Four common coral genera in culture conditions are Symphyllia, Plerogyra, Euphyllia and
Goniopora. They are long/large polyp stony corals, sexual and asexual reproduction. Except Symphyllia, the
three genera are aggressive towards the other marine aquarium invertebrates. All of the four coral genera
have 2 feeding modes: autotrophic mode through photosynthesis of symbiotic zooxanthellea and heterotrophic
mode including 3 ways: predatory prey capture by the polyps; sedimentary filter feeding using mucus nets;
consume dissolved organic matter through cell membranes. Both Symphyllia and Plerogyra easily adapt to
culture conditions. However, tissue of Symphyllia is subjected to tearing if not handled appropriately.Euphyllia
rather adapt to culture conditions but somewhat prone to brown jelly type infections and direct light from
metal halide. It is not easy adapting to culture conditions for Goniopora, easily infected by brown jelly,
bleaching and impact of high water flow. In culture conditions, the four coral genera are fed on processed
seafood with suitable sizes, require light intensity 5,500 - 20,000°K; pH 8.1 -8.4; salinity 33 - 34‰; water flow
10 - 30%h-; calcium 400 - 450ppm; alkalinity 150 - 250ppm CaCO3; magnesium 1,200 - 1,350ppm; Strontium
8 - 10ppm phosphate 0ppm.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 625 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng thích nghi của một số giống san hô với điều kiện nuôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
298
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 13, Số 3; 2013: 298-305
ISSN: 1859-3097
KHẢ NĂNG THÍCH NGHI CỦA MỘT SỐ GIỐNG SAN HÔ
VỚI ĐIỀU KIỆN NUÔI
Nguyễn Thị Thanh Thủy
Viện Hải dương học-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Số 1 Cầu Đá, Nha Trang, Khánh Hòa, Việt Nam
Email: thuyduongio@yahoo.com.vn
Ngày nhận bài: 4-2-2013
TÓM TẮT: Bốn giống san hô thường nuôi là Symphyllia, Plerogyra, Euphyllia, và Goniopora. Chúng đều
là san hô cứng polyp dài/lớn, sinh sản hữu tính và vô tính. Trừ Symphyllia, ba giống còn lại đều là san hô dữ
đối với các loài khác khi nuôi chung. Cả bốn giống đều dinh dưỡng bằng hai hình thức: tự dưỡng nhờ tảo cộng
sinh Zooxanthellae; và dị dưỡng thông qua 3 cách như bắt mồi bằng các xúc tu; lọc thức ăn qua màng nhày và
hấp thụ các chất dinh dưỡng hòa tan qua màng tế bào. Hai giống Symphyllia và Plerogyra đều dễ thích nghi
với điều kiện nuôi. Tuy nhiên, tế bào mô của Symphyllia dễ bị tổn thương khi tiếp xúc. Euphyllia khá thích nghi
với điều kiện nuôi nhưng lại nhạy cảm với động vật nguyên sinh, và ánh sáng trực tiếp từ đèn halide kim loại.
Goniopora thường khó thích nghi với điều kiện nuôi giữ, rất dễ bị nhiễm động vật nguyên sinh, hiện tượng tẩy
trắng và ảnh hưởng dòng chảy mạnh.Trong điều kiện bể nuôi, cả bốn giống san hô này đều ăn thức ăn động
vật có kích thước phù hợp; chế độ chiếu sáng 5.500 - 20.0000K; pH 8,1-8,4; nhiệt độ nước 23-250C; độ muối
33-34‰; lưu lượng dòng chảy 10-30%/giờ; nồng độ canxi 400 - 450ppm; độ kiềm 150 - 250ppm CaCO3;
magiê 1.200 - 1.350ppm; strontium 8 - 10ppm; phosphat 0ppm.
Từ khóa: Symphyllia, Plerogyra, Euphyllia, Goniopora, khả năng thích nghi
MỞ ĐẦU
San hô là một trong những loài sinh vật cảnh
biển quý hiếm ở Việt Nam và thế giới do chúng có
màu sắc rực rỡ, hình dáng lạ, đẹp như những bông
hoa biển. San hô não Symphyllia, san hô bong bóng
Plerogyra, san hô mỏ neo Euphyllia và san hô hoa
cúc Goniopora là những giống thường được nuôi
trong các hệ thống nuôi sinh vật cảnh biển ở Việt
Nam như Bảo tàng Viện Hải dương học, khu du lịch
đảo Vinpearland Nha Trang và ở các nước trên thế
giới như Singapore, Mỹ, Đức. Thực tế cho thấy, đa
số các giống san hô này được thu ngoài tự nhiên về
sau vài tháng nuôi, các polyp san hô thường có hiện
tượng co rút lại, bị tẩy trắng và chết dần dần, có tập
đoàn san hô bị chết hoàn toàn sau vài tháng đến một
năm nuôi giữ.
Nghiên cứu nuôi san hô trong điều kiện nhân
tạo từ lâu đã được quan tâm ở nhiều nơi trên thế giới
nhưng tỷ lệ thành công chưa cao [14]. Tuy nhiên,
lĩnh vực này vẫn còn mới ở Việt Nam. Đến nay, ở
nước ta vẫn chưa có những nghiên cứu về nuôi san
hô trong điều kiện nhân tạo, ngoài công bố của
chuyên gia Nga và các cộng sự Việt Nam [12],
trong đó nhóm tác giả đã đưa ra một số nguyên tắc
và phương pháp tiếp cận cơ bản để duy trì và nuôi
giữ san hô trong điều kiện nhân tạo.
Trên cơ sở tổng quan những nghiên cứu về đặc
điểm sinh học và nuôi san hô trong điều kiện nhân
tạo, bài báo tổng quan một số yếu tố môi trường
nuôi thích hợp và khả năng thích nghi của một số
giống san hô đối với điều kiện nuôi. Đây là cơ sở
khoa học góp phần cho việc hoàn thiện hệ thống
nuôi san hô nói chung và chế độ chăm sóc phù hợp
Khả năng thích nghi của một số giống san hô
299
cho từng giống loài san hô nói riêng trong hệ thống
nuôi sinh vật cảnh biển.
MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VÀ PHƯƠNG PHÁP
TIẾP CẬN CƠ BẢN TRONG NUÔI GIỮ SAN
HÔ
Theo Titlyanov và cs. [12], có 4 nguyên tắc cơ
bản để duy trì và nuôi giữ san hô lâu dài trong điều
kiện nhân tạo: nên nuôi san hô gần với điều kiện tự
nhiên; lựa chọn những loài nuôi phù hợp tùy theo
mục đích của người nuôi; nghiên cứu đặc điểm sinh
học của loài san hô định nuôi; kiểm soát trạng thái
sinh lý và các yếu tố môi trường trong thời gian
nuôi. Trên cơ sở 4 nguyên tắc này, nhóm tác giả đã
đưa ra 3 phương pháp tiếp cận trong nuôi giữ san hô
nhân tạo:
Phương pháp đơn giản và tự nhiên nhất là nuôi
san hô trong bể ngoài trời dưới điều kiện ánh sáng
và nước biển tự nhiên được bơm trực tiếp không qua
lọc hoặc lắng để san hô có thể sử dụng thức ăn qua
con đường tự dưỡng và dị dưỡng. Lưu lượng dòng
chảy trung bình (30%/giờ), nhiệt độ phải thấp hơn
nhiệt độ mặt nước biển 20C vào mùa nóng. Hàng
tuần cần phải vệ sinh bể, chất nền và tảo bám.
Phương pháp tiếp cận thứ hai phức tạp hơn:
nuôi san hô với nước biển được lọc, cung cấp thức
ăn nhân tạo và động vật phù du. Vào ban ngày, bơm
nước biển chảy với lưu lượng khoảng 10%/giờ. Vào
buổi tối và sáng sớm không cần thiết bơm nước
chảy. Thức ăn cần cung cấp vào buổi tối. Đối với
phương pháp này cần chú ý kiểm tra các khí độc
trong nước nuôi; kích thước và chất lượng thức ăn,
đặc biệt cần cho ăn theo đúng chu kỳ sinh học tự
nhiên của san hô.
Phương pháp tiếp cận thứ ba thích hợp cho các
thí nghiệm khoa học: nuôi san hô trong hệ thống kín
với các thông số môi trường được kiểm soát tối đa
và thường xuyên. Hàng ngày thay nước trong hệ
thống kín hoặc làm vệ sinh hệ thống nuôi kết hợp sử
dụng lọc sinh học.
Trong điều kiện nuôi san hô, khái niệm nhiệt độ
màu được dùng như một thông số kỹ thuật khi lựa
chọn các loại đèn chiếu sáng. Nhiệt độ màu được đo
bằng đơn vị Kelvin. Độ Kelvin (0K) tương đương
với -2730C. Đèn T5's, halide kim loại và đèn
flourescent VHO (very high output) là những loại
đèn phổ biến có thể dùng riêng hoặc kết hợp. Các
đèn này thường có nhiệt độ màu 5.500 -20.0000K [1,
2; 5, 11, 14]. Trong bể nuôi, đèn fluorescent thường
được dùng vào lúc sáng sớm hoặc chiều tối khi đèn
halide kim loại tắt. Đồng thời có thể dùng kết hợp cả
hai loại đèn fluorescent và halide kim loại để tăng
cường màu cho san hô.Cường độ ánh sáng của đèn
fluorescent và đèn halide kim loại giảm rất nhanh
với sự tăng khoảng cách của bóng đèn: 1cm tăng về
khoảng cách của bóng đèn tương đương với 1m độ
sâu tăng ở biển. Để duy trì nhiệt độ màu hữu ích và
cường độ ánh sáng của đèn fluorescent và đèn
halide kim loại, tốt nhất là nên thay các bóng đèn
này hàng năm. Nên dựa trên sức khỏe của san hô
nuôi để điều chỉnh yêu cầu ánh sáng. Hầu hết người
nuôi dùng loại đèn halide kim loại 175 hoặc 150watt
- với công suất này phù hợp cho bể nuôi ≤100
gallons (378 lít) và chiều cao ≤30 inches (76cm) [4].
Các yếu tố thủy hóa quan trọng đối với san hô
bao gồm độ kiềm, pH và canxi, ba yếu tố này xác
định tình trạng bão hòa của CaCO3 và kiểm soát sự
vôi hóa của môi trường. San hô có thể sinh trưởng
trong bể nuôi có nồng độ canxi thấp hơn 400ppm,
nhưng với điều kiện độ kiềm (hoặc độ cứng) bình
thường hoặc cao. Thực tế cho thấy độ cứng của
nước thấp ảnh hưởng đến san hô hơn là nồng độ
canxi thấp. Không bổ sung canxi vào bể nuôi, nồng
độ canxi sẽ giảm xuống 250-350ppm. Bổ sung quá
liều CaOH sẽ làm pH tăng. Nếu điều này xảy ra có
thể bổ sung CO2 vào nước. Nên duy trì các muối vô
cơ như NH3, NO3- và PO4- ở mức thấp, mặc dù các
muối này có thể nhanh chóng được hấp thu bởi tảo
cộng sinh [1, 11, 14].
San hô là sinh vật sống ở biển, với độ muối dao
động 32-35‰. Trong nuôi trồng, độ muối của nước
biển còn được đo bằng đơn vị trọng lượng riêng.
Nước biển thường có trọng lượng riêng từ 1,022 -
1,030. Hầu hết nước nuôi được duy trì ở trọng lượng
riêng thấp 1,022. Cần giữ môi trường ổn định, tránh
gây sốc cho san hô. Đôi khi, sự thay đổi đột ngột
trọng lượng riêng của nước biển được dùng để kiểm
soát sự bùng phát bệnh nguyên sinh động vật
(Cryptocaryon irritans) [4].
MỘT VÀI ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA MỘT
SỐ GIỐNG SAN HÔ THƯỜNG NUÔI
Giống Symphyllia Edwards và Haime, 1848
Đặc điểm chung
Giống Symphyllia thuộc ngành Cnidaria, lớp
Anthozoa, bộ Scleractinia, họ Mussidae, thường gọi
là san hô não (brain Coral). Đây là san hô cứng
polyps dài/lớn (Long/large Polyps Stony: LPS).
Nguyễn Thị Thanh Thủy
300
Ngoài tự nhiên, san hô não tạo thành những tập
đoàn phẳng hoặc hình vòm, có những rãnh rộng uốn
khúc và xoắn. Mỗi một polyp có hình dạng riêng với
những cái bướu hoặc chỏm nằm giữa polyp. Giống
Symphyllia thường có màu kem hoặc màu xanh, đỏ
và nâu với những rãnh có màu tương phản.
Tập tính bắt mồi
Mặc dù có tảo cộng sinh Zooxanthellae,
Symphyllia vẫn nhận thức ăn bên ngoài. San hô
Symphyllia bắt mồi bằng cách thò xúc tu ra ngoài
vào ban đêm. Tuy nhiên, vào ban ngày khi có thức
ăn, chúng cũng thay đổi hình thái để thò xúc tu ra
bắt mồi. Thức ăn của san hô này gồm sinh vật phù
du, các vụn bã hữu cơ từ cột nước, đồng thời chúng
có thể hấp thu vật chất dinh dưỡng hòa tan qua
màng tế bào. Trong điều kiện nuôi, Symphyllia có
thể ăn thịt tôm cá xay nhỏ và các loại khác như
mysis, luân trùng, ấu trùng artemia hoặc các giai
đoạn ấu trùng của copepod (cyclopeeze). Một số
loài bắt mồi thực vật phù du. Có thể cho san hô ăn
một lần một tuần hoặc phụ thuộc vào số lượng thức
ăn mà san hô cần. Trong bể nuôi có nhiều cá sẽ làm
cho tần số bắt mồi của các xúc tu san hô giảm đi [2,
4, 6, 13].
Tập tính xã hội
Giống Symphyllia là san hô hiền nên có thể nuôi
chung với các loài khác nhau cùng bể. Những giống
khác trong cùng họ như Lobophyllia có thể châm
chích chúng nhưng san hô này không bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên, chúng nhạy cảm với một số giống khác
như Xenia và Litophyton [2, 6, 13].
Tập tính sinh sản
Giống Symphyllia sinh sản vô tính bằng cách
tạo các tập đoàn mới, các polyp bóng “balls” hoặc
vách ngăn (septa). Symphyllia là san hô lưỡng
tính.Chúng sinh sản hữu tính bằng cách giải phóng
trứng và tinh trùng đồng thời, thụ tinh ngoài, trứng
thụ tinh tạo thành ấu trùng tự do bơi lội, sau đó lắng
đáy trở thành những cây “plankters”. Cây này tạo
nên một polyp bắt đầu tiết ra CaCO3 và phát triển
thành san hô. Ấu trùng bơi lội tự do rất dễ bị tổn
thương do địch hại và tỷ lệ sống sót thấp [3, 4].
Giống Symphyllia dễ sinh sản trong điều kiện nuôi
giữ và tạo nên nhiều loài có màu sắc kết hợp [3].
Giống Plerogyra Dana, 1846
Đặc điểm chung
Giống Plerogyra thuộc ngành Cnidaria, lớp
Anthozoa, bộ Scleractinia, họ Euphyllidae (trước
kia là Caryophylliidae), là san hô cứng polyps dài
(LPS). Các loài thuộc giống này đều có các túi
polyp giống bong bóng nên còn gọi là san hô bong
bóng (bubble coral; blader coral) (hình 1). Đây là
loài bóng tối vì chúng thường sống ở trong hang,
gắn trên các vách đá thẳng đứng. Chúng ưa dòng
chảy yếu, đáy cát ánh sáng yếu. Chúng có màu vàng
nhạt, kem, nâu và màu hồng, nhiều polyp hình bong
bóng trên bề mặt. Các polyp này rất mỏng manh và
dễ bị tổn thương [2, 5, 14].
Hình1. Plerogyra sp. tại Bảo tàng Viện Hải dương học
Tập tính bắt mồi
Dinh dưỡng của Plerogyra chủ yếu tự dưỡng nhờ
tảo cộng sinh Zooxanthellae nằm trong các xúc tu
bong bóng. Tuy nhiên, Plerogyra có thói quen bắt
mồi buổi tối, có thể ăn lọc thức ăn qua màng nhày và
hấp thụ các chất dinh dưỡng hòa tan bằng cách vận
chuyển chủ động các phân tử hữu cơ qua màng tế
Khả năng thích nghi của một số giống san hô
301
bào. Thức ăn có thể là các loại thịt đông lạnh gồm
mực, tôm, thịt, cá, thực động vật phù du [2, 5, 7, 14].
Tập tính xã hội
Các loài thuộc giống Plerogyra thường là san
hô dữ (aggressive, killers), không nên nuôi chung
với loài khác [2, 5, 7, 14].
Tập tính sinh sản
Ở giống Plerogyra, các polyp mới nảy chồi trên
vách xung quanh gốc của tập đoàn san hô mẹ, khi
phát triến chúng được tách khỏi tập đoàn san hô mẹ.
Tuy nhiên chúng cũng phân tính và sinh sản hữu
tính ra trứng và tinh trùng, và phát triển ấu trùng tự
do planula [4].
Giống Euphyllia Dana, 1846
Đặc điểm chung
Giống Euphyllia thuộc ngành ruột khoang
Cnidaria, lớp san hô Anthozoa, bộ san hô cứng
Scleractinia, họ Euphyllidae, là san hô cứng polyp
dài/lớn (LPS).Chúng thường có màu xanh, nâu,
hồng, vàng nhạt, kem với đầu xúc tu có màu trắng
hoặc xanh nhạt. Nhiều loài có xúc tu dài tới 2-3cm
[5]. Euphyllia sinh trưởng chậm, hầu hết khỏe, dễ
nuôi trong đó E. divisa là loài khỏe nhất và E.
grabrescens là loài nhạy cảm nhất.
Một số loài thường nuôi:
E. ancora Veron và Pichon, 1980: thường gọi
là san hô búa (Hammer coral), san hô mỏ neo
(Anchor coral) hay san hô xúc xích (Sausage coral),
là một trong những loài san hô đẹp nhất. Loài này
thường có màu xanh, nâu, hồng, vàng nhạt, kem với
đầu xúc tu có màu trắng hoặc xanh nhạt. Đầu của
các xúc tu có hình dạng giống mỏ neo là đặc điểm
đặc trưng của loài. Tuy nhiên, một số loài khác cũng
có đầu xúc tu dạng hình mỏ neo (E.cristata;
E.fimbriata).
E. divisa Veron và Pichon, 1980: thường được
gọi là san hô trứng ếch (Frogspawn coral) hay san hô
chùm nho nhỏ (Fine Grape Coral). Chúng thường có
màu nâu, xanh vàng với đầu xúc tu có màu nhạt hơn.
E. glabrescens Chamisso và Eysenhardt,
1821: thường gọi là san hô đuốc (Torch coral) hay
san hô nhánh (Branch coral). Chúng thường có màu
nâu với đỉnh xúc tu có màu trắng.
Tập tính bắt mồi
Giống Euphyllia là loài sinh trưởng chậm
nhưng phát triển nhanh hơn khi có thức ăn phù hợp.
Một số loài như san hô nhánh (E. glabrescens) thức
ăn chủ yếu nhờ quang hợp của tảo cộng sinh
Zooxanthellae. Tuy nhiên, giống Euphyllia cũng bắt
mồi, ăn lọc thức ăn qua màng nhày và hấp thụ dinh
dưỡng hòa tan bằng cách vận chuyển chủ động các
phân tử hữu cơ qua màng tế bào.Thức ăn chủ yếu
của chúng là động vật không xương sống, các loại
hải sản đông lạnh xay nhỏ và động thực vật phù du
[1, 11, 14].
Tập tính xã hội
Tất cả các loài thuộc giống Euphyllia đều yêu
cầu không gian rộng ít nhất 15cm xung quanh bộ
xương để cho các xúc tu vươn ra tránh châm trích
vào các tập đoàn bên cạnh [4]. Ngoại trừ E.
glabrascen, các loài khác thuộc giống này đều là
loài dữ. Những polyp có thể rất dài (15-20cm) còn
gọi là máy quét (sweepers), với các xúc tu trên đỉnh
có rất nhiều tế bào châm chích (nematocysts), có thể
gây tổn thương đáng kể các san hô xung quanh.
Cách tốt nhất là đặt các tập đoàn san hô nuôi cách
xa nhau [1, 4, 11, 14].
Tập tính sinh sản
Euphyllia cũng sinh sản vô tính bằng cách tạo
tập đoàn mới trong bể, các mầm mới thường xuất
hiện ở xung quanh gốc của san hô, tạo nên những
nhánh mới, phát triển dần và tách rời khỏi tập đoàn
mẹ. Một cách khác, chúng cũng tạo nên những vách
ngăn không gắn với tập đoàn chính, các vách ngăn
này phát triển và tách dần khỏi tập đoàn mẹ [3, 10].
Giống Euphyllia cũng là loài phân tính và sinh sản
hữu tính ra trứng và tinh trùng trong nước hoặc
mang bầu “Brooders” và sinh sản trực tiếp ấu trùng
tự do planula [4].
Giống Goniopora de Blainville, 1830
Đặc điểm chung
Giống Goniopora thuộc ngành Cnidaria, lớp
Anthozoa, bộ Scleractinia, họ Poritidae, là san hô
cứng polyps dài (LPS) (hình 2), thường gọi là san
hô hoa cúc (daisy coral), san hô lọ hoa (flowerpot
coral), san hô hoa mặt trời (sunflower coral) và san
hô bóng (ball coral). Goniopora thường có màu
xanh hoặc nâu, đôi khi màu hồng, đỏ, kem, vàng
hoặc xám. Giống Goniopora có polyp hình ống có
thể vươn xa ngoài bộ xương của chúng. Trên mỗi
polyp có 24 xúc tu miệng, thường duỗi dài ra vào
Nguyễn Thị Thanh Thủy
302
ban ngày và rụt ngắn lại vào ban đêm. Hệ thống
thần kinh của chúng rất phức tạp, nếu san hô bị
đụng vào một phía, phía còn lại cũng bị tác động
khiến các xúc tu bị co lại. Nhìn chung Goniopora
thích dòng chảy mạnh và ánh sáng trắng [1, 4, 11,
14].
Hình 2. Goniopora lobata tại Bảo tàng Viện Hải dương học
Một số loài thường nuôi là G. stokesi màu xanh
(Green Flowerpot Coral) và G. lobata màu nâu. Một
loài mới nuôi phổ biến hơn là G. somaliensis do
chúng có màu đỏ đẹp và là loài khỏe nhất trong các
loài san hô nuôi.
Tập tính bắt mồi
Goniopora cũng bắt mồi động vật phù du, lọc
thức ăn các mảnh vụn hữu cơ trong cột nước và có
thể hấp thu các chất dinh dưỡng hòa tan qua màng tế
bào. Trong bể nuôi, chúng có thể sử dụng các dung
dịch dinh dưỡng có mặt trên thị trường như Marine
Snow, Phytoplex và những dung dịch thực vật phù
du giàu lipid thay thế khác. Động vật phù du không
phải nguồn thức ăn chính của chúng ngoài tự nhiên
[1, 4, 9, 11, 14].
Tập tính xã hội
Không nên nuôi chung Goniopora với các loài
khác nhau trong cùng bể vì chúng là loài dữ và
thường thải ra độc tố có hại cho các loài khác thuộc
giống Goniopora .Tùy theo loài, Goniopora có thể
chấp nhận hoặc bị chết vì dị ứng thường xuyên với
cá khoang cổ [3, 10].
Tập tính sinh sản
Goniopora có thể vừa sinh sản hữu tính vừa
sinh sản vô tính. Goniopora sinh sản vô tính bằng
cách tạo những mầm polyp trên cục đá vôi nhỏ gắn
với cơ thể mẹ, phát triển đến khi đủ nặng thì tách
khỏi mẹ [3, 10].
KHẢ NĂNG THÍCH NGHI CỦA MỘT SỐ
GIỐNG SAN HÔ VỚI ĐIỀU KIỆN NUÔI
Giống Symphyllia Edwards và Haime, 1848
Giống Symphyllia rất dễ thích nghi với điều
kiện nuôi. Tuy nhiên, tế bào mô của Symphyllia dễ
bị tổn thương khi tiếp xúc. Khi đưa chúng ra khỏi
nước, cần lắc nhẹ cho đến khi các tế bào của chúng
co lại tránh bị rách khi di chuyển.
Bể nuôi cần được cung cấp ánh sáng từ trung
bình tới mạnh (5.500 - 20.0000K), dòng chảy xáo
trộn từ yếu tới trung bình (10 - 30%/giờ). Ngoài tự
nhiên chúng phân bố ở những nơi có môi trường ánh
sáng khác nhau, do vậy đầu tiên nên nuôi chúng ở
nơi ánh sáng yếu. Symphyllia có thể sống lâu trong
môi trường nuôi giữ nhưng vòng đời thực sự thì
chưa được xác định. Một bể nuôi hoàn thiện khi
được bổ sung đá sống cùng với một vài con cá để
cung cấp chất thải hữu cơ hòa tan [2, 13].
Vì chúng có bộ xương can xi nên cần thiết phải
bổ sung các yếu tố thủy hóa của nước để duy trì sự
phát triển của san hô. Thay nước 20% hàng tháng,
10% sau hai tuần hoặc 5% mỗi tuần là cần thiết.
Thực tế cho thấy thay nước 5% mỗi tuần sẽ bù đắp
được các yếu tố thủy hóa cần thiết của nước nuôi và
như vậy sẽ hiệu quả hơn việc bổ sung các yếu tố này
từ bên ngoài [2].
Giống Plerogyra Dana, 1846
Giống san hô bong bóng Plerogyra thường là
san hô khỏe, dưới điều kiện ánh sáng và thức ăn phù
Khả năng thích nghi của một số giống san hô
303
hợp san hô sẽ phát triển tốt. Khi mới nuôi, nên đặt
san hô ở khu vực ánh sáng yếu của bể, sau đó
chuyển dần ra những chỗ sáng hơn trong vòng 2
tuần, giúp chúng có thời gian thích nghi với điều
kiện mới. Dòng chảy có xáo trộn tạo sóng từ một
phía và đủ mạnh (30%/giờ) để các xúc tu chuyển
động, nhưng không nên quá mạnh làm chúng bị
duỗi ra và có thể làm tổn thương tế bào. Các xúc tu
của san hô có thể vươn dài tới 2,5cm, do vậy, chúng
cần khoảng trống nhất định. Loài này có thể ảnh
hưởng đến loài khác nhưng các tập đoàn cùng loài
không bị ảnh hưởng lẫn nhau. Các loại thức ăn như
artemia, cá, động vật thân mềm, tôm và động vật
phù du đều có thể dùng làm thức ăn cho san hô bong
bóng. Khi cho ăn, có thể dùng syringe loại lớn hoặc
phết trực tiếp lên bề mặt san hô (hình 3). Cho ăn quá
mức sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các loại tảo có
hại phát triển. Cẩn thận khi tiếp xúc để tránh tổn
thương các polyp. Các loại cua, giáp xác có thể tác
động đến san hô nên tránh nuôi chung cùng bể.
Thay nước 20% hàng tháng, 10% sau hai tuần hoặc
5% mỗi tuần là phù hợp [2, 5, 7, 14].
Hình 3. Cho san hô bong bóng ăn
[Nguồn:
coral.html]
Giống Euphyllia Dana, 1846
Giống Euphyllia khá khỏe nhưng lại nhạy cảm
với động vật nguyên sinh (protozoan), còn gọi hiện
tượng màng nhày nâu (Brown jelly) và ánh sáng
trực tiếp từ đèn halide kim loại. San hô bị nhiễm
động vật nguyên sinh có thể do chất lượng nước
kém hoặc sự tổn thương của mô tế bào. San hô mới
thu ngoài tự nhiên về cần vài tuần để thích nghi với
điều kiện bể nuôi. Những tập đoàn san hô mới
không nên đặt gần bề mặt nước trực tiếp dưới ánh
đèn halide kim loại, vì không đủ thời gian thích nghi
để sản sinh ra sắc tố bảo vệ, dẫn đến san hô dễ bị
tổn thương. Euphyllia cần ánh sáng từ trung bình tới
mạnh (5.500 - 20.0000K) [1, 11, 14]. Cần thay nước
20% hàng tháng, 10% sau hai tuần hoặc 5% mỗi
tuần. Với mật độ san hô cao, bổ sung các yếu tố cần
thiết để duy trì sinh trưởng cho san hô. Sắt và magiê
có tác dụng giảm sự tổn thương của các xúc tu. Vì
vậy, cần bổ sung các yếu tố này thường xuyên trong
môi trường nuôi. Magiê tạo điều kiện cho canxi có
mặt, nếu canxi thấp, kiểm tra magiê trước khi bổ
sung canxi [1, 11, 14].
Giống Goniopora de Blainville, 1830
Giống Goniopora thường khó thích nghi trong
điều kiện nuôi giữ. Nhiều loài thuộc giống
Goniopora đã được nuôi từ lâu nhưng tỷ lệ thành
công thấp. Đa số chúng chỉ sống được trên dưới một
năm trong điều kiện nhân tạo, cá biệt có thể duy trì
được trên ba năm. Tình trạng chết của những san hô
này thường xảy ra chậm [14].
Goniopora rất dễ bị nhiễm động vật nguyên
sinh và ảnh hưởng bởi dòng chảy mạnh [1, 4, 9, 11,
14]. Khi xử lý cần nhẹ nhàng, tránh gây sốc, đặt san
hô vào bể kiểm dịch cho đến khi san hô phục
hồi. Tẩy trắng là phổ biến ở một số loài thuộc giống
Goniopora, chủ yếu là G. stokesi. Cần chuyển
chúng ra khỏi ánh sáng khi hiện tượng này xảy
ra. Dòng chảy mạnh sẽ giết chết Goniopora trong
vòng vài tháng.
Tương tự 3 giống trên, Goniopora cũng cần
thay nước 20% hàng tháng, 10% sau hai tuần hoặc
5% mỗi tuần. Một môi trường có đá sống (live rock)
cùng một số cá để cung cấp chất thải hữu cơ là cần
thiết cho Goniopora. Cần đặt san hô vững chắc dưới
đáy bể vì chúng có các xúc tu dài và nặng, dễ bị ngã
vào san hô khác, gây tổn thương ở xương, dẫn đến
chết. Ở bể nuôi Goniopora không nên lắp thiết bị
lọc đạm (protein skimmers) vì các chất lơ lửng hoặc
sinh vật phù du là nguồn dinh dưỡng cho Goniopora
[1, 11, 14].
Một vài loài thường nuôi :
G. stokesi: trong điều kiện nhân tạo, loài này dễ
nuôi hơn các loài khác và có thể sinh trưởng dưới
điều kiện môi trường thích hợp. Thời gian chiếu
sáng 6-8 giờ với bóng đèn 400 Watt 20k là phù hợp.
Loài này có thể bị tẩy trắng nếu quá nhiều ánh sáng.
Loài này thích hợp với dòng chảy trung bình
(30%/giờ), cần bổ sung CaCO3 và canxi để duy trì
ổn định nước nuôi. Bổ sung đáy cát và cỏ biển là
Nguyễn Thị Thanh Thủy
304
thích hợp cho dinh dưỡng của loài này. Chất vụn bã
hữu cơ dưới đáy là một nguồn dinh dưỡng cho san
hô nếu chúng được quấy lên để san hô có thể hấp
thu được [1, 4, 11, 14].
G. lobata: ngoài tự nhiên chúng thường sống ở
nơi nước đục giàu dinh dưỡng,ánh sáng và dòng
chảy vừa phải. Do đặc tính trao đổi chất nhanh, nên
trong bể nuôi cần bổ sung thức ăn; dòng chảy và
ánh sáng vừa phải [1, 4, 11, 14].
G. somaliensis: màu đỏ, được nuôi phổ biến vì
chúng đẹp và khỏe hơn các loài khác. G.
somaliensis thích nghi với ánh sáng và dòng chảy từ
yếu đến trung bình (10 - 30%/giờ), có thể ăn động
vật phù du nhỏ. Một nền đáy cát và cỏ biển có lợi
cho nhu cầu dinh dưỡng của loài này. Cần bổ sung
CaCO3 và canxi và giữ ổn định trong quá trình nuôi
[1, 4, 11, 14].
MỘT SỐ YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG NUÔI
THÍCH HỢP ĐỐI VỚI BỐN GIỐNG SAN HÔ
Trên cơ sở tổng quan những kết quả nghiên cứu
trước đây, một số yếu tố môi trường nuôi thích hợp
đối với 4 giống san hô được tóm tắt trong bảng 1.
Bảng 1. Một số yếu tố môi trường nuôi thích hợp đối với 4 giống san hô
Nguồn: Borneman, 2001[2]; Fossa và Nilsen, 1988 [5]; [7].
Ronald, 2005[11]; Veron, 2000 [14].
NHẬN XÉT
Một số nhận xét chính được rút ra trên cơ sở
tổng quan tài liệu:
Bốn giống san hô thường nuôi là Symphyllia,
Plerogyra, Euphyllia, và Goniopora. Chúng đều là
san hô cứng polyp dài/lớn (Long/large polyps
stony), sinh sản hữu tính và vô tính. Trừ Symphyllia,
ba giống còn lại đều là san hô dữ, dễ gây tổn thương
cho các giống khác khi nuôi chung.
Cả 4 giống Symphyllia, Plerogyra, Euphyllia,
và Goniopora đều dinh dưỡng bằng hai hình thức:
tự dưỡng nhờ tảo cộng sinh Zooxanthellae; và dị
dưỡng thông qua 3 cách là bắt mồi bằng các xúc tu;
lọc thức ăn qua màng nhày và hấp thụ các chất dinh
dưỡng hòa tan qua màng tế bào.
Hai giống Symphyllia và Plerogyra đều dễ
thích nghi với điều kiện nuôi, tuy nhiên, tế bào mô
của Symphyllia dễ bị tổn thương khi tiếp xúc.
Euphyllia khá thích nghi với điều kiện nuôi nhưng
lại nhạy cảm với động vật nguyên sinh và ánh sáng
trực tiếp từ đèn halide kim loại. Goniopora thường
khó thích nghi với điều kiện nuôi giữ, rất dễ bị
nhiễm động vật nguyên sinh, hiện tượng tẩy trắng
và ảnh hưởng dòng chảy mạnh.
Trong điều kiện nuôi, cả 4 giống san hô này
đều ăn thức ăn động vật có kích thước phù hợp; chế
độ chiếu sáng 5.500 - 20.0000K; pH 8,1-8,4; nhiệt
độ nước 23-250C; độ muối 33-34‰; lưu lượng dòng
chảy 10 - 30%/giờ; nồng độ canxi 400 - 450ppm; độ
kiềm 150-250ppm CaCO3; magiê 1.200 - 1.350ppm;
strontium 8 - 10ppm; phosphat 0ppm.
Thông số môi
trường nuôi
Giống san hô
Symphyllia Plerogyra Euphyllia Goniopora
Kích thước bể ≥ 200 lít ≥ 200 lít ≥ 200 lít ≥ 200 lít
Ánh sáng (0K) 5.500 -20.000 5.500 -20.000 5.500 -20.000 5.500 -20.000
pH 8,1 – 8,4 8,1 – 8,4 8,1 – 8,4 8,1 – 8,4
T°C nước 23 – 28 22 – 25 23- 28 22 - 26
S ‰/trọng lực 33-35
1,024 – 1,026
32-34
1,023 – 1,025
32-34
1,023 – 1,025
32-34
1,023 – 1,025
Dòng chảy 10-30%/giờ 10-30%/giờ 10-30%/giờ 10-30%/giờ
Vị trí đặt san hô Đáy bể Đáy bể Tùy thuộc điều kiện bể Đáy bể
Canxi (Ca) ppm 400 - 430 400 400 – 420 400 – 450
Độkiềm (meq/L)
/độ cứng (dKH)
2,5-4
7-11
2,5-4
-11
2,5-4
7-11
2,5 -4
7-11
Phosphat (ppm) 0 0 0 0
Magiê (ppm) 1200 – 1350 1200 – 1350 1200 – 1350 1200 – 1350
Strontium (ppm) 8 – 10 8 - 10 8 - 10 8 - 10
Khả năng thích nghi của một số giống san hô
305
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Borneman, Eric H., 2004. Aquarium Corals,
Selection Husbandry and Natural History.
T.F.H. Publications. 432pp.
2. Borneman, Eric H., 2001. Aquarium Corals:
Selection, Husbandry and Natural History T.F.
H Publications. 464 pp.
3. Calfo A., 2007. Book of Coral Propagation,
Volume 1 Edition 2: Reef Gardening for
Aquarists, Reading Trees; 2nd edition. 416pp.
4. Delbeek J. C., Sprung, J., 1994. The reef
aquarium. A comprehensive guide to the
identification and care of tropical marine
invertebrate. Volume One. Ricordea Publishing
4016 El Prado Blvd., Coconut Grove, Florida,
USA. Printed and bound in Spain by Artes
Graficas Toledo S. A. U. 544pp.
5. Fossa, S. and A. Nilsen, 1998. The Modern
Coral Reef Aquarium, Volume 2. Birgit
Schmettkamp Velag, Bornheim, Germany.
479pp.
6.
Reefs/Symphyllia -Brain-Coral
7.
8.
9.
Goniopora .htm.
10.
books/coral/reproduction.htm)
11. Ronald L. Shimek, 2005. Guide to Marine
Invertebrates: 500 Essential-to-Know Aquarium
Species, Microcosm. 448pp.
12. Titlyanov, E. A. Vo si Tuan, Titlyanova T.V.,
2002. On long-term maintenance and
cultivation of hermatypic corals under artifical
conditions. Collection of Marine Researh
Works, XII: 215-232.
13. Veron, J. E. N.,1993. Corals of Australia and
the Indo-Pacific, University of Hawaii Press; 2
Rev Editions. 644pp.
14. Veron, J. E. N., 2000. Corals of the World,
Vol. 2. Australian Institute of Marine Science,
Townsville, Australia, 429pp.
THE ADAPTABILITY TO CULTURE CONDITION OF SOME
COMMON CORAL GENERA
Nguyen Thi Thanh Thuy
Institute of Oceanography-VAST
ABSTRACT: Four common coral genera in culture conditions are Symphyllia, Plerogyra, Euphyllia and
Goniopora. They are long/large polyp stony corals, sexual and asexual reproduction. Except Symphyllia, the
three genera are aggressive towards the other marine aquarium invertebrates. All of the four coral genera
have 2 feeding modes: autotrophic mode through photosynthesis of symbiotic zooxanthellea and heterotrophic
mode including 3 ways: predatory prey capture by the polyps; sedimentary filter feeding using mucus nets;
consume dissolved organic matter through cell membranes. Both Symphyllia and Plerogyra easily adapt to
culture conditions. However, tissue of Symphyllia is subjected to tearing if not handled appropriately.Euphyllia
rather adapt to culture conditions but somewhat prone to brown jelly type infections and direct light from
metal halide. It is not easy adapting to culture conditions for Goniopora, easily infected by brown jelly,
bleaching and impact of high water flow. In culture conditions, the four coral genera are fed on processed
seafood with suitable sizes, require light intensity 5,500 - 20,000°K; pH 8.1 -8.4; salinity 33 - 34‰; water flow
10 - 30%h-; calcium 400 - 450ppm; alkalinity 150 - 250ppm CaCO3; magnesium 1,200 - 1,350ppm; Strontium
8 - 10ppm phosphate 0ppm.
Keywords: Symphyllia, Plerogyra, Euphyllia, Goniopora, adaptability
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3537_11965_1_pb_4951_2079599.pdf