớp bì. Da ghép được lấy từ da mặt ngoài đùi, có ưu điểm ít bị co rút và ổn định qua thời gian. Da ghép được cố định vào khuyết hổng bằng chỉ tan, may xung quanh mép da và trung tâm da ghép với nền bên dưới (Hình 5). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Chuyên ñề Ung Bướu 95 Hình 3. Sùi bờ bụng lưỡi bên (T) lan sàn miệng Hình 4. Khuyết hổng sau cắt nửa lưỡi bên (T) Hình 5. Ghép da mỏng sau cắt nửa lưỡi Theo McGregor IA, McGrouther DA(6), ghép da điều trị carcinôm lưỡi xâm nhiễm tối thiểu là một phương pháp phù hợp khi chọn lựa bệnh nhân thích hợp, kỹ thuật đơn giản một thì so với tái tạo bằng vạt nhiều thì. Theo McConnel FMS, Logemann JA, Rademaker AW, khuyết hổng lưỡi được ghép da mỏng hoặc khuyết hổng lưỡi - sàn miệng được tạo hình bằng vạt da cơ (cơ ngực lớn) hay vạt tự do (cẳng tay quay) cho kết quả chức năng tốt(4). Vạt cơ mút: Vạt cơ mút trong tạo hình lưỡi dựa vào một số ưu điểm, là vạt cơ niêm mạc gần giống như mô lưỡi, mềm mại, cuống mạch dài, góc xoay rộng, mạch máu nuôi vạt có khẩu kính lớn, huyết động vạt ổn định. Tuy nhiên vạt này có một số bất lợi, kích thước vạt hạn chế, trong quá trình bóc tách vạt cần tỉ mỉ tránh làm tổn thương nhánh bờ hàm dưới của thần kinh mặt, tránh lỗ đổ của ống tuyến mang tai. Vạt này sẽ không lấy được nếu động mạch, tĩnh mạch mặt bị xâm lấn hoặc trong trường hợp tĩnh mạch cảnh ngoài hay tĩnh mạch hầu trong bị cột. Hình 6. Vạt cơ mút Hình 7. Vạt cơ mút đóng khuyết hổng lưỡi Có 3 trường hợp chúng tôi tạo hình lưỡi bằng vặt cơ mút sau cắt nửa lưỡi có khuyết hổng lưỡi và sàn miệng (Hình 6 & 7). Kết quả vạt sống tốt, vạt không bị co rút và vị trí cho không bị xơ hóa, bệnh nhân không bị khít hàm. Van Lierop A.C. và Fagan J.J. nghiên cứu tạo hình bằng vạt niêm mạc cơ mút sau cắt bỏ các ung thư lưỡi, ở Bệnh Viện Groote Schuur từ 1999 - 2004, nhận thấy kết quả chức năng tốt và biến chứng thấp(10). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Chuyên ñề Ung Bướu 96 Vạt niêm mạc: Vạt niêm mạc má thường được dùng trong tái tạo niêm mạc của môi, vành môi, rãnh lợi má, khẩu cái cứng, mũi và ổ mắt. Bước đầu, thử áp dụng vạt niêm mạc má vào khuyết hổng lưỡi, chúng tôi thực hiện cho 1 trường hợp sau cắt nửa lưỡi. Đây là vạt tại chỗ có tính sinh mạch phong phú và lành vết thương rất nhanh(9). Kết quả vạt sống tốt, không làm hạn chế cả động phần lưỡi còn lại, lưỡi di động hoàn toàn và không nói ngọng. Tuy nhiên, vạt mỏng nên không phục hồi thể tích lưỡi. Kết quả sau phục hồi khuyết hổng Đóng khuyết hổng lưỡi hay phục hồi khuyết hổng lưỡi sau cắt nữa lưỡi không chỉ giúp cho sự lành thương mà còn giúp phục hồi hình dạng, thể tích cũng như chức năng lưỡi. Tạo hình hay may khép đều không ảnh hưởng đến chức năng nuốt và nếm. 73 trường hợp đều được che lấp khuyết hổng; không có trường hợp nào phục hồi khuyết hổng lưỡi hoàn toàn, chỉ có 3 trường hợp phục hồi khuyết hổng 1 phần (2: vạt cơ mút; 1: ghép da mỏng) Hình dạng - thể tích lưỡi sau tạo hình hoặc may khép, đa số đều không phục hồi hoàn toàn; chỉ có 3 trường hợp phục hồi một phần (2 vạt cơ mút và 1 ghép da mỏng). May khép sau cắt nữa lưỡi, hình dạng hay thể tích không phục hồi là không thể tránh khỏi. Các trường hợp ghép da mỏng hay ghép niêm mạc cũng vậy vì da ghép hay niêm mạc mỏng và theo thời gian có thể dày lên nhưng không đáng kể (1 trường hợp ghép da mỏng phục hồi hình dạng lưỡi một phần). Đặc biệt, có 3 trường hợp tái tạo bằng vạt cơ mút thì có 2 trường hợp cho phục hồi hình dạng lưỡi một phần. Trong 3 trường hợp có phục hồi một phần thể tích lưỡi có 2 trường hợp nói ngọng, 66,6%, trong 70 trường hợp không phục hồi thể tích lưỡi có 57 trường hợp nói ngọng, 81,4%. Như vậy, kết quả ban đầu cho thấy thể tích lưỡi có hồi phục, dù một phần, tỉ lệ bệnh nhân nói ngọng sẽ thấp hơn so với không phục hồi thể tích lưỡi. Tuy nhiên, số trường hợp có phục hồi thể tích lưỡi chỉ vài ca nên cần có những mẫu lớn hơn để xác định. Yoshihiro Kimata và cộng sự nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa hình dạng lưỡi được tạo hình và chức năng sau mổ. Họ nghiên cứu 30 bệnh nhân và nhận thấy tính dễ hiểu khi phát âm và nuốt ở các bệnh nhân lưỡi dẹt hoặc lõm kém hơn so với lưỡi phồng. Sụt cân sau mổ lớn hơn đáng kể ở các bệnh nhân lưỡi lõm(4). Tính di động của phần lưỡi còn lại và lưỡi mới sau tạo hình ảnh hưởng rất nhiều đến chức năng lưỡi. Sự di động lưỡi tạo ra sự khác biệt một số âm khi phát âm, giúp cho nhai và nuốt thức ăn. Nghiên cứu này cho thấy không có sự khác biệt về tính di động giữa may khép và tạo hình giữa hai nhóm. Bảng 5. So sánh về tính di động của lưỡi giữa may khép và ghép da mỏng Phương pháp tạo hình Di ñng hoàn toàn Di ñng hn ch Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Chuyên ñề Ung Bướu 97 May khép (n=37) 28 (75,7%) 9 (24,3%) Ghép da mỏng (n=32) 24 (75%) 8 (25%) Như vậy, ghép da mỏng áp dụng cho bệnh nhân có khuyết hổng cả lưỡi và sàn miệng tránh được sự níu kéo của phần lưỡi còn lại, giúp cho phần lưỡi này di động tốt hơn so với nếu chỉ may khép. Giọng nói Bảng 6. So sánh giọng nói giữa may khép và ghép da mỏng Tạo hình Nói ngng Nói bình thng May khép (n=37) 33 (89,2%) 4 (10,8%) Ghép da mỏng (n=32) 24 (75%) 8 (25%) Kết quả về giọng nói cho thấy nhóm may khép nói ngọng nhiều hơn (p=0,05). Do phát âm không chỉ phụ thuộc vào tính di động lưỡi mà còn phụ thuộc vào sự tiếp xúc của lưỡi với vòm miệng, mặc dù tính di động lưỡi nhóm may khép không khác với nhóm ghép da nhưng có lẽ do tiếp xúc vòm miệng ít hơn nên nói ngọng nhiều hơn(1). Lưỡi còn lại di động hoàn toàn trong đa số trường hợp (75,3%) dù may khép (28/37 trường hợp; 75,7%) hay tạo hình (27/36 trường hợp 75,0%). Như vậy, tạo hình bằng ghép da hoặc cơ mút giúp cho phần lưỡi còn lại di động không khác may khép. Do chúng tôi chọn những trường hợp khuyết hổng lưỡi lớn hoặc khuyết hổng lưỡi và sàn miệng để ghép da hay dùng vạt, do đó đây là kết quả thuận lợi. Vì nếu khuyết hổng lớn mà may khép sẽ gây nếu kéo phần lưỡi còn lại gây hạn chế cử động sẽ ảnh hưởng nhiều đến chức năng lưỡi. Mặc dù tỉ lệ di động lưỡi chiếm tỉ lệ cao nhưng nói bình thường chiếm tỉ lệ thấp hay nói ngọng chiếm tỉ lệ cao, không có sự tương xứng giữa tính di động lưỡi với giọng nói. Lý do cho sự khác biệt này là ảnh hưởng đến giọng nói ngoài tính di động lưỡi lưỡi còn có thể tích lưỡi. Do đó, để tăng thể tích lưỡi mà vẫn đảm bảo tính di động, một số tác giả sử dụng những vạt lớn hơn(1). Tim Bressmann và cộng sự nghiên cứu tính di động của lưỡi ảnh hưởng lên tính dễ hiểu khi phát âm sau cắt lưỡi một phần, cho thấy tính di động của lưỡi là yếu tố dự đoán có giá trị về phát âm sau cắt lưỡi. Nhưng nghiên cứu này số mẫu nhỏ nên yếu tố này cần đánh giá thêm với mẫu lớn hơn(2). Một nghiên cứu của Chen Chuanjun và cộng sự so sánh hai nhóm bệnh nhân cắt nửa lưỡi hoặc ít hơn nửa lưỡi có hoặc không có tạo hình bằng vạt để đánh giá tính dễ hiểu khi phát âm. Kết quả cho thấy nhóm không tạo hình cho kết quả phát âm tốt hơn. Tạo hình bằng vạt làm ảnh hưởng đến sự mềm dẻo và cản trở sự di động của lưỡi góp phần suy chức năng phát âm Như vậy, nếu quan tâm đến phát âm không cần thiết tạo hình khi cắt nửa lưỡi hoặc ít hơn(3). Hung-Tao Hsiao và cộng sự so sánh 6 trường hợp may khép và 6 trường hợp tạo hình lưỡi bằng vạt cẳng tay quay sau cắt nửa lưỡi, nhận thấy nhóm may khép có kết quả phát âm và tính dễ hiểu tốt hơn, còn nhóm tạo hình có kết quả về chức năng nuốt tốt hơn(8). Tái phát và tạo hình: Khảo sát mối liên quan giữa tái phát và phương pháp tạo hình, tái phát sau may khép 5 trường hợp, ghép da mỏng 3 trường hợp và vạt cơ mút 1 trường hợp. Phương pháp phục hồi khuyết hổng không là yếu tố nguy cơ gây tái phát, nhưng tạo hình nếu vạt lớn là yếu tố có thể che lấp tái phát và dẫn đến phát hiện tái phát muộn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian phát hiện tái phát không khác giữa may khép và tạo hình, do vạt chúng tôi sử dụng để tạo hình không dày nên không che lấp bướu tái phát. KẾT LUẬN Bước đầu chúng tôi áp dụng những phương pháp đơn giản để đóng khuyết hổng, chọn lựa giữa ghép da mỏng và may khép, đã phục hồi phần nào những chức năng lưỡi. Khuyết hổng lưỡi và sàn miệng sau cắt nửa lưỡi, các phương pháp được chọn lựa để đóng hoặc phục hồi khuyết hổng bao gồm ghép da mỏng, vạt da cơ. Trong đó, ghép da mỏng là phương pháp đơn giản nhất, dễ thực hiện ở các cơ sở y tế có triển khai phẫu thuật đầu cổ. Cắt bỏ ung thư lưỡi và tạo hình sau đó đặt ra vấn đề thách thức quan trọng cho phẫu thuật viên là làm tăng chức năng sau mổ và tăng chất lượng sống. Chú ý những nguyên tắc tạo hình lưỡi và hiểu biết phạm vi các chọn lựa tạo hình có giá trị có thể đem lại kết quả về chức năng thuận lợi hơn.g Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Chuyên ñề Ung Bướu 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bokhari W.A., Steven J. Wang S.J (2007). Tongue Reconstruction: Recent Advances. Current Opinion in Otolaryngology & Head and Neck Surgery, 15: 202-207. 2. Bressmann T., Sader R. et al (2004). Consonant Intelligibility and Tongue Motility in Patients with Partial Glossectomy. J Oral Maxillofac Surg 62:298-303. 3. Chuanjun C., Zhiyuan Z. et al (2002). Speech After Partial Glossectomy: A Comparison Between Reconstruction and Nonreconstruction Patients. J Oral Maxillofac Surg 60:404-407. 4. Jameson M.J., Levine P.A.(2006) Neoplasms of the Oral Cavity. Head & Neck Surgery - Otolaryngology, 4th Edition. Copyright Lippincott Williams & Wilkins 5. Kimata Y., Sakuraba M. et al (2003). Analysis of the Relations Between the Shape of the Reconstructed Tongue and Postoperative Functions After Subtotal or Total Glossectomy. Laryngoscope, 113:905–909. 6. McGregor IA, McGrouther DA (1978). Skin-graft reconstruction in carcinoma of the tongue. Head Neck Surg. 1978 Sep-Oct;1(1):47-51 7. Skoner J.M, Hornig J., Day T.A. (2006). Reconstruction of Partial Glossectomy Defects. Oral cavity reconstructionp p205 8. Tao Hsiao.T., Shing Leu Y., Ching Lin C. (2002). Primary Closure Versus Radial Forearm Flap Reconstruction After Hemiglossectomy: Functional Assessment of Swallowing and Speech Ann Plast Surg; 49:612–616 9. Tezel E.(2001). Buccal Mucosal Flaps: A Review. From the Department of Plastic and Reconstructive Surgery, Marmara University School of Medicinep 735-741. 10. Van Lierop A.C, Fagan J.J. (2008) Buccinator myomucosal flap: clinical results and review of anatomy, surgical technique and applications The Journal of Laryngology & Otology, 122, 181– 187. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Chuyên ñề Ung Bướu 99

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfket_qua_tao_hinh_sau_dieu_tri_ung_thu_luoi.pdf
Tài liệu liên quan