Tất cả các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
đều có khuyết xương ít hoặc nhiều,tỉ lệ khuyêt 2-5cm
chiều dài thân xương tương đối cao (46,51%); một
ổ khuyết xương thực sự, một khoảng trống sau khi
ghép khung xương nhân tạo vào (không phải tổ chức
sống), đã đạt liền xương; hơn nữa với tỉ lệ cao, đây là
kết quả tốt, phương pháp điều trị này đạt được mục
đích liền xương với hiệu quả cao.
- Sự dung nạp của cơ thể với hỗn hợp xương nhân
tạo và tủy xương tự thân, khi ghép vào cho các bệnh
nhân theo chúng tôi là rất tốt, thể hiện trên lâm sàng
không có biểu hiện của phản ứng viêm hoại tử tổ chức,
các bệnh nhân của chúng tôi đều đạt liền xương, tại
chỗ không viêm tấy. Chúng tôi đánh giá kết quả xét
nghiệm máu cho 18 bệnh nhân sau ghép tại thời điểm
tối thiểu 14 tháng, bằng các xét nghiệm: Số lượng và
công thức bạch cầu, nồng độ CRP (Protein C phản
ứng) đều nằm trong giới hạn bình thường (bảng 3.4).
- Khi so sánh hình ảnh vi thể tổ chức can xương
sau ghép với tổ chức xương lành lân cận của chính
bệnh nhân đó, chúng tôi không thấy có sự khác biệt
về hình ảnh cũng như cấu trúc; khi so sánh cấu trúc
hai mẫu xương ta thấy đường kính lòng ống havers,
kích thước hệ thống havers cũng như số lượng tế
bào đếm được trên một vi trương và mật độ xương
của hai mẫu xương là như nhau (bảng 3.1; 3.2; 3.3).
Chúng cũng đều là tổ chức xương bình thường, có
các lá xương, bè xương phát triển, tế bào xương nằm
trong bè xương, tạo thành hệ thống havers đặc trưng
của tổ chức xương mà không thể nhầm lẫn với các tổ
chức khác [5], [7].
- Đặc biệt khi nghiên cứu các mẫu xương trên
kính hiển vi điện tử, ta bắt gặp đầy đủ các thành phần
cấu trúc của một tổ chức xương đang sống: Có các tế
bào xương nằm trong ổ xương với các bào quan bên
trong (hình 3.11, 3.12), hệ thống havers đặc với các
lá xương đồng tâm xung quanh ống havers, hệ thống
mạch nuôi xương từ bề mặt tiến vào tổ chức, đặc biệt
hệ thống sợi collagen với các vân sáng tối xen kẽ
nhau đặc trưng của xương (hình 3.5, 3.13).
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
9 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 36 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng đồng hóa tổ chức xương, sau ghép xương nhân tạo và dịch tủy xương tự thân điều trị khớp giả xương dài chi dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
234
Phản biện khoa học: PGS. TS. Nguyễn Văn Thạch
KHả NăNG đỒNG HÓA TỔ CHỨC XƯƠNG, sAu GHÉP 
XƯƠNG NHÂN TẠO VÀ dỊCH TỦY XƯƠNG TỰ THÂN 
đIều TRỊ KHỚP GIả XƯƠNG dÀI CHI dƯỚI
 Vũ Văn Khoa, 
Nguyễn Xuân Thùy
Khoa CTCH II, BV Việt Đức
Email: 
drkhoa20@yahoo.com.vn
Ngày nhận: 10 - 9 - 2014
Ngày phản biện: 22 - 9 -2014
Ngày in: 08 - 10 - 2014
Vu Van Khoa, 
Nguyen Xuan Thuy
summAry
From March 2010 to oct 2011, 43 patients with nonunions, pseudarthrosis of tibia and 
femur shaft bone were treated with internal fixation, autologous bone marrow and 
artificial bone grafting in Institute of Orthopaedic and Trauma surgery, VietDuc Hospital, 
with at least 12 months follow-up. Bone union was obtained in 40/43 of patients (93%) 
at an average of 8 ±2,93 months (range, 4-16 months). We have remove the means of 
internal fixation in 16 cases union based on clinical and XQ, taking bone fragments 
in bone healing research the structure of the organization histopathology. Results 
showed that bone tissue be structured similar to normal bone tissue, that demonstrate 
the effectiveness of treatment of nonunion of long bone treated with internal fixation, 
autologous bone marrow and artificial bone grafting. This method is safe and for best 
results. Key words: nonunions, Pseudarthrosis, bone marrow, artificial bone graft, 
structure of bone healing.
Töø 03/ 2010 ñeán 08/2011, taïi Vieän Chaán thöông Chænh hình, BV Vieät Ñöùc, 43 beänh 
nhaân khôùp giaû xöông daøi chi döôùi ñöôïc keát hôïp xöông beân trong, gheùp dòch tuûy xöông 
töï thaân vaø xöông nhaân taïo, theo doõi toái thieåu 12 thaùng. Tyû leä lieàn xöông 93% (40/43 
beänh nhaân) vôùi thôøi gian trung bình 8 ± 2,93 thaùng (4-16 thaùng). Chuùng toâi thaùo phöông 
tieän keát xöông cho 16 beänh nhaân ñaõ lieàn xöông sau gheùp döïa treân laâm saøng vaø XQ, 
laáy maûnh xöông taïi oå can xöông nghieân cöùu caáu truùc moâ beänh hoïc cuûa toå chöùc xöông 
sau gheùp xöông nhaân taïo vaø tuûy xöông töï thaân. Keát quaû cho thaáy moâ can xöông coù caáu 
truùc gioáng vôùi moâ xöông bình thöôøng. Keát quaû naøy minh chöùng theâm cho hieäu quaû cuûa 
phöông phaùp ñieàu trò khôùp giaû xöông daøi baèng gheùp xöông nhaân taïo vaø tuûy xöông töï 
thaân. Ñaây laø moät phöông phaùp an toaøn, cho keát quaû toát. Töø khoaù: khôùp giaû, khoâng lieàn 
xöông, tuyû xöông, xöông nhaân taïo.
Tóm TắT
1. ĐặT VấN Đề: 
Khớp giả, không liền thân xương dài là một di 
chứng thường gặp trong điều trị gãy xương, do những 
nguyên nhân cơ học và sinh học khác nhau. Khi điều 
trị các tác giả thường kết hợp xương vững chắc phối 
hợp với ghép xương để đạt được hai nguyên tắc cơ bản 
là cố định tốt ổ khớp giả và kích thích liền xương. Để 
kích thích liền xương, ghép xương xốp tự thân là tiêu 
chuẩn vàng tuy nhiên có thể để lại những biến chứng 
nơi lấy xương như đau, nhiễm khuẩn, tổn thương 
các nhánh thần kinhvà không đủ chất liệu trong 
các khuyết hổng lớn, để lại sẹo; Các xương nhân tạo 
là một chất liệu có tính dẫn xương, chúng như một 
khung đỡ có tác dụng lấp đầy ổ khuyết xương, tạo 
điều kiện cho các tế bào xương phát triển, tuy nhiên 
chúng lại thiếu các tế bào tạo xương. Tủy xương tự 
thân có nguồn tế bào gốc và tiền thân tạo xương dồi 
dào [2], [4]. Tủy xương tự thân trộn với xương nhân 
tạo sẽ cho một chất liệu ghép có đủ những ưu điểm 
của một xương xốp tự thân: Có tính cảm ứng xương, 
có tính dẫn xương, có các tế bào tạo xương và khắc 
phục được những nhược điểm khi lấy xương xốp tự 
thân, khối lượng vật liệu lại không hạn chế với các 
khuyết hổng xương lớn. Tiedeman và cộng sự thấy 
phức hợp tủy xương- xương khử khoáng cho kết quả 
tương đương với ghép xương xốp tự thân khi mở ổ 
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
235
gãy [ 2], [8]. Năm 1998, Lane và cộng sự đã gây ấn tượng 
mạnh khi ghép phức hợp BMP và tủy xương tự thân điều 
trị cho 68 trường hợp có khuyết hổng xương lớn cho kết 
quả liền 100%[8]. 
Tại Việt nam, điều trị khớp giả bằng ghép tế bào gốc 
tủy xương được Nguyễn Mạnh Khánh thực hiện [2], điều 
trị khớp giả bằng ghép xương nhân tạo được Phạm Đăng 
Ninh thực hiện [3], chưa có tác giả nào điều trị khớp giả 
xương dài bằng ghép hỗn hợp xương nhân tạo và tủy 
xương tự thân. Đặc biệt chưa có tác giả nào nghiên cứu 
cấu trúc khối can xương sau nghép xương vào ổ khớp giả 
nhằm đánh giá sự đồng hóa của tổ chức sau ghép. Xuất 
phát từ thực tiễn như vậy, chúng tôi tiến hành đề tài: “Khả 
năng đồng hóa tổ chức xương sau ghép xương nhân tạo và 
tủy xương tự thân điều trị khớp giả xương dài chi dưới” 
với hai mục đích:
- Đánh giá hiệu quả phương pháp điều trị khớp giả 
thân xương dài bằng ghép xương nhân tạo và tủy xương 
tự thân.
- Bước đầu nghiên cứu cấu trúc mô học khối can xương 
tại ổ khớp giả của bệnh nhân sau khi ghép hỗn hợp xương 
nhân tạo và tủy xương tự thân.
2. ĐốI TƯợNG Và PHƯơNG PHáP 
NGHIêN CỨU:
Nghiên cứu của chúng tôi gồm 2 quy trình tương ứng 
với 2 mục tiêu; để tiện cho việc theo dõi, phần đối tượng 
và phương pháp nghiên cứu chúng tôi tách làm 2 phần 
tương ứng với 2 mục tiêu.
2.1 Đánh giá hiệu quả của phương pháp điều trị 
khớp giả thân xương dài bằng ghép xương nhân tạo và 
dịch tủy xương tự thân.
Đối tượng nghiên cứu: 43 bệnh nhân, gồm có 39 bệnh 
nhân khớp giả, không liền xương chày, 4 khớp giả xương 
đùi, điều trị tại viện chấn thương chỉnh hình, bệnh viện 
Việt Đức từ tháng 04/2010 đến 07/2011.
Phương pháp nghiên cứu:
- Chuẩn bị bệnh nhân, phương tiện KHX, kim lấy tủy.
- Chuẩn bị xương nhân tạo: Chúng tôi dùng xương 
Master- Graft của hãng Metronic: Đây là xương tổng 
hợp gồm 15% hydroxyapatite( HA) và 85% β- tricalcium 
phosphate(β-TCP) , có dạng hạt xốp cấu trúc rỗng chiếm 
khoảng 80% không gian của khối, các lỗ rỗng đường kính 
khoảng 500µm, các lỗ này liên kết nhau bởi các lỗ liên kết 
có đường kính khoảng 125µm[6], tạo môi trường thuận 
lợi cho các tế bào xương phát triển.
- Phẫu thuật KHX: Bệnh nhân sau khi được vô cảm đặt 
ở tư thế nằm ngửa, tiến hành phẫu thuật bộc lộ ổ khớp giả, 
tháo dụng cụ KHX cũ nếu có và không đủ vững, lấy hết 
xơ ổ khớp giả và làm mới ổ gãy, thông ống tủy. Kết hợp 
xương ổ gãy bằng phương tiện KHX bên trong, nẹp vít, 
đinh nội tủy có chốt hoặc không có chốt tùy trường hợp 
cụ thể.
- Ghép xương nhân tạo vào ổ khuyết xương sau khi đã 
được KHX.
- Ghép tủy xương tự thân sau khi đã ghép xương nhân 
tạo: Dùng kim chọc tủy đường kính 2.0mm, chọc vào cánh 
chậu qua gai chậu trước trên. Lấy máu tủy xương, bơm 
trực tiếp dịch tủy lấy được vào ổ khuyết xương đã được 
ghép xương nhân tạo.
- Cầm máu, đóng vết mổ.
- Theo dõi sau mổ:
+ Lâm sàng: Tình trạng toàn thân, vết mổ, chỗ lấy tủy, 
dẫn lưu( nếu có), khả năng vận động đi lại sau mổ.
+ XQ kiểm tra sau mổ. Mức độ can xương được đánh 
giá theo thang điểm của Lieberman tuỳ theo sự hình thành 
xương mới qua ổ gãy: độ 1 = 0-25%, độ 2 = 26-50%, độ 
3 = 51-75%, độ 4 = 76-99% hay can 3/4 thành xương, độ 
5 = 100% hay can toàn bộ thành xương. Liền xương khi 
có hình ảnh can xương ít nhất 3/4 thành xương trên phim 
thẳng và nghiêng (độ 4 và 5). 
- Kết quả điều trị được đánh giá là có liền xương hay 
không đạt liền xương:
+ Liền xương: Can xương ổ khớp giả độ 4,5 theo 
Lieberman
+ Không liền xương: Sau mổ 6 tháng không có can 
xương hoặc chụp 3 lần liên tiếp nhau cách nhau 1 tháng 
mà không thấy can xương tiến triển thêm.
- Tổng kết, xử lý số liệu, đánh giá kết quả, viết báo cáo.
2.2 Nghiên cứu cấu trúc mô học khối can xương tại 
ổ khớp giả sau khi ghép xương nhân tạo và dịch tủy 
xương tự thân.
 Đối tượng nghiên cứu. Mười sáu cặp mẫu bệnh phẩm 
xương của 16 bệnh nhân khớp giả sau khi được ghép 
xương nhân tạo và dịch tủy xương tự thân, đã liền xương 
trên lâm sàng và XQ. Khi tháo phương tiện kết xương 
chúng tôi tiến hành sinh thiết xương tại vị trí ổ khớp giả cũ 
(mẫu can xương) và vị trí xương lành lân cận ngoài ổ khớp 
giả (mẫu xương chứng). Các cặp mẫu này được nghiên 
cứu đánh giá, so sánh cấu trúc với nhau.
 Phương pháp nghiên cứu: 
- Nghiên cứu vi cấu trúc các mẫu can xương và mẫu 
xương chứng trên kính hiển vi quang học, độ phóng đại 
100- 400 lần. 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
236
- Nghiên cứu siêu cấu trúc các mẫu can xương và 
mẫu xương chứng trên kính hiển vi điện tử quét và hiển 
vi điện tử truyền qua ở độ phóng đại 75- 35000 lần.
3. KếT QUẢ NGHIêN CỨU.
3.1. Đặc điểm nhóm đối tượng nghiên cứu và 
kết quả liền xương.
- Nhóm nghiên gồm 43 bệnh nhân với 43 khớp 
giả xương dài chi dưới (39 xương chày, 4 xương 
đùi), có 28 nam (65,12%), 15 nữ (34,88%); tuổi 34,4 
± 13,00 (18-74 tuổi).
- Nguyên nhân gãy xương: TNGT: 32BN 
(74,42%), TNLĐ: 6 bệnh nhân (13,95%), TNSH: 5 
bệnh nhân (11,63%)
- Phân loại gãy xương ban đầu: Có 11 ổ gãy kín 
(25,58%); còn lại 32 ổ gãy hở (74,42%). Trong đó có 
37,21% là gãy hở độ III.
- Số lần phẫu thuật: Có 43 bệnh nhân với 42 ổ gãy 
đã từng phẫu thuật, trong đó: mổ 1 lần (33 BN), mổ 
2 lần (05 BN), mổ 3 lần (01 BN), mổ 4 lần (01 BN), 
mổ 5 lần (01BN) và mổ 6 lần (01BN). Trong đó có 3 
bệnh nhân đã được điều trị khớp giả bằng nẹp vít và 
ghép xương chậu sau đó gãy nẹp tạo khớp giả.
- Có 31 bệnh nhân khớp giả vô khuẩn (72,09%), 12 
BN có tiền sử NK (đã ổn định > 6 tháng) (27,91%)
- Khuyết xươngổ khớp giả: Khuyết 1-2cm chiều dài 
xương có 21 ổ KG (48,83%), khuyết nhiều 2-5cm có 
20 ổ KG (46,51%), khuyết > 5cm: có 1 ổ KG (2,33%), 
chỉ có 1 ổ KG khuyết xương ít < 1cm (2,33%)
- Phương tiện kết xương: ĐNT 25 (58,14%), nẹp 
vít 18 (41,84%).
- Thể tích dịch tủy xương ghép vào: 20,8 ± 4,35ml 
(10-30ml).
- Khối lượng xương nhân tạo ghép vào: 10,53 ± 
3,19cm3 (5-20cm3)
- Diễn biến tại nơi lấy dịch tuỷ xương (n=43): 
Không trường hợp nào có biến chứng: Máu tụ, nhiễm 
khuẩn, gãy xương, tổn thương mạch máu, thần kinh 
hoặc đau kéo dài tại nơi lấy dịch tuỷ xương.
- Biến chứng sau mổ (n=43): Theo dõi sau mổ, 
chúng tôi không gặp trường hợp nào bị chảy máu, hội 
chứng chèn ép khoang, gãy xương hay tổn thương 
mạch máu, thần kinh. Có 1 bệnh nhân nhiễm trùng, 
viêm rò sau mổ; 1 BN chậm liền bong nẹp phải mổ 
lại; 1 BN gãy nẹp sau mổ phải mổ lại.
- Diễn biến toàn thân sau mổ (n=43): Tất cả 43 
bệnh nhân đều diễn biến bình thường, không có 
trường hợp nào bị tụt huyết áp, sốc hay bị phản ứng 
sốt sau ghép. 
- Kết quả liền xương: Có 40/43 khớp giả liền 
xương, đạt tỷ lệ 93,02%.
- Thời gian liền xương trong nhóm nghiên cứu 
(n=40): 7,98± 2,93 tháng (4-16 tháng),
3.2 Cấu trúc mô học khối can xương sau khi 
ghép xương nhân tạo và tủy xương.
3.4.1. Cấu trúc vi thể các mẫu xương.
So sánh hình ảnh vi thể của các mẫu can xương và 
các mẫu xương chứng cho thấy chúng đều có cấu trúc 
của một xương Havers đặc hoặc xốp với hệ thống các 
lá xương bè xương phát triển, các tế bào xương nằm 
trong các lá xương.
Hình 3.1. Hình ảnh vi thể của 
tổ chức xương tại ổ khớp giả 
của một số bệnh nhân sau 
khi ghép xương nhân tạo và 
tủy xương tự thân đạt liền 
xương trên lâm sàng và XQ. 
A, B: Hình ảnh các lá xương 
xếp song song nhau trên các 
lát cắt dọc thân xương; C, 
D: Hình ảnh hệ thống xương 
Havers với các tiêu bản cắt 
ngang qua thân xương.
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
237
- Đo đường kính ống Havers, đường kính hệ thống 
Havers toàn vẹn:
Bảng 3.1 So sánh kích thước ống Havers và hệ thống 
Havers của “mẫu can xương” và “ mẫu xương chứng”.
Chæ soá
Maãu can 
xöông 
(n=160)
Maãu xöông 
chöùng 
(n= 160)
P
ÑK loøng oáng 
Havers toaøn veïn 
( X ± 2SD) µm
50,2 ± 6,48 53,6 ± 7,63
p> 
0,05
ÑK heä thoáng 
Havers toaøn veïn 
(X ± 2SD) µm
94,9 ± 
12,36
101,76 ± 
14,08
p> 
0,05
Bảng 3.2. Số tế bào xương trung bình trên 1 vi trường 
của các bệnh nhân (n=16).
Maãu can xöông
Maãu xöông 
chöùng
Soá TB Trung bình 40,8 ± 2,69 41,6 ± 2,52
t = 0,9421 0,05
Kết quả tại bảng trên cho thấy số lượng tế bào xương 
của mẫu can xương và mẫu xương chứng không có sự 
khác biệt.
- Mật độ xương trên một vi trường.
Bảng 3.3 So sánh mật độ xương trung bình của mẫu 
can xương và mẫu xương chứng của các bệnh nhân 
(n=16)
Maãu can 
xöông
Maãu xöông 
chöùng
Maät ñoä xöông TB (%) 84,8 ± 3,02 86,2 ± 2,13
t= 1,64 0,05 
Kết quả tại bảng trên cho thấy, mật độ xương trung bình 
của mẫu can xương nhỏ hơn của mẫu xương chứng nhưng 
sự khác biệt nhau không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.4.2. Cấu trúc siêu vi thể các mẫu can xương tại ổ 
khớp giả sau ghép.
3.4.2.1 Trên kính hiển vi điện tử quét.
- Trên toàn bộ các mẫu xương được khử khoáng (pha 
hữu cơ): Chúng tôi thấy được, cấu trúc mô xương gồm 
các lá, các bè xương tạo thành cấu trúc Havers của xương 
đặc hoặc xốp. Cấu trúc Havers đặc là các lá xương đồng 
tâm quây quanh ống Havers, cấu trúc Havers xốp là các 
lá xương thưa thớt ngăn cách nhau, tạo thành các hốc 
(hình 3.4)
 Hình 3.3 Cấu trúc xương havers đặc và xốp của tổ 
chức can xương tại ổ khớp giả – Kính HVĐT quét. 
1,2: Các lá xương đồng tâm xếp thành hệ thống 
Havers của xương đặc, 3,4: Các lá xương tạo thành 
hệ thống xương xốp * Nguồn: Tư liệu trong nhóm 
nghiên cứu của tác giả
Quan sát được các ổ tế bào xương, các tiểu quản xương 
đi từ thành ổ xương vào thành các lá xương để liên hệ 
với nhau.
Hình 3.2: Cấu trúc xương bình 
thường của bệnh nhân thứ nhất, 
lấy ngoài ổ khớp giả. C1, C2: 
Hình ảnh các lá xương xếp song 
song nhau với khoảng tủy chứa 
mỡ khi cắt dọc thân xương; C3, 
C4: Các hệ thống Havers xếp 
đan xen nhau của tổ chức xương 
đặc khi cắt ngang thân xương.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
238
Hình 3.4 Các ổ tế bào xương tìm thấy trong tổ chức xương tại ổ khớp giả sau 
khi ghép xương nhân tạo và tủy xương tự thân đã liền xương trên lâm sàng 
và XQ. 8: Các ổ tế bào xương bên cạnh hệ thống Havers; 9: Hình ảnh ổ tế 
bào xương với các vi quản xương. 
Trên bề mặt mẫu xương ở độ phóng đại 500 lần 
trở lên, thấy sợi collagen phát triển đan xen nhau tạo 
thành từng bó, theo hướng nhất định ; trên đường đi 
của mình các bó có thể phân nhánh hay tách ra các sợi 
liên kết với các bó lân cận ( hình 3.5 C). Ở độ phóng 
đại 30.000-35.000 lần, thấy cấu trúc sợi collagen của 
xương là các sợi có các vân sáng tối xen kẽ, tạo thành 
các bó chạy song song nhau, các bó này lại có các sợi 
liên kết chặt chẽ nhau( hình 3.5 D)
Hình 3.5 Cấu trúc sợi collagen của tổ chức can xương: C: Cac bó sợi collagen và 
các sợi liên kết giữa các bó ở độ phóng đại 20.000- 35.000 lần, D: Các sợi collagen 
với các vân sáng tối rõ rệt, ở độ phóng đại 35.000 lần.
Trên bề mặt xương còn quan sát được các nhánh mạch đi vào nuôi xương.
Hình 3.6 Hình ảnh mạch máu tân tạo xâm nhập vào mô xương
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
239
- Trên các mẫu được khử hữu cơ (pha khoáng):
Trên các mặt cắt ngang quan sát được cấu trúc xương 
gồm các hệ thống Havers toàn vẹn và hệ thống Havers 
trung gian, các lá xương sắp xếp thành các vòng tròn đồng 
tâm quây quanh ống Havers, ở độ phóng đại 5000- 15000 
lần thấy được các hạt khoáng tạo thành các lá xương sáng 
và tối.
Hình 3.7: Vùng xương Havers đặc- mẫu xương đã khử hữu cơ. A: Hệ 
thống Havers toàn vẹn bên cạnh là hệ thống Havers không toàn vẹn- độ 
phóng đại 200 lần; B- Các lá xương sáng và tối xen kẽ nhau thuộc hệ 
thống Havers (HVĐTQ x 15000)
Chúng tôi nhận thấy ở các bề mặt tự nhiên của xương 
xác định được 3 vùng có hình thái cấu trúc khác nhau nằm 
xen kẽ nhau: Vùng xương đã hình thành; vùng xương đang 
hình thành và vùng phá huỷ xương. 
Vùng xương đã hình thành các tinh thể khoáng lấp đầy 
lòng sợi collagen và khoảng không gian giữa các sợi. Quan 
sát trên kính hiển vi điện tử quét, thấy bề mặt khoáng hoá 
của xương giống hình ảnh các dải sợi sắp xếp có hướng 
theo hướng đi của các sợi collagen. Chúng tôi cũng quan 
sát thấy các ổ xương với nhiều hình dạng khác nhau: hình 
tròn, hình ovan, hình đa giác. Đáy ổ xương có các miệng 
lỗ tiểu quản xương đi ra, (hình 3.8).
Hình 3.8: Vùng xương đã hình thành, mẫu xương đã khử hữu cơ. 
A: Ổ xương với các tiểu quản xương (HVĐTQ, x 5000). B: Các tinh 
thể khoáng sắp xếp thành các dải sợi (HVĐTQx500)
Ở vùng xương đang hình thành các hạt khoáng có kích thước to, nhỏ không đều, nằm cách xa nhau và sắp xếp lôn 
xộn, không theo một hướng nhất định. 
Hình 3.9: Vùng xương đang hình thành: Các hạt 
khoáng to nhỏ không đều, sắp xếp lộn xộn.
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
240
Tại vùng phá huỷ xương thấy các hốc lõm dạng 
tổ ong, với các bờ viền rõ nét phù hợp với diềm bàn 
chải của huỷ cốt bào cắm sâu vào xương trong quá 
trình huỷ xương. Trên nền phá huỷ xương bắt gặp 
những vùng ổ xương mà thành ổ xương đã bị phá 
huỷ, chỉ còn lại đáy ổ xương với các miệng lỗ tiểu 
quản xương (hình 3.10).
Hình 3.10: Vùng phá huỷ xương: Bề mặt phá 
huỷ xương; Đáy ổ xương với các tiểu quản 
xương đi ra (HVĐTQ, x 1000).
3.4.2.2 Trên kính HVĐT truyền qua.
Khi nghiên cứu các mẫu xương trên kính hiển vi 
điện tử truyền qua, ở tất cả các mẫu xương, chúng tôi 
quan sát thấy các ổ xương, chủ yếu có dạng hình tròn 
hoặc hình ovan. Từ thành ổ xương có các tiểu quản 
xương đi ra các lá xương. 
Hình 3.11 Hình ảnh thu được khi nghiên cứu các 
mẫu xương tại ổ khớp giả sau khi ghép xương 
nhân tạo và tủy xương tự thân đã liền xương 
bằng kính HVĐT truyền qua: A,B: Ổ xương với 
các tiểu quản xương đi ra từ ổ xương, các tế bào 
xương nằm trong ổ xương với các nhánh bào 
tương nằm trong tiểu quản xương.
Trong các ổ xương có các tế bào xương. Thành 
ổ xương được ngăn cách với tế bào xương bằng một 
khoảng không. Các tế bào xương có nhiều nhánh bào 
tương, các nhánh bào tương xuất phát từ thân tế bào 
đi ra các tiểu quản xương. Chúng tôi cũng quan sát 
thấy rõ hình ảnh nhân tế bào. Đồng thời, chúng tôi 
cũng quan sát được hình ảnh lưới nội bào nằm ở phần 
bào tương cạnh màng ngoài nhân của tế bào xương, 
và bộ golgi trong bào tương.
Hình 3.12 Hình ảnh thu được khi nghiên cứu các 
mẫu xương tại ổ khớp giả sau khi ghép xương 
nhân tạo và tủy xương tự thân đã liền xương 
bằng kính HVĐT truyền qua. 1: Hệ thống lưới 
nội bào.
Trên các mẫu tiêu bản chúng tôi nhận thấy, 
collagen xương tập trung thành từng bó, các sợi trong 
cùng một bó liên kết chặt chẽ với nhau và được sắp 
xếp theo một hướng nhất định. Trong khi đó, các bó 
sợi collagen lại đi theo nhiều hướng khác nhau. Quan 
sát được các vân sáng, vân tối dọc theo suốt chiều dài 
của sợi collagen (hình 3.21). Không thấy hiện tượng 
trương phồng, đứt đoạn hoặc biến dạng các sợi
Hình 3.13 Hình ảnh thu được khi nghiên cứu 
các mẫu xương tại ổ khớp giả sau khi ghép 
xương nhân tạo và tủy xương tự thân đã liền 
xương bằng kính HVĐT truyền qua. A: Hình 
ảnh các sợi collagen với các vân sáng tối, xếp 
song song nhau thành bó; B: Hình ảnh bó sợi 
collagen cắt ngang với các sợi collagen liên kết 
trong bó đi theo hướng khác.
3.4.3. Xét nghiệm số lượng và công thức bạch 
cầu, nồng độ CRP trong máu của một số bệnh nhân 
tại thời điểm xa sau ghép.
Phần 3: Phẫu thuật chấn thương chung
241
Bảng 3.4 Kết quả xét nghiệm máu một số bệnh nhân sau mổ > 1 năm (n=18)
Thöù töï bn
Soálöôïng 
baïch caàu
BC haït 
trung tính
Lymphoxit Monoxit Öa axit Öa Bazo
Noàng ñoä 
CRP
1 6,63 74,9 15,7 5,6 3,6 0,2 0,17
2 5,9 51,4 39,7 5,4 3,2 0,3 1,02
3 4,19 47,0 37,2 10,0 5,3 0,5 0,65
4 6,37 48,5 37,7 5,8 7,7 0,3 3,69
5 6,25 57,2 30,9 5,1 6,6 0,2 0,49
6 9,17 60,7 25,3 6,2 7,7 0,1 1,9
7 4,78 53,8 31,6 9,2 5,2 0,2 0,86
8 8,82 47,6 29,5 4,8 18,0 0,1 0,26
9 5,62 54,4 29,2 12,1 3,9 0,4 1,34
10 9,93 63,0 27,6 5,8 3,4 0,2 0,47
11 8,94 59,0 27,3 10,9 2,6 0,2 0,27
12 3,76 63,6 20,7 14,4 1,3 0 0,62
13 7,82 69,3 23,8 5,8 1,0 0,1 1,1
14 5,02 52,3 33,5 9,0 4,8 0,4 0,62
15 6,97 51,5 24,1 10,3 13,8 0,3
16 7,0 45,6 31,8 8,6 13,5 0,5
17 5,43 62,8 26,2 5,5 5,3 0,2 0,63
18 6,81 61,6 28,3 8,06 1,44 0,59 0,35
Qua bảng trên ta thấy, số lượng và công thức bạch cầu 
của các bệnh nhân sau mổ, tại thời điểm xa tối thiểu 14 
tháng trong giới hạn bình thường. Nồng độ Protein phản 
ứng ( CRP) nằm trong giới hạn bình thường ( < 10 mg/L).
4. BàN LUẬN: 
- Nhóm nghiên cứu gồm rất nhiều bệnh nhân nặng, 
nhiều nguy cơ dẫn đến khớp giả, không liền xương: Tỷ 
lệ gãy hở cao (32/43) đặc biệt có tới 37,8% gãy hở độ III. 
Hơn nữa nhóm bệnh nhân có tiền sử nhiễm trùng, viêm 
rò cao(12/43- 27,9%), có nhiều bệnh nhân đã mổ vài lần 
trước đó nạo viêm, lấy xương chết, có những BN mổ 5-6 
lần, đây là các nguy cơ tiền ẩn dễ dẫn đến không liền 
xương và thất bại trong điều trị; song kết quả chúng tôi đạt 
được liền xương 40/43 trường hợp đây là một kết quả tốt, 
cao hơn của Tiedeman và cộng sự liền xương 30/39 trường 
hợp khớp giả được ghép chất đệm xương khử khoáng và 
tủy xương tự thân [10]. (p= 0,05)
- Phương pháp điều trị này đạt được hai nguyên tác 
cơ bản là kết hợp xương vững và kích thích liền xương ổ 
khớp giả. Phương tiện kết hợp xương của chúng tôi dùng 
có thể là nẹp vít, đinh nội tủy có chốt hoặc không chốt tùy 
trường hợp cụ thể nhưng đảm bảo cố định vững được ổ 
khớp giả. Còn kích thích liền xương chúng tôi cho rằng 
chất liệu ghép của chúng tôi có đầy đủ các tính chất của 
một xương xốp tự thân, có tính dẫn xương nhờ vào cấu 
trúc xốp của xương nhân tạo đưa vào, thành phần cấu tạo 
của xương master graft gồm 85% α-TCP và 15% HA cấu 
trúc xốp của vật liệu tạo điều kiện rất thuận lợi để cho 
các tế bào tạo xương “làm tổ “, khối máu tủy xương đưa 
vào có nguồn tế bào tạo xương dồi dào và có chứa những 
hormon, các chất có tính cảm ứng, kích thích quá trình 
liền xương diễn ra thuận lợi. Hơn nữa tôi cho rằng phương 
pháp của chúng tôi giúp quá trình liền xương diễn ra phù 
hợp với quá trình liền xương sinh lý vì chúng tôi tạo lại 
được cục máu đông ổ gãy, mà vai trò của cục máu đông 
trong liền xương đã biết đến từ lâu như một yếu tố khởi 
phát quá trình liền xương sinh lý. Thực tế cho thấy quá 
trình liền xương của các bệnh nhân diễn ra rất thuận lợi, tỉ 
lệ liền xương của chúng tôi đạt 93%( 40/43), thời gian liền 
xương trong nhóm của chúng tôi là 8 ± 2,93 tháng(4-16 
tháng); tỉ lệ liền xương của chúng tôi cao hơn, thời gian 
liền xương của chúng tôi ngắn hơn của tác giả MC. Adrrew 
điều trị cho 43 bệnh nhân khớp giả hoặc khuyết xương dài 
bằng TCP không có tủy xương kèm theo, cho kết quả liền 
xương 85% sau 12 tháng, ngắn nhất 6 tháng[8].
- Sau mổ không có BN nào có biến chứng tại nơi lấy 
tủy: máu tụ, nhiễm khuẩn, tổn thương mạch máu, TK hay 
đau nơi lấy tủy. Đây là kết quả tốt, chúng tôi chỉ dùng kim 
nhỏ 2.0 chọc vào xương chậu để lấy dịch tủy không làm 
tổn thương tổ chức nhiều, nên không để lại di chứng như 
trường hợp mổ mở lấy mảnh xương chậu để ghép. Hoàng 
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ ĐẶC BIỆT - 2014
242
Văn Chiến điều trị khớp giả xương dài bằng ghép 
xương mào chậu, có nhiều BN đau kéo dài tại nơi lấy 
xương[1].
- Tất cả các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu 
đều có khuyết xương ít hoặc nhiều,tỉ lệ khuyêt 2-5cm 
chiều dài thân xương tương đối cao (46,51%); một 
ổ khuyết xương thực sự, một khoảng trống sau khi 
ghép khung xương nhân tạo vào (không phải tổ chức 
sống), đã đạt liền xương; hơn nữa với tỉ lệ cao, đây là 
kết quả tốt, phương pháp điều trị này đạt được mục 
đích liền xương với hiệu quả cao.
- Sự dung nạp của cơ thể với hỗn hợp xương nhân 
tạo và tủy xương tự thân, khi ghép vào cho các bệnh 
nhân theo chúng tôi là rất tốt, thể hiện trên lâm sàng 
không có biểu hiện của phản ứng viêm hoại tử tổ chức, 
các bệnh nhân của chúng tôi đều đạt liền xương, tại 
chỗ không viêm tấy. Chúng tôi đánh giá kết quả xét 
nghiệm máu cho 18 bệnh nhân sau ghép tại thời điểm 
tối thiểu 14 tháng, bằng các xét nghiệm: Số lượng và 
công thức bạch cầu, nồng độ CRP (Protein C phản 
ứng) đều nằm trong giới hạn bình thường (bảng 3.4).
- Khi so sánh hình ảnh vi thể tổ chức can xương 
sau ghép với tổ chức xương lành lân cận của chính 
bệnh nhân đó, chúng tôi không thấy có sự khác biệt 
về hình ảnh cũng như cấu trúc; khi so sánh cấu trúc 
hai mẫu xương ta thấy đường kính lòng ống havers, 
kích thước hệ thống havers cũng như số lượng tế 
bào đếm được trên một vi trương và mật độ xương 
của hai mẫu xương là như nhau (bảng 3.1; 3.2; 3.3). 
Chúng cũng đều là tổ chức xương bình thường, có 
các lá xương, bè xương phát triển, tế bào xương nằm 
trong bè xương, tạo thành hệ thống havers đặc trưng 
của tổ chức xương mà không thể nhầm lẫn với các tổ 
chức khác [5], [7]. 
- Đặc biệt khi nghiên cứu các mẫu xương trên 
kính hiển vi điện tử, ta bắt gặp đầy đủ các thành phần 
cấu trúc của một tổ chức xương đang sống: Có các tế 
bào xương nằm trong ổ xương với các bào quan bên 
trong (hình 3.11, 3.12), hệ thống havers đặc với các 
lá xương đồng tâm xung quanh ống havers, hệ thống 
mạch nuôi xương từ bề mặt tiến vào tổ chức, đặc biệt 
hệ thống sợi collagen với các vân sáng tối xen kẽ 
nhau đặc trưng của xương (hình 3.5, 3.13).
5. KếT LUẬN: 
- Nghiên cứu điều trị khớp giả xương dài chi dưới 
bằng ghép tủy xương tự thân và xương nhân tạo là 
phương pháp mới, bước đầu cho kết quả tốt. Hiệu 
quả liền xương cao.
- Tỉ lệ liền xương đạt 93% với thời gian 8 ± 2,93 
tháng.
- Tổ chức can xương sau ghép có cấu trúc giống 
với tổ chức xương bình thường của bệnh nhân.
- Không có hiện tượng thải ghép xảy ra với các 
bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu. Sự đồng hóa của tổ 
chức xương sau ghép diễn ra ở tất cả các bệnh nhân.
Tài liệu tham khảo
1.	 Hoàng	Văn	Chiến	 (2004), “Nghiên cứu điều trị khớp 
giả thân xương dài chi dưới sau chấn thương bằng kết 
xương nẹp vít và ghép xương tự thân”, Luận văn thạc sĩ 
y học, Trường Đại học Y Hà nội, Hà nội.
2.	 Nguyễn	Mạnh	Khánh	(2010), “ Nghiên cứu ứng dụng 
ghép tế bào gốc tủy xương tự thân điều trị chậm liền, 
khớp giả thân xương chày”, Luận án tốt nghiệp tiến sỹ y 
học- học viện quân y
3.	 Phạm	Đăng	Ninh	(2009),	“Nghiên cứu đánh giá độ an 
toàn và hiệu quả của xương nhân tạo nano trong điều 
trị chậm liền xương, khớp giả và khuyết hổng xương ở 
tứ chi” Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Học viện Quân y-bệnh 
viện 103, Hà nội.
4.	 Connolly	 J.F.,	 Guse	 R.,	 Tiedeman	 J.,	 Dehne	 R.	
(1991),	“Autologous marrow injection as a substitute for 
operative grafting of tibial nonunions”, Clin Orthop, 266, 
pp 259-270.
5.	 Einhorn	T.A.	(2005), “The science of fracture healing”, 
J Orthop Trauma, 19(10S), pp. S4-S6.
6.	 Medtronic	 Sofamor	 Danek	 USA,	 INC.	 (2002),	
"MasterGraft- Resorbable Ceramic Granules", www.
sofamordanek.com.
7.	 Meyrueis	 J.P.,(	 2004), “ Fracture healing”, EMC- 
Rhumatologie- Orthopedie, vol 1, pp 138- 162. 
8.	 Lane	 J.M.,	 Yasko	A.W.,	 (	 1998),” Bone marrow and 
recombinant human bone morphgenetic protein-2 in 
osseous repair”, Clinical orthopaedics and related 
reseach, nember 361,pp 216-227.
9.	 McAndrew,	 Mark	 P,	 Gorman,	 (1988), “ Tricalcium 
phosphate as a bone graft substitute in trauma: 
Preliminary report”, Journal of Orthropaedic Trauma, 
10.	 Tiedeman	 JJ,	 Connolly	 JF,	 Strates	 BS,	 Lippiello	
L	 (1995), "Treatment of nonunion by percutaneous 
injection of bone marrow and demineralized bone 
matrix", Clin Orthop, 268, pp 294-302.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
kha_nang_dong_hoa_to_chuc_xuong_sau_ghep_xuong_nhan_tao_va_d.pdf