Sau can thiệp 1 tháng, cả 2 nhóm đều
có sự cải thiện điểm, tuy nhiên ở nhóm
nghiên cứu (nhận chương trình GDSK
về tự chăm sóc bàn chân) có sự cải thiện
thực hành rõ ràng hơn với điểm trung bình
đạt 15,94 ± 1,81 điểm so với 11,92 ± 2,56
điểm trước khi nhận chương trình GDSK
về tự chăm sóc bàn chân (p < 0,001).
Trong khi, ở nhóm chứng có sự tăng điểm
sau 1 tháng đạt 13,02 ± 2,72 không đáng
kể so với 12,36 ± 3,1 điểm trước đó (p >
0,05). Về phân loại mức độ thực hành,
kết quả ở Bảng 3.2 cho thấy ở nhóm NC
sau khi nhận chương trình GDSK về tự
chăm sóc bàn chân, tỷ lệ người bệnh thực
hành đạt mức tốt tăng lên 93,2% tăng so
với 59,6% trước can thiệp và không còn
người bệnh thực hành ở mức kém. Kết
quả phân loại này tương đồng với kết quả
này của Nguyễn Thị Bích Đào (26,4%) [6]
và Nguyễn Tiến Dũng (29%) [7]. Trong khi,
ở nhóm ĐC, sau 1 tháng tỷ lệ người bệnh
thực hành đạt mức tốt tăng không đáng
kể đạt 67,3% so với 63,5% trước đó. Các
Bảng 4.3 đến 3.6 cho thấy, mặc dù không
đồng đều về tỷ lệ thực hiện các nội dung
về tự chăm sóc bàn chân, nhưng có bản
ở nhóm NC sau khi nhận chương trình
GDSK về tự chăm sóc bàn chân có nhiều
người bệnh thực hành đúng hơn so với
nhóm ĐC (nhận những hướng dẫn như
thường lệ mỗi khi đến tái khám. Tổng hợp
các thay đổi sau can thiệp ở cả hai nhóm
cho thấy chương trình GDSK trọng tâm
vào chăm sóc bàn chân đã có tác dụng
tích cực qua cải thiện thực hành tự chăm
sóc bàn chân của người bệnh ĐTĐ type 2
trong nghiên cứu này.
Nghiên cứu cũng có một số hạn chế
như chọn mẫu không xác suất không mang
tính đại điện và không thể ngoại suy, thời
gian đánh giá lại sau can thiệp ngắn, trong
quá trình nghiên cứu có thể có các yếu tố
khác tác động đến chăm sóc bàn chân của
người bệnh ở cả 2 nhóm.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kết quả thực hành tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình sau can thiệp giáo dục sức khoẻ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
59
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
KẾT QUẢ THỰC HÀNH TỰ CHĂM SÓC BÀN CHÂN CỦA NGƯỜI BỆNH
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TỈNH THÁI BÌNH SAU CAN THIỆP GIÁO DỤC SỨC KHOẺ
Ngô Huy Hoàng1, Lê Thị Hoa2
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định,
2Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình
Người chịu trách nhiệm: Ngô Huy Hoàng
Email: ngohoang64@ndun.edu.vn
Ngày phản biện: 12/02/2020
Ngày duyệt bài: 26/02/2020
Ngày xuất bản: 16/3/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá thay đổi thực hành
tự chăm sóc bàn chân của người bệnh
đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú
tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm
sau chương trình giáo dục sức khoẻ. Đối
tượng và phương pháp nghiên cứu: Can
thiệp có nhóm chứng và so sánh trước -
sau được thực hiện trên 104 người bệnh đái
tháo đường type 2, đang điều trị ngoại trú
tại Phòng khám Nội tiết - Bệnh viện Đa khoa
tỉnh Thái Bình từ 03/2019 đến 05/2019.
Phân nhóm ngẫu nhiên 52 người bệnh vào
nhóm nghiên cứu (nhận Chương trình giáo
dục sức khoẻ) và 52 người bệnh vào nhóm
chứng (nhận Hướng dẫn thông thường).
Sử dụng cùng một bộ công cụ để đánh giá
thực hành tự chăm sóc bàn chân ở các thời
điểm trước can thiệp, ngay sau can thiệp và
1 tháng sau can thiệp cho cả 2 nhóm. Kết
quả: Trước can thiệp, không có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm nghiên
cứu và nhóm chứng, với điểm trung bình
thực hành tự chăm sóc bàn chân theo thứ
tự là 11,92 ± 2,56 điểm so với 12,37 ± 2,72
điểm trên tổng 19 điểm của thang đo (p >
0,05). Có sự cải thiện rõ rệt về thực hành tự
chăm sóc bàn chân ở nhóm nghiên cứu với
điểm trung bình là 15,94 ± 1,81 điểm sau
Chương trình giáo dục sức khoẻ 1 tháng
so với 11,92 ± 2,56 điểm trước can thiệp
(p < 0,001). Trong khi ở nhóm chứng, có
sự tăng điểm sau 1 tháng đạt 13,02 ± 2,72
điểm so với 12,37 ± 2,72 điểm ở thời điểm
trước can thiệp, mức tăng không đáng kể
(p>0,05). Kết luận: Chương trình giáo dục
sức khoẻ áp dụng trong nghiên cứu bước
đầu cho thấy đã cải thiện rõ rệt thực hành
tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái
tháo đường type 2 so với hướng dẫn thông
thường.
Từ khóa: đái tháo đường type 2, thực
hành, tự chăm sóc bàn chân
RESULTS IN FOOT SELF-CARE PRACTICE AMONG OUTPATIENTS
WITH TYPE 2 DIABETES MANAGED BY THAI BINH GENERAL HOSPITAL
AFTER A HEALTH EDUCATIONAL INTERVENTION
ABSTRACT
Objective: To assess the foot self-care
practice among outpatients with type 2
diabetes in Thai Binh General Hospital
after completing a health education
program. Method: The interventional study
design used control group was conducted
from March 2019 to May 2019 in 104
type 2 diabetic outpatients. The included
patients were randomly allocated into two
groups with 52 participants received the
study’s educational program and 52 others
received the common instruction as the
control group. The same instrument was
60
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
used to assess foot self-care practice for
both groups and time series with measure
before the intervention and one month
after completing the intervention. Results:
Before the intervention, no significant
differerence was seen in the foot self-care
practice between the research group and
the control group with the mean scores of
11.92 ± 2.56 points and 12.37 ± 2.72 points,
respectively (p > 0,05). One month after
completing the educational intervention,
there was a significant improvement in
the foot self-care practice in patients who
received the study’s educational program
with the mean scores of 15,94 ± 1,81
points in comparision with 11,92 ± 2,56
points before the intervention (p < 0,001).
Meanwhile, no significant difference in
the foot self-care practice in the patients
of control group before and after the
intervention showed with 13,02 ± 2,72
points and 12,37 ± 2,72 points, respectively
(p > 0,05). Conclusion: The educational
program applied in this study showed the
significant improvement in the foot self-care
pactice in patients with type 2 diabetes.
Keywords: type 2 diabetes, practice,
foot self-care
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) là căn bệnh phổ
biến và đang ngày một gia tăng ở cả những
nước phát triển cũng như đang phát triển,
chủ yếu là ĐTĐ type 2. Theo số liệu thống
kê của Liên đoàn Đái tháo đường Quốc
tế (IDF) năm 2017 cho thấy cứ 11 người
trưởng thành (từ 20 đến 79 tuổi) lại có 1
người bị ĐTĐ, tương đương với 425 triệu
người mắc toàn cầu [10], [11]. Tại Việt
Nam, tỷ lệ người mắc đái tháo đường tăng
nhanh với 3,5 triệu người trưởng thành
mắc ĐTĐ vào năm 2015, tương đương
với 6% dân số và dự kiến đến năm 2040
sẽ có 6,1 triệu người mắc [1], [2]. Người
bệnh ĐTĐ phải đối mặt với nhiều biến
chứng, như bệnh tim mạch, mù lòa, suy
thận và cắt cụt chi [12]. Trong đó, có tới
0,03% đến 1,5% người bệnh phải cắt cụt
chân hậu quả của biến chứng ở chân, ảnh
hưởng lớn đến sinh hoạt và chất lượng
cuộc sống của người bệnh [9]. Việc nhận
thức đúng về chăm sóc bàn chân ở người
bệnh ĐTĐ có vai trò quan trọng, giúp giảm
thiểu các vấn đề về bàn chân ĐTĐ và cắt
cụt chi [12].
Thái Bình là một tỉnh thuộc vùng Đồng
bằng sông Hồng, trong những năm gần
đây, số lượng người dân mắc bệnh ĐTĐ
trong tỉnh cũng gia tăng. Phòng khám Nội
tiết – Bệnh viện đa khoa (BVĐK) tỉnh Thái
Bình hiện nay đang quản lý hơn 1000 NB
đái tháo đường điều trị ngoại trú, trong
đó chủ yếu là người bệnh (NB) đái tháo
đường type 2. Với đặc điểm là 1 tỉnh có
nền kinh tế nông nghiệp, phần lớn dân số
sống ở nông thôn (chiếm 83,6%), do đặc
thù công việc của nghề nông cũng như các
công việc lao động thể lực khác với thói
quen đi chân trần, rất dễ dẫn đến nguy cơ
bị tổn thương bàn chân trong quá trình lao
động.
Các nghiên cứu được công bố chính
thức về ĐTĐ trên địa bàn tỉnh hiện đang tập
trung vào các vấn đề về chẩn đoán, điều
trị và tuân thủ điều trị đái tháo đường nói
chung. Trong khi, chưa có nghiên cứu được
công bố chính thức trọng tâm vào tự chăm
sóc bàn chân để phòng ngừa tổn thương
và biến chứng bàn chân cho người bệnh
đái tháo đường. Với mong muốn góp phần
cải thiện thực hành tự chăm sóc bàn chân
cho người bệnh đái tháo đường, giúp hạn
chế các biến chứng dẫn đến phải cắt cụt
chân, chúng tôi thực hiện đề tài “Kết quả
thực hành tự chăm sóc bàn chân của người
bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại
trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình”
với mục tiêu: Đánh giá thay đổi thực hành
tự chăm sóc bàn chân của người bệnh đái
tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh
viện Đa khoa tỉnh Thái Bình năm sau can
thiệp giáo dục sức khoẻ.
61
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Người bệnh đái tháo đường type 2 đang
được quản lý ngoại trú tại Phòng khám Nội
tiết, Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình.
- Tiêu chuẩn chọn: Người bệnh được
chẩn đoán và điều trị bệnh đái tháo đường
type 2 tối thiểu từ 01 tháng trở lên (đảm
bảo đã có thời gian trải nghiệm tối thiểu để
đánh giá thực hành tự chăm sóc bàn chân).
Đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại: Người bệnh khi đến
tái khám có diễn biến nặng hoặc bệnh lý
khác phải vào điều trị nội trú. Người bệnh
đã bị cắt cụt cả 2 chân. Người bệnh không
thể nghe, nhìn hay trả lời phỏng vấn. Người
bệnh không tham gia đủ các hoạt động của
nghiên cứu (không đưa vào phân tích kết
quả).
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 01 năm
2019 đến tháng 06 năm 2019. Thời gian
thu thập số liệu từ tháng 03 năm 2019 đến
tháng 05 năm 2019.
- Địa điểm nghiên cứu: Phòng khám Nội
tiết - Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu can thiệp có nhóm chứng và
so sánh trước - sau.
2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Cỡ mẫu
Tất cả người bệnh đái tháo đường type
2 (đang được quản lý tại Phòng khám Nội
tiết - Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình)
đến khám định kỳ trong thời gian từ tháng
3/2019 đến tháng 5/2019 đáp ứng tiêu
chuẩn chọn mẫu. Thực tế đã có 104 người
bệnh tham gia đầy đủ các hoạt động của
nghiên cứu và được phân ngẫu nhiên vào 2
nhóm nghiên cứu và đối chứng, mỗi nhóm
52 người.
- Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu mục đích: chọn toàn bộ người
bệnh đến khám và điều trị trong thời gian 3
tháng từ 03/2019 đến 05/2019, đáp ứng tiêu
chuẩn chọn mẫu. Người bệnh ĐTĐ type 2
có số thứ tự khám bệnh lẻ được phân vào
nhóm nghiên cứu và người có số chẵn vào
nhóm chứng. Trường hợp NB không đáp
ứng tiêu chuẩn chọn mẫu, lấy NB có số
thứ tự lẻ/chẵn tương ứng kế tiếp theo danh
sách khám bệnh trong ngày. Người bệnh
tham gia nghiên cứu không biết mình thuộc
nhóm nào của nghiên cứu.
2.5. Thu thập số liệu
Đánh giá thực hành tự chăm sóc bàn
chân của NB ĐTĐ được thực hiện tại 3 thời
điểm: trước can thiệp (CT), ngay sau CT
và sau CT 1 tháng với cùng bộ công cụ đo
lường. Trước ngày hẹn tái khám sau can
thiệp 1 tháng, nhóm nghiên cứu liên lạc
trước với người bệnh để chắc chắn người
bệnh đến đúng hẹn.
- Công cụ thu thập số liệu: Ngoài thông
tin chung của đối tượng nghiên cứu, phiếu
đánh giá thực hành tự chăm sóc bàn chân
(CSBC) của NB ĐTĐ type 2 được xây dựng
dựa trên các tài liệu Hướng dẫn CSBC của
Hiệp hội ĐTĐ thế giới IDF [10], [11] gồm
19 câu được chia thành 4 lĩnh vực: C1-C4:
đánh giá thực hành về kiểm tra bàn chân
/ C5-C10: đánh giá thực hành về vệ sinh
chân / C11-C14: đánh giá thực hành về bảo
vệ chân / và C15-C19: đánh giá thực hành
về tăng tuần hoàn cho bàn chân.
- Tiêu chí đánh giá:
Mỗi hoạt động thực hành đúng được 1
điểm, tổng điểm thực hành là 19. Mức độ
thực hành được phân thành 3 mức: kém
khi đạt < 50% tổng số điểm (< 10 điểm),
trung bình khi đạt từ 50% đến < 70% tổng
số điểm (10 - 12 điểm) và tốt khi đạt ≥ 70%
tổng số điểm (≥ 13 điểm).
Đánh giá sự thay đổi kiến thức và thực
hành sau CT so với trước CT dựa trên so
sánh các điểm trung bình thực hành và tỷ
lệ người bệnh theo các mức độ thực hành.
62
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
2.6. Phân tích số liệu
Số liệu được nhập và phân tích trên
phần mềm SPSS 20.0, sử dụng các test
thống kê không tham số gồm tỷ lệ %, giá
trị trung bình, độ lệch chuẩn để so sánh sự
khác biệt trước và sau CT.
2.7. Can thiệp giáo dục sức khỏe
Những người bệnh thuộc nhóm đối
chứng được nhận hướng dẫn như thường
lệ (lời dặn trong đơn của bác sỹ, nhắc nhở
tuân thủ điều trị) tại phòng khám.
Những người bệnh thuộc nhóm nghiên
cứu sẽ được mời sang phòng tư vấn để
thực hiện Chương trình GDSK về tự chăm
sóc bàn chân do chính người nghiên cứu
trực tiếp thực hiện ngay sau khi thu thập
số liệu lần 1 để đảm bảo tính nhất quán
của can thiệp. Nội dung GDSK được xây
dựng dựa trên Tài liệu hướng dẫn chăm
sóc bàn chân của hiệp hội ĐTĐ thế giới IDF
[11]. Thời lượng trung bình mỗi buổi tư vấn
khoảng 50 phút, hình thức tư vấn trực tiếp,
nhóm nhỏ 3 người bệnh/buổi, kết hợp giải
thích và chiếu video làm mẫu.
2.8. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được chấp thuận bởi Hội
đồng khoa học và Hội đồng đạo đức Trường
Đại học Điều dưỡng Nam Định, sự đồng ý
của Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình và
Phòng khám Nội tiết.
Người bệnh đồng ý tham gia nghiên
cứu, các thông tin cá nhân của người bệnh
được giữ bí mật. Sau lần đánh giá thứ 3 (1
tháng sau can thiệp), những hạn chế về tự
chăm sóc bàn chân của người bệnh thuộc
cả 2 nhóm đều được tư vấn lại đầy đủ.
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điểm chung của người bệnh
tham gia nghiên cứu
Tuổi trung bình của 104 người bệnh
tham gia nghiên cứu là 64,1 ± 9,3 tuổi. Trong
đó, người trẻ nhất là 40 tuổi và người cao
tuổi nhất là 86 tuổi. Thời gian mắc đái tháo
đường trung bình của cả mẫu nghiên cứu
là 9,5 ± 6,8 năm, dài nhất là 33 năm, ngắn
nhất là 1 năm. Trong số 104 NB, 46,2% có
thời gian mắc bệnh trên 10 năm. Không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về các đặc
điểm nhân khẩu học giữa nhóm nghiên cứu
và nhóm đối chứng.
3.2. Kết quả thực hành tự chăm sóc
bàn chân của người bệnh tham gia
nghiên cứu
Bảng 3.1. Kết quả chung thực hành
tự chăm sóc bàn chân của 2 nhóm
trước và sau CT
Điểm
thực hành
Nhóm
NC
(n=52)
Nhóm
ĐC
(n=52)
p
(t-test)
Trước
CT
Min 7 6
Max 17 17 = 0,431
Mean ±
SD
11,92 ±
2,56
12,37 ±
2,72
Sau
CT
Min 10 6
Max 18 17 = 0,029
Mean ±
SD
15,94 ±
1,81
13,02 ±
2,72
p
(t-test)
= 0,000 = 0,127
Trước can thiệp, điểm trung bình thực
hành của nhóm NC là 11,92 ± 2,56 điểm
và của nhóm ĐC là 12,37 ± 2,72 điểm trên
tổng 19 điểm của thang đo, sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
Sau can thiệp, điểm trung bình thực
hành ở nhóm NC đạt 15,94 ± 1,81 điểm,
tăng có ý nghĩa thống kê so với trước can
thiệp (p < 0,001) và cũng tăng có ý nghĩa
thống kê so với nhóm ĐC (p < 0,05). Điểm
thực hành ở nhóm ĐC cũng tăng nhẹ đạt
13,02 ± 2,72 điểm ở thời điểm sau 1 tháng
so với 12,37 ± 2,72 điểm (p > 0,05).
63
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Bảng 3.2. Mức độ thực hành tự chăm
sóc bàn chân của 2 nhóm
trước và sau CT
Mức độ thực hành
Nhóm
NC
(n=52)
Nhóm
ĐC
(n=52)
SL TL % SL TL %
Trước
CT
Tốt
(13 – 19 điểm) 31 59,6 33 63,5
Trung bình
(10 - 12 điểm) 16 30,8 11 21,2
Kém
(< 10 điểm) 5 9,6 8 15,4
Sau
CT
Tốt
(13 – 19 điểm) 48 93,2 35 67,3
Trung bình
(10 - 12 điểm) 4 7,7 13 25,0
Kém
(< 10 điểm) 0 0,0 4 7,7
Sau can thiệp 1 tháng, tỷ lệ người bệnh
thực hành chăm sóc bàn chân ở mức tốt
của nhóm NC đạt 93,2% tăng so với 59,6%
trước can thiệp, không còn người bệnh
thực hành ở mức kém so với 5 người trước
can thiệp. Xu hướng này cũng thấy ở nhóm
ĐC nhưng tỷ lệ tăng mức thực hành tốt và
giảm mức thực hành kém tương ứng ít hơn
nhiều so với nhóm NC.
Kết quả thực hành tự chăm sóc bàn
chân theo 4 nội dung của 2 nhóm NC và
ĐC được thể hiện qua các Bảng 3.3 đến
3.6 dưới đây.
Bảng 3.3. cho thấy, trước can thiệp, một
số nội dung về kiểm tra bàn chân ở nhóm
ĐC có số NB thực hiện nhiều hơn một chút
so với nhóm NC. Sau 1 tháng, hầu hết các
nội dung thực hành này đều được nhiều
người bệnh thực hiện đúng ở nhóm NC
hơn so với nhóm ĐC.
Bảng 3.3. Thực hành kiểm tra bàn chân của 2 nhóm trước và sau CT
Nội dung thực hành
Thực hành đúng
Nhóm NC
(n=52)
Nhóm ĐC
(n=52)
SL TL % SL TL %
Thực hiện kiểm tra bàn chân hàng ngày
Trước CT 37 71,2 42 80,8
Sau CT 52 100,0 52 100,0
Ngồi ở vị trí thuận tiện, có đủ ánh sáng
Trước CT 34 65,4 40 76,9
Sau CT 52 100,0 49 94,2
Kiểm tra đầy đủ các vị trí của bàn chân
Trước CT 28 53,8 34 65,4
Sau CT 48 92,3 35 67,3
Dùng gương soi để kiểm tra lòng bàn chân
Trước CT 3 5,8 8 15,4
Sau CT 20 38,5 8 15,4
64
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Bảng 3.4. Thực hành vệ sinh bàn chân hàng ngày của 2 nhóm trước và sau CT
Nội dung thực hành
Thực hành đúng
Nhóm NC
(n=52)
Nhóm ĐC
(n=52)
SL TL % SL TL %
Rửa chân bằng nước ấm hàng ngày
Trước CT 36 69,2 34 65,4
Sau CT 52 100,0 35 67,3
Kiểm tra nhiệt độ của nước khi pha
nước tắm hoặc rửa chân
Trước CT 44 84,6 46 88,5
Sau CT 52 100,0 47 90,4
Lau khô bàn chân sau khi rửa
Trước CT 28 53,8 26 50,0
Sau CT 44 84,6 28 53,8
Bôi kem dưỡng ẩm cho bàn chân
Trước CT 6 11,5 12 23,1
Sau CT 16 30,8 13 25,0
Cắt móng chân sau khi tắm hoặc rửa
chân
Trước CT 19 36,5 23 44,2
Sau CT 46 88,5 45 86,5
Không dùng dao lam cắt bỏ chai chân
Trước CT 46 88,5 45 86,5
Sau CT 50 96,2 44 84,6
Bảng 3.4 cho thấy, trước can thiệp, một số nội dung về vệ sinh bàn chân ở nhóm ĐC
có số NB thực hiện nhiều hơn một chút so với nhóm NC. Sau 1 tháng, xu hướng là tỷ lệ
NB thực hành đúng các nội dung vệ sinh bàn chân ở nhóm NC (nhóm nhận chương trình
GDSK) tăng lên và tăng cao hơn tương ứng so với ở nhóm ĐC (nhóm nhận hướng dẫn
thông thường).
Bảng 3.5. Thực hành bảo vệ bàn chân của 2 nhóm trước và sau CT
Nội dung thực hành
Thực hành đúng
Nhóm NC
(n=52)
Nhóm ĐC
(n=52)
SL TL % SL TL %
Không đi chân trần trong nhà
Trước CT 21 40,4 19 36,5
Sau CT 41 78,8 29 55,8
Không đi chân trần ngoài nhà
Trước CT 45 86,5 46 88,5
Sau CT 47 90,4 48 92,3
Kiểm tra giày hoặc dép trước khi mang
Trước CT 42 80,8 41 78,8
Sau CT 49 94,2 41 78,8
Không chườm chân bằng chai nước
nóng; hơ chân bếp lửa
Trước CT 45 86,5 33 63,5
Sau CT 50 96,2 32 61,5
Bảng 3.5 cho thấy, ở nhóm NC sau khi nhận chương trình GDSK tỷ lệ người bệnh thực
hành tất cả các nội dung về bảo vệ bàn chân đều cao hơn trước và cao hơn so với các tỷ
65
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
lệ này ở nhóm ĐC.
Bảng 3.6. Thực hành tăng tuần hoàn cho bàn chân của 2 nhóm trước và sau CT
Nội dung thực hành
Thực hành đúng
Nhóm NC
(n=52)
Nhóm ĐC
(n=52)
SL TL % SL TL %
Không đi tất chật
Trước CT 49 94,2 48 92,3
Sau CT 49 94,2 49 94,2
Ngồi kê chân lên ghế
Trước CT 16 30,8 26 50,0
Sau CT 30 57,7 28 53,8
Không ngồi vắt chéo chân
Trước CT 35 67,3 40 76,9
Sau CT 45 86,5 41 78,8
Tập cử động ngón chân
Trước CT 41 78,8 41 78,8
Sau CT 43 82,7 41 78,8
Đi bộ, đạp xe đạp
Trước CT 41 78,8 46 88,5
Sau CT 50 96,2 47 90,4
Bảng 3.6 cho thấy thực hành tăng cường tuần hoàn cho bàn chân có xu hướng tương
tự như thực hành bảo vệ bàn chân với nhiều nội dung có tỷ lệ người bệnh thực hiện nhiều
hơn ở nhóm NC sau khi nhận chương trình GDSK và cao hơn so với các tỷ lệ ở các nội
dung tương ứng của nhóm ĐC.
4. BÀN LUẬN
Như đã đề cập ở mục 3.1, người bệnh
ĐTĐ type 2 đã tham gia nghiên cứu thuộc
nhóm người cao tuổi (64,1 ± 9,3 tuổi), độ
tuổi trong nghiên cứu này tương tự với độ
tuổi của người bệnh trong một số nghiên
cứu khác gần đây ở Việt Nam như Nguyễn
Thanh Sơn năm 2017 [5] là 64,19 ± 9,45
tuổi; Lê Thị Nhật Lệ năm 2018 [4] là 60,2
± 9,8 tuổi; Hồ Phương Thúy năm 2018 [3]
là 61,81 ± 8,38 tuổi. Mặc dù không phải là
những nghiên cứu dịch tễ học song các
con số này cũng phản ánh xu thế chung
của bệnh ĐTĐ Type 2 là tăng lên theo tuổi.
Thời gian có bệnh của người bệnh tham gia
nghiên cứu khá dài trung bình là 9,5 ± 6,8
năm. Trong khi biến chứng loét bàn chân
dễ xuất hiện ở những người bệnh có thời
gian mắc bệnh lâu ngày [9] và loét bàn chân
tăng theo thời gian mắc bệnh [8] cho thấy
sự cần thiết phải trang bị cho người bệnh
kiến thức và kỹ năng về chăm sóc bàn chân
giúp người bệnh có thể tự chăm sóc bàn
chân lâu dài khi ở nhà song song với các
biện pháp tuân thủ điều trị khác.
Trước can thiệp (Bảng 3.1), điểm thực
hành tự chăm sóc bàn chân của NB ĐTĐ
type 2 ở hai nhóm là tương đương với
11,92 ± 2,56 điểm trên tổng 19 điểm của
thang đo ở nhóm NC và 12,36 ± 3,1 điểm
trên tổng 19 điểm của thang đo ở nhóm ĐC
(p > 0,05). Với kết quả về điểm thực hành
này cho thấy trong quá trình được quản lý
ngoại trú tại Bệnh viện, người bệnh đã tiếp
thu và thực hiện những kiến thức và thực
hành tự chăm sóc cho bản thân và không
thể phủ nhận vai trò của tư vấn từ nhân
viên y tế, từ các phương tiện truyền thông
và từ chính ý thức của bản thân người
bệnh. Tuy nhiên, điểm thực hành này còn
thấp và cũng tương tự như kết quả này từ
một số nghiên cứu khác: 5,6 ± 1,9 điểm trên
thang điểm 10 của Nguyễn Thị Bích Đào
[6]; 12,71 ± 3,62 trên tổng 21 điểm của Hồ
66
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Phương Thúy [3]. Kết quả thực hành trước
can thiệp chưa phải là lý tưởng và có thể lý
giải là người bệnh ĐTĐ phải thực hiện cùng
lúc nhiều nội dung tuân thủ và có lẽ chăm
sóc bàn chân chưa thật sự được chú trọng
trong quá trình người bệnh được khám và
điều trị ngoại trú.
Sau can thiệp 1 tháng, cả 2 nhóm đều
có sự cải thiện điểm, tuy nhiên ở nhóm
nghiên cứu (nhận chương trình GDSK
về tự chăm sóc bàn chân) có sự cải thiện
thực hành rõ ràng hơn với điểm trung bình
đạt 15,94 ± 1,81 điểm so với 11,92 ± 2,56
điểm trước khi nhận chương trình GDSK
về tự chăm sóc bàn chân (p < 0,001).
Trong khi, ở nhóm chứng có sự tăng điểm
sau 1 tháng đạt 13,02 ± 2,72 không đáng
kể so với 12,36 ± 3,1 điểm trước đó (p >
0,05). Về phân loại mức độ thực hành,
kết quả ở Bảng 3.2 cho thấy ở nhóm NC
sau khi nhận chương trình GDSK về tự
chăm sóc bàn chân, tỷ lệ người bệnh thực
hành đạt mức tốt tăng lên 93,2% tăng so
với 59,6% trước can thiệp và không còn
người bệnh thực hành ở mức kém. Kết
quả phân loại này tương đồng với kết quả
này của Nguyễn Thị Bích Đào (26,4%) [6]
và Nguyễn Tiến Dũng (29%) [7]. Trong khi,
ở nhóm ĐC, sau 1 tháng tỷ lệ người bệnh
thực hành đạt mức tốt tăng không đáng
kể đạt 67,3% so với 63,5% trước đó. Các
Bảng 4.3 đến 3.6 cho thấy, mặc dù không
đồng đều về tỷ lệ thực hiện các nội dung
về tự chăm sóc bàn chân, nhưng có bản
ở nhóm NC sau khi nhận chương trình
GDSK về tự chăm sóc bàn chân có nhiều
người bệnh thực hành đúng hơn so với
nhóm ĐC (nhận những hướng dẫn như
thường lệ mỗi khi đến tái khám. Tổng hợp
các thay đổi sau can thiệp ở cả hai nhóm
cho thấy chương trình GDSK trọng tâm
vào chăm sóc bàn chân đã có tác dụng
tích cực qua cải thiện thực hành tự chăm
sóc bàn chân của người bệnh ĐTĐ type 2
trong nghiên cứu này.
Nghiên cứu cũng có một số hạn chế
như chọn mẫu không xác suất không mang
tính đại điện và không thể ngoại suy, thời
gian đánh giá lại sau can thiệp ngắn, trong
quá trình nghiên cứu có thể có các yếu tố
khác tác động đến chăm sóc bàn chân của
người bệnh ở cả 2 nhóm.
5. KẾT LUẬN
Thực hành tự chăm sóc bàn chân của
người bệnh đái tháo đường type 2 sau khi
nhận GDSK trọng tâm vào tự chăm sóc bàn
chân được cải thiện rõ rệt với điểm trung
bình thực hành là 15,94 ± 1,81 điểm tăng
rõ rệt so với 11,92 ± 2,56 điểm của cùng
thang đo có tổng là 19 điểm (p < 0,001).
Cũng có sự tăng điểm thực hành ở nhóm
đối chứng nhưng không đáng kể với 13,02
± 2,72 điểm so với 12,36 ± 3,1 điểm (p >
0,05).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Quản lý khám chữa bệnh (2018).
“Gánh nặng bệnh đái tháo đường tại Việt
Nam”, truy cập từ:
vn ngày truy cập 15/2/2019.
2. Cục Quản lý khám chữa bệnh (2018).
“Tình hình đái tháo đường”, truy cập từ:
ngày truy cập
15/2/2019.
3. Hồ Phương Thúy (2018). Thay đổi
kiến thức và thực hành tự chăm sóc bàn
chân của người bệnh đái tháo đường type 2
điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh
tuyên quang năm 2018, Luận văn Thạc sỹ
Điều dưỡng, ĐH Điều dưỡng Nam Định.
4. Lê Thị Nhật Lệ (2018). Tuân thủ điều
trị và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân đái
tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh
viện Nguyễn Tri Phương năm 2017. Hội
nghị khoa học kỹ thuật lần thứ 35, ĐH Y
dược TP Hồ Chí Minh.
5. Nguyễn Thanh Sơn (2017). Chất
lượng cuộc sống và hiệu quả giải pháp
quản lý, chăm sóc người bệnh đái tháo
đường type 2 tai nhà tỉnh Thái Bình, Luận
án Tiến sỹ Y học, trường Đại học Y-Dược
67
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Thái Bình.
6. Nguyễn Thị Bích Đào và Vũ Thị Là
(2011). Kiến thức, thái độ và hành vi tự
chăm sóc bàn chân của người bệnh đái
tháo đường type 2 đến khám và điều trị tại
Bệnh viện chợ Rẫy. Tạp chí Y học Thành
phố Hồ Chí Minh, 16(2), tr.60-69.
7. Nguyễn Tiến Dũng và Phùng Văn Lợi
(2011). Các yếu tố liên quan đến hành vi
chăm sóc bàn chân ở bệnh nhân đái tháo
đường type 2 tại Thái Nguyên Việt Nam.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 104(4),
tr.55-60.
8. Bondor C.I., Ioan A. V., Bogdan F.,
et al. (2016). Epidemiology of Diabetic
Foot Ulcers and Amputations in Romania:
Results of a Cross-Sectional Quality of Life
Questionnaire Based Survey. Journal of
Diabetes Research, 2016, pp.1-7.
9. Boyko E. J., Ahroni J. H., Cohen V.,
et al. (2006). Prediction of diabetic foot
ulcer occurrence using commonly available
clinical information: the Seattle Diabetic Foot
Study. Diabetes Care, 29(6), pp.1202-7.
10. International Diabetes Federation
(2017), “IDF Clinical Practice
Recommendations for managing Type 2
Diabetes in Primary Care”, International
Diabetes Federation, pp.1-43.
11. International Diabetes Federation
(2017), “IDF Clinical Practice
Recommendations on the Diabetic Foot”,
International Diabetes Federation, pp.1-70
12. World Health Organization. (2016).
Global report on diabetes: ISBN 978 92 4
156525 7 (NLM classifcation: WK 810).
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI TỔN THƯƠNG DO VẬT SẮC NHỌN CỦA ĐIỀU DƯỠNG:
MỘT NGHIÊN CỨU DỰA TRÊN MÔ HÌNH NIỀM TIN SỨC KHỎE
Đỗ Minh Sinh1, Hoàng Trung Tiến2
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định;
2Trường Đại học Yersin Đà Lạt
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhằm mô tả thái độ của điều
dưỡng về tổn thương do vật sắc nhọn dựa
theo mô hình niềm tin sức khỏe. Đối tượng
và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế
nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện
với 149 điều dưỡng viên chăm sóc người
bệnh đang làm việc tại những khoa có tiếp
xúc với vật sắc nhọn của Bệnh viện đa khoa
tỉnh Lâm Đồng. Thu thập số liệu bằng hình
thức phỏng vấn dựa trên bộ câu hỏi tự điền.
Kết quả: đa số điều dưỡng có thái độ tích
cực đối với mức độ nghiêm trọng của tổn
Người chịu trách nhiệm: Đỗ Minh Sinh
Email: minhsinh82@gmail.com
Ngày phản biện: 24/02/2020
Ngày duyệt bài: 02/3/2020
Ngày xuất bản: 16/3/2020
thương do vật sắc nhọn. Tỷ lệ điều dưỡng
có thái độ tích cực với tính nhạy cảm của
bệnh chiếm > 90% ở tất cả các nội dung.
Nhìn chung niềm tin của điều dưỡng đối
với các biện pháp dự phòng là khá cao
chiếm > 75% ở tất cả các nội dung. Mặc
dù vậy, ở một số nội dung tỷ lệ điều dưỡng
có thái độ chưa tích cực chiếm trên 16% và
một số yếu tố như quá tải công việc, thiếu
nhân sự, thiếu dụng cụ an toàn, thiếu kiến
thức được cho là rào cản. Kết luận: đa
phần điều dưỡng đã có thái độ tích cực về
tổn thương do vật sắc nhọn, dựa trên học
thuyết “mô hình niềm tin sức khoẻ” có khả
năng cao các điều dưỡng trong nghiên cứu
này sẽ thực hiện các biện pháp dự phòng
tổn thương do vật sắc nhọn.
Từ khóa: Tổn thương do vật sắc nhọn,
thái độ, điều dưỡng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_thuc_hanh_tu_cham_soc_ban_chan_cua_nguoi_benh_dai_th.pdf