KẾT LUẬN
Đã tuyển chọn được 6 giống Alfalfa có triển vọng
là: V35, V39, V41, V47, V48, V49, công nhận cấp cơ
sở giống AF1 và được Cục trưởng Cục trồng trọt - Bộ
Nông nghiệp & PTNT khuyến cáo mở rộng sản xuất.
Giống Alfalfa AF1 có dạng cây bụi, thân và các
cành nhánh mọc thẳng, có màu xanh. Lá của cây là
lá kép có 3 lá chét, màu xanh đậm, hình bầu dục với
mặt trên mịn, mặt dưới hơi có lông. Hoa màu tím
nhạt, mỗi cành/ thân chính có từ 6 - 7 chùm hoa,
mỗi chùm có từ 5 - 25 hoa. Quả xoắn cuộn hình
vành khuyên, chứa 2 - 6 hạt, quả non có màu xanh,
chín có màu nâu. Giống AF1 cho năng suất cao hơn
các giống khác có ý nghĩa. AF1 có năng suất chất
xanh đạt cao nhất là 81,58 tấn/ha/năm, hàm lượng
Protein 23,5%, hàm lượng chất xơ 25,2%, tỷ lệ chất
khô 20,0%.
Tại các mô hình trình diễn giống AF1 sinh
trưởng phát triển khá tốt, ít sâu bệnh. tổng năng suất
chất xanh 6 lần cắt dao động 62,21 tấn đến 78,04
tấn; tổng năng suất khô dao động từ 15,37 tấn đến
18,14 tấn.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Két quả tuyển chọn giống ALFALFA AF1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2018. Báo
cáo tổng kết Hội nghị mía đường niên vụ 2017/2018.
Hội nghị Tổng kết Mía đường niên vụ 2017/2018,
Tp. Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, ngày 13/9/2018,
Viện Nghiên cứu Mía đường, 2019. Báo cáo Kết quả sản
xuất thử giống mía LK92-11 tại vùng mía Tây Nam
bộ. Hội đồng Nghiệm thu cấp Bộ ngày 12/01/2019.
Viện Nghiên cứu Mía đường, 3/2019. Báo cáo tổng kết
đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu chọn tạo giống mía chịu
úng phèn, có năng suất và chất lượng cao cho vùng
Tây Nam bộ”. Hội đồng Nghiệm thu cấp Bộ ngày
27/3/2019.
Trial production of sugarcane variety LK92-11 in South-western region
Le Thi Thuong, Vo Manh Hung,
Nguyen Cuong Quyet, Le Quang Tuyen
Abstract
Sugarcane variety LK92-11 has been recognized for trial production in South-western region according to the Decision
No. 135/QD-BNN-TT on January 12th, 2017 of the Minister of Ministry of Agriculture and Rural Development.
The trial production of LK92-11 was conducted in provinces of Long An, Ben Tre and Soc Trang, during 2 years
of 2017 and 2018. The trial production models were carried on large scale without replication. The results showed
that sugarcane variety LK92-11 grew well, tillering strongly with high density, hard and heavy stem; they were
tolerant to pests, diseases and saline acid sulfate soil; non-flowering, non or slightly lodging, early - medium
ripening. The cane yield was 112 tons/ha to 134 tons/ha, higher than that of the check variety K84-200 by 15 to 24%.
The average cane yield with 10 CCS was from 133 tons/ha to 155 tons/ha, higher than that of the check variety by
24 to 28%. The cane quality reached 11.52 CCS to 12.45 CCS.
Keywords: Sugarcane variety LK92-11, Commercial Cane Sugar (CCS), yield, trial production
Ngày nhận bài: 29/3/2019
Ngày phản biện: 5/4/2019
Người phản biện: TS. Cao Anh Đương
Ngày duyệt đăng: 15/4/2019
1 Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm
KÉT QUẢ TUYỂN CHỌN GIỐNG ALFALFA AF1
Nguyễn Văn Thắng1, Nguyễn Thị Thuý Lương1,
Nguyễn Xuân Vi1, Nguyễn Trí Quí1
TÓM TẮT
Cây Alfalfa hay còn gọi là cây linh lăng (Medicago sativa L.) đã được bắt đầu trồng thử nghiệm ở nước ta từ những
năm 60 song kết quả chưa được khả quan. Kết quả đánh giá khả năng sinh trưởng, năng suất và chất lượng của
10 giống Alfalfa triển vọng được chọn ra từ 46 giống thu thập và nhập nội trong giai đoạn 2015 - 2018 tại một số
vùng sinh thái cho thấy, nếu trồng đúng thời vụ, các giống có khả năng sinh trưởng và cho năng suất chất xanh từ
38 - 84 tấn/ha/năm, hàm lượng protein từ 15 - 25%. Đã chọn ra được 6 giống cho 5 - 6 lần cắt với tổng năng suất
chất xanh trên 60 tấn/ha/năm, hàm lượng protein 22 - 23,5%. Trong điều kiện Đồng bằng sông Hồng, giống AF1
cho năng suấtcao nhất với 84,9 tấn/ha/năm sau 6 lần cắt, hàm lượng chất khô của giống AF1 đạt 20,0%, hàm lượng
protein đạt 23,5%; hàm lượng chất xơ là 25,2%; hàm lượng NDF: 40,6%; ADF: 31,9%. Giống AF1 đã được Cục Trồng
trọt, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khuyến cáo mở rộng sản xuất.
Từ khoá: Alfalfa, tuyển chọn, năng suất, chất lượng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tổng diện tích trồng Alfalfa trên thế giới năm
2016 khoảng 30 triệu ha trong đó Bắc Mỹ chiếm 41%
(11,9 triệu ha); châu Âu 25% (7.120.000 ha); Nam
Mỹ 23% (7.000.000 ha); châu Á 8% (2,23 triệu ha).
Hoa Kỳ là nước có diện tích lớn nhất trên thế giới với
9 triệu ha, kế đến là Argentina với 6,9 triệu ha, Canada
2 triệu ha, Nga 1,8 triệu ha, Ý 1,3 triệu ha và Trung
Quốc 1,3 triệu ha. Thị trường cỏ linh lăng hoặc cỏ
khô toàn cầu trị giá 799,9 triệu USD trong năm 2016
và dự kiến ghi nhận mức tăng trưởng CAGR là 4,9%
trong giai đoạn 2018-2023 (NAFA, 2017).
Tại Trung Quốc đã thu thập được 80 giống Alfalfa
địa phương. Từ năm 1986 đến năm 2000 đã có
36 giống được công nhận, trong đó có 17 địa phương
(Alfalfa Management Guide for Ningxia-China, 2007).
32
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
Mỹ là nước tạo ra nhiều giống Alfalfa nhất, danh
sách hàng trăm giống Alfalfa của Liên minh Alfalfa
và thức ăn chăn nuôi Hoa Kỳ đã đưa ra với đầy đủ
các đặc tính về di truyền, khả năng chống chịu sâu
bệnh, khả năng qua đông và khả năng phát triển
trong mùa thu (NAFA, 2017).
Cây Alfalfa nhập vào Việt Nam từ năm 1954, được
trồng thử nghiệm ở phía Nam (Nguyễn Văn Tuyền,
1973) và tại vùng đất đồi gò Ba Vì, Hà Nội (Đinh Văn
Bình và ctv., 1980), nhưng việc trồng không cho kết
quả khả quan (Thái Đình Dũng và Đặng Đình Liệu,
1979; Nguyễn Thị Mùi, 2009). Ngược lại, cây Alfalfa
có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt khi trồng
vào mùa khô tại thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
Mặc dù cây Alfalfa được trồng thí nghiệm chưa
thành công tại Việt Nam trong thời gian qua, nhưng
trong bối cảnh nguồn thức ăn thô xanh chất lượng
cao hiện còn hạn chế thì Alfalfa nhập nội lượng lớn
vẫn được sử dụng nhiều trong khẩu phần ăn của bò
sữa, đặc biệt là bò sữa cao sản và bò thịt vỗ béo. Do
vậy, việc nghiên cứu tuyển chọn giống thích hợp là
cần thiết và cấp bách.
Bài báo này tập hợp kết quả nghiên cứu tuyển
chọn giống AF1 trong vụ Đông tại vùng Đồng bằng
sông Hồng và mùa khô tại Duyên hải Nam Trung bộ
và Đông Nam bộ.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu và nội dung nghiên cứu
- Vật liệu nghiên cứu: Gồm 10 giống Alfalfa triển
vọng được chọn ra từ 46 giống thu thập và nhập nội
từ một số nước như Mỹ, Úc, Canada, Trung Quốc,
Hàn Quốc...; Các loại phân bón: phân đạm Ure 46%,
phân lân Supe 16%, phân Kali Clorua 60%, phân
hữu cơ Sông Gianh, vôi bột.
- Nội dung nghiên cứu: (1) Đánh giá khả năng
sinh trưởng, năng suất và chất lượng các giống triển
vọng ở các vùng sinh thái; (2) Xây dựng mô hình
sản xuất.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm đánh giá khả năng sinh trưởng, năng
suất của các giống triển vọng ở các vùng sinh thái:
Thí nghiệmđược bố trí theo phương pháp khối ngẫu
nhiên hoàn toàn (RCBD) với 3 lần nhắc lại, diện tích
ô thí nghiệm 20 m2, các biện pháp kỹ thuật áp dụng
tương tự như mô hình.
Xây dựng mô hình sản xuất: Đất được làm kỹ và
sạch cỏ dại. Rạch theo chiều dọc của luống với độ
sâu từ 2 - 3 cm. Rắc hạt giống đều vào các hàng đã
rạch, lấp lớp đất bột dày 1 - 1,5 cm kín trên bề mặt.
Lượng hạt giống từ 10 - 12 kg/ha. Lượng phân bón
cho 1 ha: 2000 kg phân hữu cơ Sông Gianh + 500 kg
vôi bột + 45 kg N + 90 kg P2O5 + 90 kg K2O/ha. Bón
lót toàn bộ phân hữu cơ Sông Gianh và vôi bột trước
khi gieo, sau trồng khoảng 20 - 25 ngày bón thúc
lần 1 và ngay sau mỗi lứa thu hoạch bón 45 kg N +
90 kg P2O5 + 90 kg K2O/ha. Tưới khi cần, đảm bảo
độ ẩm khoảng 75% độ ẩm đất để cây sinh trưởng và
phát triển tốt.
2.2.2. Phân tích chất lượng
Tại Phòng phân tích thức ăn và sản phẩm chăn
nuôi, Viện Chăn nuôi.
Hàm lượng nitơ tổng số: Xác định theo Tiêu
chuẩn Việt NamTCVN 4328: 2001.
Lipit thô (%): Xác định theo Tiêu chuẩn Việt
Nam TCVN 4331:2001.
Xơ thô (%): Xác định theo Tiêu chuẩn Việt Nam
TCVN 4329:1993
NDF: Xác định theo Tiêu chuẩnViệt Nam TCVN
9589:2013 (ISO 13906:2008).
ADF: Xác định theo Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN
9589:2013 (ISO 13906:2008).
2.2.3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm
IRRISTAT 5.0 và so sánh Turkey.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm đánh giá khả năng sinh trưởng, năng
suất của các giống triển vọng ở các vùng sinh thái
được thực hiện tại các tỉnh: Hà Nội, Nghệ An, Sơn
La, Bình Định, Đồng Nai trong thời gian từ tháng 11
năm 2015 đến tháng 12 năm 2017.
Xây dựng mô hình sản xuất trong thời gian từ
tháng 10 năm 2016 đến tháng 11 năm 2018 tại các
tỉnh: Hải Dương, Đồng Nai, Thanh Hoá và Nghệ An.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nguồn gốc và một số đặc điểm thực vật học
của giống Alfalfa AF1
Giống Alfalfa AF1 là giống Alfalfa V48 được
tuyển chọn từ tập đoàn 46 giống Alfalfa thu thập,
nhập nội năm 2015. Giống Alfalfa AF1 có dạng cây
bụi, thân và các cành nhánh mọc thẳng, có màu
xanh. Lá kép có 3 lá chét, màu xanh đậm và có hình
bầu dục với mặt trên mịn, mặt dưới hơi có lông.
Hoa màu tím nhạt, được hình thành trên đỉnh thân
chính hoặc các cành, các nách lá. Quả xoắn cuộn
33
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
hình vành khuyên, chứa 2 - 6 hạt, quả non có màu
xanh, chín có màu nâu, năng suất chất xanh đạt cao
nhất là 84,92 tấn/ha/năm.
3.2. Một số đặc tính sinh trưởng của giống
AlfalfaAF1
Các chỉ tiêu về thời gian từ gieo đến mọc mầm
của giống AF1 (3 - 4 ngày) không có sự sai khác so
với các giống khác ở tất cả các điểm nghiên cứu.
Thời gian đến thu lần 1 (65 - 70 ngày) và các lần
tiếp theo (35 - 40 ngày) của các giống trong cùng địa
điểm nghiên cứu không có sự khác biệt, trừ giống
V9, nhưng có sự chênh lệch đáng kẻ ở các điểm khác
nhau. Tại Hà Nội, Sơn La thời gian cho thu hoạch
lần một của AF1 và các giống tương đương nhau
(68 - 70 ngày sau mọc); tại Nghệ An, Đồng Nai và
Bình Định thời gian cho thu lần 1 ở 65 ngày sau mọc.
Thời gian từ sau thu lần 1 đến thu lần 2 ở Hà Nội và
Sơn La là 40 ngày, Nghệ An 36 ngày; ngắn nhất là
Bình Định và Đồng Nai 35 ngày. Khi nhiệt độ cao có
thể rút ngắn thời gian cho thu hoạch ở các lần cắt.
3.3. Chiều cao cây của giống AF1
Chiều cao cây của các giống Alfalfa dao động từ
30,4 - 60,0 cm tùy địa điểm nghiên cứu. Trong đó
chiều cao trung bình của các giống tại điểm Hà Nội
đạt cao nhất với 55,2 cm; tiếp đến là Sơn La, Bình
Định và Đồng Nai lần lượt là 50,1cm; 49,6 cm và
42,7 cm; thấp nhất là điểm Nghệ An với chiều cao
trung bình của các giống là 38,5 cm. Trong số các
giống tham gia thí nghiệm, giống V48 (AF1) có
chiều cao cây cao nhất ở hầu hết các điểm thí nghiệm.
Cụ thể, tại Hà Nội, chiều cao thảm cây đạt cao nhất
là 60,0 cm, tại Sơn La cao 54,2 cm, tại Bình Định
cao 49,5 cm, tại Đồng Nai cao 57,0 cm, thấp nhất tại
Nghệ An với chiều cao 41,0 cm.
Bảng 1. Chiều cao thảm cây khi thu hoạch
của giống Alfalfa AF1
Tên giống
Chiều cao thảm cây
khi thu hoạch (cm)
HN NA SL BĐ ĐN
V1 55,0 36,0 49,2 47,7 33,0
V2 54,9 37,0 49,6 48,1 41,6
V9 53,9 38,0 49,6 53,0 30,4
V35 50,8 38,4 48,3 48,7 56,6
V39 52,4 37,7 48,7 49,2 32,4
V41 54,3 38,3 51,0 50,6 33,6
V42 56,7 38,9 45,6 49,9 49,8
V47 56,6 39,0 52,0 48,8 49,4
V48 (AF1) 60,0 41,0 54,2 49,5 57,0
V49 57,1 40,8 53,1 51,0 42,8
Trung bình 55,2 38,5 50,1 49,6 42,7
Ghi chú: Số liệu trung bình 2 năm 2016 - 2017; HN =
Hà Nội; NA = Nghệ An; SL = Sơn La; BĐ = Bình Định;
ĐN = Đồng Nai.
3.4. Khả năng ra hoa, hình thành hạt của các giống
Alfalfa
Việc đánh giá khả năng ra hoa, kết hạt trong
điều kiện Hà Nội có ý nghĩa trong nhân giống đối
với các giống có triển vọng. Kết quả theo dõi cho
thấy tuy mỗi chùm có rất nhiều hoa nhưng khả năng
đậu quả phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết.
Nếu nhiệt độ càng cao (35 - 40oC) hoa xuất hiện sớm
hơn, hoa nở nhanh nhưng ít hoa và tỉ lệ đậu quả
giảm đi, những quả đậu cũng bị lép, thậm chí không
đậu quả. Trong điều kiện mát mẻ (20 - 30oC) thời
gian ra hoa kéo dài hơn nhưng hoa ra chùm to hơn,
khả năng đậu quả cũng cao hơn.
Bảng 2. Khả năng ra hoa, hình thành hạt của các giống Alfalfa
Tên giống
Lần ra hoa thứ 1 Lần ra hoa thứ 2
TG ra hoa
(ngày)
Tỷ lệ hoa
(%)
Hoa- hạt
(ngày)
Tỷ lệ thu
hạt (%)
TG ra hoa
(ngày)
Tỷ lệ hoa
(%)
Hoa-hạt
(ngày)
Tỷ lệ thu
hạt (%)
V1 65 33,5 35 42,7 35 25,8 32 25,7
V2 65 35,0 35 34,4 35 30,5 32 27,9
V9 65 32,0 35 38,2 37 26,6 32 32,0
V35 65 26,7 35 27,9 35 25,4 32 19,6
V39 65 23,4 35 33,3 35 19,8 32 20,6
V41 65 27,1 35 35,4 35 24,3 32 21,9
V42 65 23,8 35 36,0 37 17,4 32 23,0
V47 65 28,6 35 23,6 35 22,6 32 21,0
V48 (AF1) 65 30,7 35 39,8 35 26,8 32 17,8
V49 65 27,4 35 30,7 35 25,2 32 15,5
Ghi chú: TG ra hoa: thời gian từ gieo/cắt đến ra hoa; tỷ lệ hoa: tỷ lệ số khóm ra hoa; hoa - hạt: thời gian từ ra hoa
đến thu hạt; tỷ lệ thu hạt: tỷ lệ hoa cho thu hạt.
34
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
Thời gian từ gieo đến ra hoa lần 1 là 65 ngày, từ
ra hoa đến thu hạt là 35 ngày. Sau thu hoạch hạt lần
1, tiến hành cắt cách mặt đất 5,0 cm để cây tái sinh
lại và các giống tiếp tục ra hoa lần 2 sau cắt từ 35 - 37
ngày, thời gian từ ra hoa đến thu hoạch hạt lần 2 là
32 ngày.
Tỷ lệ khóm ra hoa giữa các giống dao động từ
23,8 - 35,0% và tỷ lệ hoa cho thu hạt đạt từ 23,6 -
42,7%. Mặt khác, ở lần ra hoa thứ 2 thì tỷ lệ khóm
ra hoa và tỷ lệ hoa kết hạt đạt thấp hơn so với lần ra
hoa thứ 1. Mặc dù các giống đều có khả năng ra hoa
trong điều kiện khí hậu ở Việt Nam, song do hoa ra
không tập trung, tỉ lệ đậu quả còn thấp nên để sản
xuất hạt giống cần phải có các nghiên cứu tiếp theo.
3.5. Năng suất giống Alfalfa AF1
Hình 1 cho thấy có 6 giống V35, V39, V41, V47,
V48 (AF1) và V49 có năng suất chất xanh trung bình
đạt trên 60 tấn/ha/năm. Song trong số 6 giống đó,
giống AF1 có năng suất cao hơn có ý nghĩa ở mức
xác xuất 95% so với các giống khác. Hơn nữa, giống
AF1 luôn đạt năng suất chất xanh cao hơn các giống
khác ở tất cả 5 điểm nghiên cứu và đạt cao nhất tại
điểm Hà Nội với 84,92 tấn/ha/năm. Phân tích số liệu
tại các điểm còn cho thấy, cùng một giống nhưng
trồng ở các điểm khác nhau đã cho năng suất khác
nhau có ý nghĩa. Tại điểm Hà Nội và Sơn La, năng
suất trung bình của các giống cao hơn các điểm còn
lại. So sánh năng suất giữa Hà Nội và Sơn La cho
thấy, năng suất trung bình của các giống trồng ở Hà
Nội cao hơn năng suất các giống ở Sơn La một cách
có ý nghĩa ở mức 95%. Như vậy, có thể cho rằng
điều kiện khí hậu đã ảnh hưởng khá rõ đối với sinh
trưởng và năng suất các giống Alfalfa. Trong điều
kiện miền Bắc nước ta, ngoại trừ mùa hè nắng, nóng,
mưa nhiều gây bất lợi với cây Alfalfa, ba mùa còn lại
có khí hậu khá thích hợp với cây Alfalfa nên năng
suất ở đây đạt cao nhất trong các điểm nghiên cứu.
Hình 1. Đồ thị biểu diễn sự biến động năng suất chất xanh của giống các giống Alfalfatại các điểm nghiên cứu:
HN = Hà Nội; NA = Nghệ An; SL = Sơn La; BĐ = Bình Định; ĐN = Đồng Nai; TB = năng suất trung bình.
3.6. Mức độ nhiễm sâu, bệnh hại chính của các
giống Alfalfa
Tất cả các giống Alfalfa cũng như giống Alfalfa
AF1 đều thấy xuất hiện sâu hại, song đều ở mức rất
nhẹ không ảnh hưởng đến năng suất. Đây cũng là
đặc điểm rất cần thiết để đảm bảo nguồn thức ăn
sạch cho vật nuôi. Bên cạnh sâu hại, bệnh hại cũng là
một yếu tố gây giảm năng suất ở Alfalfa. Tuy nhiên,
kết quả theo dõi chỉ thấy xuất hiện bệnh héo rũ ở cây
con ở mức trung bình trong vụ Xuân.
Bảng 3. Mức độ nhiễm sâu bệnh hại chínhcủa các giống Alfalfa
Giống Sâu ăn lá, thân Rầy/Rệp Bệnh héo rũHN NA SL BĐ ĐN HN NA SL BĐ ĐN HN NA SL BĐ ĐN
V1 + + + + + 1 1 1 1 1 ++ ++ ++ ++ ++
V2 + + + + + 1 1 1 1 1 ++ ++ ++ ++ ++
V9 + + + + + 1 1 1 1 1 + ++ + ++ +
V35 + + + + + 1 1 1 1 1 ++ ++ ++ ++ ++
V39 + + + - + 1 1 1 - 1 + + ++ - ++
V41 + + + + + 1 1 1 1 1 + ++ + ++ +
V42 + + + + + 1 1 1 1 1 ++ ++ ++ ++ ++
V47 + + + + + 1 1 1 1 1 ++ ++ ++ ++ ++
V48 + + + + + 1 1 1 1 1 + + ++ + ++
V49 + + + + + 1 1 1 1 1 + ++ + ++ ++
Ghi chú: Sâu hại đánh giá theo mức độ, trong đó: nhẹ (+): < 20 con/m2; trung bình (++): 20 - 40 con/m2; nặng (+++):
> 40 con/m2; Rầy/ rệp đánh giá theo cấp, trong đó cấp 1: xuất hiện rải rác trên cây; cấp 2: xuất hiện dưới 1/3 diện tích
cây; cấp 3: xuất hiện trên 1/3 diện tích cây; Bệnh héo rũ đánh giá theo mức độ nhiễm: nhẹ (+): 2,5 - 5%; trung bình (++):
5 - 10%; nặng (+++): > 10 %; (-): không xuất hiện sâu/ bệnh.
35
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
3.7. Chất lượng của giống Alfalfa AF1
Hàm lượng chất khô của giống AF1 đạt 20,0%,
hàm lượng protein đạt 23,5%; hàm lượng chất xơ là
25,2%. Bên cạnh các chỉ tiêu về tỷ lệ chất khô, hàm
lượng protein và xơ thô, người chăn nuôi còn đặc
biệt quan tâm đến chỉ tiêu NDF (Neutral Detergent
Fiber - chất xơ không tan trong dung dịch trung
tính) và ADF (acid detergent Fiber). Đây là hai chỉ
tiêu để ước lượng giá trị dinh dưỡng và mức độ hấp
thụ thức ăn của gia súc. Các chỉ số của giống AF1 lần
lượt là: NDF: 40,6%; ADF: 31,9% so với một số loại
cỏ chăn nuôi khác như: Ryegrass có chỉ số NDF và
ADF lần lượt là 51,1% và 26,5%; Sudangrass có chỉ
số NDF: 67,7% và ADF: 37,4%.
Bảng 4. Thành phần hóa học (%)
của giống Alfalfa AF1
Tên giống Chất khô
% trên chất khô
Protein Chất xơ NDF ADF
V48 (AF1) 20,0 23,5 25,2 40,6 31,9
V9 20,0 25,5 24,5 38,5 27,6
V49 20,3 22,5 18,4 39,5 29,8
V35 20,8 24,2 19,8 35,9 24,8
Như vậy, giống Alfalfa AF1 vừa có hàm lượng
protien cao vừa có giá trị dinh dưỡng cao. Khảo
sát của Alfalfa Research Alliance, Hoa Kỳ cho
thấy các protein quan trọng như Arginin, Lysin,
Thyrosin,Theronin và Tryptophan đều được tìm
thấy trong cây Alfalfa. Các nhà khoa học còn phát
hiện ngoài các loại Vitamin A, B, D, E; khoáng tố Ca,
Fe, Mg, P, Cl, Na, K, Si, Mn... và protein trong cây
Alfalfa còn có các thành phần như: các acid amin,
Betacaroten, acid hữu cơ, Ancaloid, Fitoleid... Tất cả
12 acid amin không thay thế đều có hàm lượng khá
cao trong Alfalfa. Điều đó cho ta thấy vì sao Alfalfa
được suy tôn là “nữ hoàng cỏ khô”.
3.8. Xây dựng mô hình trình diễn
Kết quả đánh giá mô hình áp dụng giống AF1, qui
trình kỹ thuật canh tác alfalfa tại Nghệ An, Thanh
Hoá, Hải Dương và Đồng Nai trong các năm 2017
- 2018 cho thấy giống Alfalfa AF1 có thời gian nảy
mầm từ 3 ngày đến 4 ngày sau gieo; chiều cao cây
trung bình của các lần cắt dao động từ 54,7 cm đến
59,3 cm; số cành/cây dao động từ 24,8 cành đến 26,3
cành; số cành tái sinh trung bình/khóm dao động từ
42,6 cành đến 51,3 cành; tổng năng suất chất xanh
6 lần cắt dao động 62,21 tấn đến 78,04 tấn; tổng năng
suất khô dao động từ 15,37 tấn đến 18,14 tấn. Tại các
mô hình, giống Alfalfa AF1 có sức sinh trưởng khỏe,
ít xuất hiện sâu bệnh hại nhưng gặp điều kiện bất
thuận (nhiệt độ cao kéo dài, ngập úng kéo dài) sẽ
làm cho cây sinh trưởng phát triển kém và có thể gây
chết. Hiệu quả kinh tế các mô hình sản xuất Alfalfa
AF1 đem lại thu nhập trên 60 triệu đồng/ha/năm.
IV. KẾT LUẬN
Đã tuyển chọn được 6 giống Alfalfa có triển vọng
là: V35, V39, V41, V47, V48, V49, công nhận cấp cơ
sở giống AF1 và được Cục trưởng Cục trồng trọt - Bộ
Nông nghiệp & PTNT khuyến cáo mở rộng sản xuất.
Giống Alfalfa AF1 có dạng cây bụi, thân và các
cành nhánh mọc thẳng, có màu xanh. Lá của cây là
lá kép có 3 lá chét, màu xanh đậm, hình bầu dục với
mặt trên mịn, mặt dưới hơi có lông. Hoa màu tím
nhạt, mỗi cành/ thân chính có từ 6 - 7 chùm hoa,
mỗi chùm có từ 5 - 25 hoa. Quả xoắn cuộn hình
vành khuyên, chứa 2 - 6 hạt, quả non có màu xanh,
chín có màu nâu. Giống AF1 cho năng suất cao hơn
các giống khác có ý nghĩa. AF1 có năng suất chất
xanh đạt cao nhất là 81,58 tấn/ha/năm, hàm lượng
Protein 23,5%, hàm lượng chất xơ 25,2%, tỷ lệ chất
khô 20,0%.
Tại các mô hình trình diễn giống AF1 sinh
trưởng phát triển khá tốt, ít sâu bệnh. tổng năng suất
chất xanh 6 lần cắt dao động 62,21 tấn đến 78,04
tấn; tổng năng suất khô dao động từ 15,37 tấn đến
18,14 tấn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đinh Văn Bình và ctv., 1980. Nhận xét bước đầu về
khả năng gây trồng một số cây bộ đậu làm thức ăn
gia súc. Kết quả nghiên cứu khoa học chăn nuôi,
phần nghiên cứu cơ bản và thức ăn gia súc. Viện
Chăn nuôi.
Bộ Khoa học và Công nghệ, 1993. TCVN 4329:1993.
Tiêu chuẩn Việt Nam về thức ăn chăn nuôi - phương
pháp xác định hàm lượng xơ thô.
Bộ Khoa học và Công nghệ, 2001. TCVN 4328:2001.
Tiêu chuẩn Việt Nam về thức ăn chăn nuôi - xác
định hàm lượng nitơ và tính hàm lượng protein thô
- phương pháp Kjeldahl.
Bộ Khoa học và Công nghệ, 2001. TCVN 4331:2001.
Tiêu chuẩn Việt Nam về thức ăn chăn nuôi - Xác
định hàm lượng chất béo.
Bộ Khoa học và Công nghệ, 2013. TCVN 9589:2013
(ISO 13906:2008). Tiêu chuẩn quốc gia về Thức
ăn chăn nuôi - Xác định hàm lượng xơ xử lý bằng
chất tẩy axit (ADF) và lignin xử lý bằng chất tẩy
axit (ADL).
Thái Đình Dũng và Đặng Đình Liệu, 1979. Đồng cỏ
nhiệt đới. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ket_qua_tuyen_chon_giong_alfalfa_af1.pdf