Sự hỗ trợ xã hội có mối liên quan tích cực và dự
đoán đáng kể trong tiên lượng khả năng tự quản lý
cơn hen (B= 0,059, p<0,05). Điều này có nghĩa là
trẻ em ở lứa tuổi học được sự hỗ trợ tốt từ xã hội
có khả năng tự quản lý tốt. Kết quả này phù hợp
với học thuyết nhận thức xã hội của Bandura (1997)
nhấn mạnh sự quan trọng của hỗ trợ xã hội tạo điều
kiện cho cá nhân thực hiện hành vi tự quản lý [1].
Kết quả này tương tự với các nghiên cứu trước đây.
Yang và cộng sự cho thấy rằng có một mối liên kết
giữa lối sống lành mạnh để quản lý cơn hen với sự
hỗ trợ của bố mẹ và bạn bè trong quản lý cơn hen
cấp, tránh các yếu tố khởi phát cơn hen, hoạt động
thể chất (lần lượt β = 0,45, β = 0,26) ở trẻ từ độ tuổi
9-14 [14]. Trong các nghiêu cứu khác của Rhee và
cộng sự (2010), họ nêu ra rằng mức độ hỗ trợ tốt từ
phía gia đình có mối liên quan với mức độ kiểm soát
cơn hen tốt và chất lượng cuộc sống cao, và để đạt
được kết quả này cần phải vượt qua nhiều rào cản.
Họ nhận ra rằng có mối liên hệ tương đối giữa sự
hỗ trợ của gia đình và kiểm soát cơn hen (β=0,16,
p=0,05, r2=0,16) [10].
Sự phát hiện này khuyến nghị rằng điều dưỡng
và nhân viên y tế làm việc với trẻ hen có thể tăng
cường khả năng tự quản lý cơn hen ở trẻ lứa tuổi học
đường thông qua tăng cường sự hỗ trợ xã hội đặc
biệt ở trẻ nam và trẻ có mức độ bệnh nặng. Hơn nữa,
họ cũng có thể giáo dục trẻ và người nhà để tăng
cường kiến thức, khả năng tự quản lý của trẻ. Can
thiệp của nghiên cứu cần thực hiện để tăng sự hỗ trợ
từ phía gia đình trẻ. Những nghiên cứu dài hạn cần
được thực hiện để theo dõi sự gia tăng khả năng tự
quản lý cơn hen của trẻ.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 14 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng tự quản lý cơn hen ở trẻ em lứa tuổi học đường tại bệnh viện trung ương Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
96 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Khả năng tự quản lý cơn hen ở trẻ em...
KHẢ NĂNG TỰ QUẢN LÝ CƠN HEN Ở TRẺ EM
LỨA TUỔI HỌC ĐƯỜNG TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG HUẾ
Nguyễn Thị Minh Thành1, Nguyễn Thị Thanh Thanh1
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.63.15
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định khả năng tự quản lý cơn hen ở trẻ em lứa tuổi học đường và các yếu tố liên quan tại
Trung tâm Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Huế.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Mẫu nghiên cứu bao gồm 91
trẻ em ở lứa tuổi học đường đến tại phòng khám Nhi khoa, Bệnh viện Trung ương Huế để theo dõi điều trị
hen. Thời gian thu thập số liệu từ 3/2017 đến 10/2017. Công cụ nghiên cứu: bộ câu hỏi nhân khẩu học, bảng
kiểm tự quản lý cơn hen của trẻ em, Bộ câu hỏi tự đánh giá mức độ nặng của bệnh, bộ câu hỏi hỗ trợ xã hội
(SSQC). Với độ tin cậy lần lượt là 0,84, 0,83, 0,89. Phân tích số liệu theo chương trình thống kê SPSS 17.
Kết quả: Kết quả cho thấy rằng điểm trung bình về khả năng tự quản lý cơn hen của trẻ là 46,37 (S.D. =
5,66), với mức độ từ trung bình đến tốt. Giới tính của trẻ (Nam) là yếu tố tiên lượng nhất chiếm 28,3% trong
khả năng tự quản lý cơn hen của trẻ (B= -5,765, p<0,001), tiếp theo là mức độ nặng của bệnh (B=-0,456,
p<0,001) và sự hỗ trợ xã hội (B=0,059, p<0,05) lần lượt là 16,2% và 4,3%. Cả 3 yếu tố trên chiếm 48,8%
trong tiên lượng khả năng tự quản lý cơn hen của trẻ em ở lứa tuổi học đường (F 3, 87 = 22,121, p<0,001).
Kết luận: Từ những kết quả trên, điều dưỡng và các nhân viên y tế có thể làm tăng khả năng tự quản lý
cơn hen ở trẻ em lứa tuổi học đường bằng cách thúc đẩy và tăng cường hỗ trợ xã hội, đặc biệt là trẻ nam
và trẻ bị hen mức độ bệnh nặng.
Từ khóa: Tự quản lý, hỗ trợ xã hội, hen, lứa tuổi học đường.
ABSTRACT
SELF-MANAGEMENT OF SCHOOL-AGE CHILDREN WITH ASTHMA
AT HUE CENTRAL HOSPITAL
Nguyen Thi Minh Thanh1, Nguyen Thi Thanh Thanh1
Objective: To examine self-management and determine associations between child gender, severity of
illness, social support and self-management of Vietnamese school-age children with asthma.
Method: A descriptive predictive cross-sectional study was used. Sample included 91 Vietnamese
school-age children who came to the Outpatient department of the Hue central hospital, to follow up
treatment for asthma. Data were collected from March 2017 to October 2017. Research instruments
included a demographic questionnaire, the asthma self-management inventory for children, the severity of
illness scale for asthma, and the social support questionnaire for children. Internal consistency reliabilities
1. Trường Đại học Y Dược Huế - Ngày nhận bài (Received): 12/5/2020; Ngày phản biện (Revised): 30/05/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 01/07/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Thị Minh Thành
- Email: ntmthanh@huemed-univ.edu.vn; ĐT: 0984351169
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 97
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hen phế quản là một bệnh lý mạn tính phổ biến
ở trẻ em. Tác động của hen phế quản đối với trẻ em
được chứng minh là khoảng 29% ca hen phế quản
trong năm 2006 là ở lứa tuổi dưới 15 [4]. Nó làm
gia tăng tỷ lệ tử vong và tàn tật của trẻ em trong
2 thập kỷ qua. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh hen
phế quản có xu hướng tăng bình quân hàng năm
từ 4-6%. Bộ Y tế (2009) ước tính rằng có 4 triệu
người đã được chẩn đoán mắc bệnh hen phế quản,
chiếm 5% dân số. Một nghiên cứu đánh giá trẻ em
bị hen phế quản từ 6 đến 15 tuổi cho thấy 42,1%
trẻ bị hen phế quản đã được phòng ngừa lên cơn
hen. Tuy nhiên, 52,2% số trẻ em này đã ngừng sử
dụng thuốc phòng ngừa hen. Hầu hết trẻ em bị hen
phế quản đã có một thời gian dự phòng, trong đó
50% đã dùng thuốc dự phòng dưới 6 tháng, và chỉ
có 17,4% trẻ đã đến tái khám [13]. Tỷ lệ nhập viện
hoặc vào cấp cứu do hen là 19%. Tỷ lệ nghỉ học do
hen là 27,7% ở các tỉnh phía nam khu vực thành phố
Hồ Chí Minh.
Khác với các bệnh lý cấp tính được quản lý bởi
hệ thống chăm sóc sức khỏe, bệnh lý mạn tính được
quản lý bởi cá nhân và gia đình trong cuộc sống
hằng ngày của họ [3]. Các nghiên cứu cho thấy khả
năng tự quản lý có vai trò quan trọng trong các bệnh
lý mạn tính đặc biệt là bệnh nhân hen [8]. Trẻ em ở
lứa tuổi học đường đã bắt đầu có khả năng tự nhận
thức về nguyên nhân và hậu quả của bệnh lý. Chúng
có thể hiểu rằng các triệu chứng của hen sẽ xuất
hiện sau một tình trạng viêm của đường hô hấp.
Hiểu được điều này giúp trẻ có thể tuân thủ quy
trình sử dụng thuốc dự phòng để giảm tần suất xuất
hiện của các triệu chứng [3]. Vì vậy, trẻ em ở độ
tuổi này có thể nhận biết và tham gia vào quá trình
quản lý các hoạt động hằng ngày và vấn đề sức khỏe
của chúng. Đã có nhiều nghiên cứu xác định các yếu
tố liên quan đến khả năng tự quản lý ở bệnh nhân
hen. Tuy nhiên, do sự khác biệt về yếu tố văn hóa
nên các nghiên cứu trên chưa thể bao quát được đối
với bệnh nhân hen ở Việt Nam và các nghiên cứu
trước đây tập trung chủ yếu ở lứa tuổi thanh thiếu
niên, trong khi các nghiên cứu thực hiện trên trẻ
em ở lứa tuổi học đường vẫn còn hạn chế. Do vậy,
nghiên cứu này thực hiện nhằm mục tiêu sau: «Xác
định khả năng tự quản lý cơn hen ở trẻ em lứa tuổi
học đường và các yếu tố liên quan tại Trung tâm Nhi
khoa, Bệnh viện Trung ương Huế”.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế mô tả cắt ngang được sử dụng để xác
định khả năng tự quản lý cơn hen và các yếu tố liên
quan bao gồm giới tính, mức độ nặng của bệnh và
sự hỗ trợ xã hội đối với khả năng tự quản lý cơn hen
ở trẻ lứa tuổi học đường.
Phương pháp lấy mẫu thuận tiện, có được 91
trẻ em ở lứa tuổi học đường được chẩn đoán hen
phế quản từ 6 tháng trở lên để theo dõi điều trị hen
ở phòng khám, Bệnh viện Trung ương Huế trong
khoảng thời gian từ 4/2017 đến 11/2017.
Công cụ nghiên cứu
Bộ câu hỏi nhân khẩu học được phát triển bởi
nghiên cứu viên. Bao gồm các đặc điểm của bố mẹ
và trẻ. Đối với trẻ bao gồm: giới tính, tuổi, số anh
were 0.84, 0.83 and 0,89 respectively. Data were analysis by using the spss 17 program
Results: Results showed that mean total score of self-management was 46.37 (S.D. = 5.66), which
was at a moderate approaching to high level. Child gender (boys) was the best predictor accounted for
28.3% in the prediction of self-management (B= -5.765, p<0.001), followed by severity of illness (B=-0.456,
p<0.001) and social support B= 0.059, p<0.05) accounted for 16.2% and 4.3%, respectively. The three
significant predictors accounted for 48.8 % of variance in asthma self-management of Vietnamese school-
age children (F 3, 87 = 22.121, p<0.001).
Conclusions: These findings suggest that nurses and health care providers in relation to children with
asthma could increase self-management of children with asthma through promote and strengthen social
support, especially for boys and illness severity.
Keywords: Self-management, social support, asthma, school-age children.
98 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Khả năng tự quản lý cơn hen ở trẻ em...
chị em và điểm trung bình kết quả học tập. Đối với
bố mẹ: tuổi, trình độ học vấn và nghề nghiệp. Bảng
kiểm tự quản lý cơn hen ở trẻ em được phát triển
bởi Viện nghiên cứu Hoa Kỳ và được thử nghiệm
bởi Kieckhefer (2001) [9] và Horner (2004) [7]. Nó
được sử dụng để đánh giá mức độ thường xuyên về
hành vi tự quản lý cơn hen của trẻ em. Bảng kiểm
là thang Likert tự đánh giá gồm 13 mục. Mỗi mục
gồm 5 lựa chọn từ 1 đến 5, với 1= không bao giờ,
2= hiếm khi, 3= một nửa thời gian, 4= hầu hết thời
gian, 5= luôn luôn. Trong nghiên cứu này, độ tin cậy
theo Cronbach’s alpha là 0,84. Mức độ nặng của hen
ở trẻ em ở lứa tuổi học đường được hiệu chỉnh dựa
trên bộ công cụ của Jacobs và các cộng sự, (2000)
[5]. Nó được sử dụng để đánh giá mức độ nặng của
hen bằng cách tự đánh giá. Bao gồm 18 mục được
bao quát trong 3 phần chính: triệu chứng, chức năng
và tác động của bố mẹ. Bốn mục (khóc nhiều hơn
bình thường, bám mẹ, viêm họng, mất hứng thú với
những việc xảy ra) bị loại vì không phù hợp đối với
trẻ ở lứa tuổi học đường. Mỗi mục có 4 lựa chọn từ
0 đến 3, với 0= không có vấn đề, 1= nhẹ, 2= trung
bình, 3= vấn đề lớn. Trong nghiên cứu ngày, độ tin
cậy Cronbach’s alpha là 0,83. Bộ câu hỏi hỗ trợ xã
hội (SSQC) phát triển bởi Gordon (2011) [6]. Nó
được sử dụng để đánh giác mức độ hỗ trợ của xã hội
đối với trẻ ở lứa tuổi học đường. Nó bao gồm 7 mục
nhỏ được tính thành tổng điểm. 5 mục nhỏ được dựa
trên sự mô tả về mức độ hỗ trợ từ bố mẹ, họ hàng,
người lớn, bạn bè và anh chị em. Mỗi mục gồm 4 lựa
chọn: 0=không đúng hoặc hiếm khi đúng, 1= thỉnh
thoảng đúng, 2= thường xuyên đúng hoặc rất đúng,
3= luôn luôn đúng. Tuy nhiên, đối với mục anh chị
em, nếu trẻ không có anh chị em thì có thể chọn là
không có (không áp dụng). Trong nghiên cứu ngày,
độ tin cậy Cronbach’s alpha là 0,89.
Xử lý số liệu: Thống kê mô tả và phân tích hồi
quy đa biến để phân tích mối liên quan giữa giới
tính, mức độ nặng của bệnh, sự hỗ trợ xã hội đối với
khả năng tự kiểm soát cơn hen.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng cộng có 91 mẫu được thu thập trong
nghiên cứu này. Độ tuổi trung bình là 9,68 (S.D. =
1,13) trong độ tuổi từ 8-12. Trong đó 47,4% của trẻ
nam. Học sinh lớp 3 chiếm 27,8%, lớp 4: 38,6%,
lớp 5: 20,3%, lớp 6: 9,5%, và lớp 7 là 3,8%. Hầu
hết là con đầu hoặc con thứ hai (chiếm lần lượt là
45,7% và 54,3%). Độ tuổi trung bình của mẹ là
37,58 (S.D. = 2,97) trong độ tuổi từ 35-45, Độ tuổi
trung bình của bố là 41,23 (S.D. = 2,43) trong độ
tuổi 37-45. Hầu hết các bà mẹ có bằng cấp hoặc
trình độ cao đẳng (54,8 %), và đa số các ông bố
có trình độ đại học hoặc hơn (32,8%). Về nghề
nghiệp, nhân viên văn phòng và công nhân là nghề
nghiệp phổ biến ở các bà mẹ (lần lượt là 43,6% và
24,8%), tương tự, nghề nghiệp phổ biến của các
bố là nhân viên văn phòng và nông dân (lần lượt là
53,4% và 21,2%).
Điểm trung bình khả năng tự quản lý cơn hen ở
trẻ là 46,37 (S.D. = 5,66, dao động 35-57), đạt mức
độ từ trung bình đến tốt. Có 3 mức điểm: thấp (13-
30,33), trung bình (30,34-47,67), và tốt (47,68-
65,00). Hầu hết trẻ có khả năng tự quản lý cơn
hen tốt (54,9%). Điểm trung bình mức độ hỗ trợ
xã hội là 80,21 (S.D. = 21,19). Điểm trung bình
mức độ hỗ trợ xã hội từ bố mẹ là 19,98 (S.D. =
3,79), họ hàng là 13,33 (S.D. = 4,57), người lớn
là 17,62 (S.D. = 4,31), bạn bè 18,92 (S.D. = 4,34)
và anh chị em là 19,97 (S.D. = 5,53). Điểm trung
bình mức độ nặng của bệnh là 20,59 (S.D. = 4,32,
range = 15-36) ở mức độ trung bình. Hơn nữa, nó
được chia làm 3 mức độ: nhẹ (0-14.00), trung bình
(14,01-28,00), và nặng (28,01-42,00). Đa số là ở
mức độ trung bình (94,2%).
Phân tích hồi quy đa biến được thực hiện để xác
định mối liên quan giữa giới tính, mức độ nặng của
bệnh, sự ủng hộ xã hội với khả năng tự quản lý cơn
hen của trẻ em lứa tuổi học được. Kết quả cho thấy
giới tính (nam), mức độ nặng của bệnh và sự hỗ trợ
xã hội giải thích cho 48,8% sự khác biệt trong khả
năng tự quản lý cơn hen (F
3, 87
= 22,121, p<0.001).
Giới tính của trẻ (nam) là yếu tố tiên lượng nhất,
chiếm 28,3% trong tiên lượng khả năng tự quản lý
(B= -5,765, p<0,001), tiếp theo là mức độ nặng của
bệnh (B=-0,456, p<0,001) và sự hỗ trợ xã hội (B=
0,059, p<0,05) chiếm lần lượt là 16,2% và 4,3%. Chi
tiết được trình bày ở bảng 1.
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 99
Bảng 1: Phân tích hồi quy đa biến cho khả năng tự quản lý cơn hen
Biến R2 B SE Beta t
Hằng số 55,829 3,141
Giới tính (nam) 0,283 -5,765 0,987 -0,504 -5,853***
Mức độ nặng của bệnh 0,162 -0,456 0,123 -0,385 -4,331***
Sự hỗ trợ xã hội 0,043 0,059 0,027 0,215 2,323*
F
3, 87
R2
22,121***
0,488
***p<0,001, *p<0,05
IV. BÀN LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ em ở lứa tuổi
học đường có điểm trung bình khả năng tự quản lý
cơn hen là 46,37 (S.D. = 5,66, từ 35-57), có mức độ
từ trung bình đến tốt, đa số trẻ ở mức độ tốt (54,9%).
Điều này có thể giải thích rằng trẻ ở lứa tuổi học
đường đang dần trưởng thành và có năng lực để tự
quản lý hành vi của bản thân. Cấu trúc tư duy của trẻ
có tác động quan trọng đến khả năng giải quyết vấn
đề và đưa ra quyết định. Khả năng đưa ra quyết định
có vai trò quan trọng trong khả năng tự quản lý các
bệnh lý mạn tính. Kích thước não của trẻ ở lứa tuổi
học đường bằng khoảng 90% kích thước của người
lớn. Sự phát triển của não trẻ cho phép trẻ thực hiện
các kỹ năng ngày càng phức tạp và kiểm soát được
bản thân. Nó cũng tăng khả năng của trẻ trong việc
giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định [1], [3]. Trẻ
bắt đầu nhận biết tính đúng sai của hành động và tác
động của nó đến người khác. Ngoài ra, hen phế quản
là một bệnh lý mạn tính, trẻ bị hen phải sống cùng
với các triệu chứng trong cuộc sống hằng ngày. Vì
vậy, chúng có kinh nghiệm trong thực hiện các hành
vi tự quản lý cơn hen. Kết quả này cũng tương tự
các nghiên cứu khác đã được tiến hành để xác định
hành vi tự quản lý cơn hen. Bằng cách sử dụng cùng
một công cụ để đo lường hành vi tự quản lý hen,
Kaul (2011) cho thấy phần lớn trẻ em có trình độ tự
quản lý ở mức độ trung bình [8]. Horner (2004) [7]
cũng báo cáo rằng trẻ em được chẩn đoán hen phế
quản trong độ tuổi từ 7 đến 11 có mức độ quản lý
hen ở mức trung bình.
Giới tính (nam) có mối liên quan đáng kể và
ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng tự quản lý cơn hen
(B= -5,765, p<0,001). Điều này có nghĩa là trong số
trẻ em bị hen, trẻ gái có khả năng tự kiểm soát cơn
hen tốt hơn trẻ nam. Phát hiện này phù hợp với học
thuyết nhận thức xã hội. Theo Bandura (1997) [1] mô
tả rằng, sự khác biệt giới tính ảnh hưởng đến nhận
thức, kinh nghiệm xử lý, khả năng và thực hiện hành
vi tự quản lý. Kết quả cũng tương tự như các nghiên
cứu trước đây. Rhee và cộng sự (2009) đã báo cáo
rằng sự khác biệt giới tính đã được tìm thấy với các
trẻ nam có khuynh hướng không thực hiện các hành
vi tự quản lý hơn so với trẻ nữ [11]. Từ các nghiên
cứu trước đó cho kết quả rằng nữ có động lực để học
hỏi kỹ năng mới sớm hơn và tự lập hơn trong việc
tự quản lý so với trẻ nam ở cùng độ tuổi.
Mức độ nghiêm trọng của bệnh tật cũng có liên
quan tiêu cực và dự đoán đáng kể trong khả năng tự
quản lý (B=-0,456, p<0,001). Điều này có nghĩa là
trẻ em ở lứa tuổi học đường có mức độ bệnh nặng có
khả năng tự quản lý cơn hen thấp. Phát hiện này phù
hợp với Học thuyết nhận thức xã hội của Bandura
(1997) đã nói rằng mức độ nghiêm trọng của bệnh tật
có thể ảnh hưởng đến trạng thái thể chất và tình cảm
ảnh hưởng đến khả năng và sự phán đoán của một
người [1]. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu
trước đó. Bruzzese và cộng sự năm 2002 kết luận
rằng trẻ bị hen nặng với các triệu chứng hen xuất
hiện dai dẳng thường có khả năng kiểm soát cơn
hen kém [2]. Nghiên cứu thực hiện bởi Raherison
và cộng sự năm 2000 mô tả khả năng tự kiểm soát
cơn hen ở trẻ vị thành niên và thanh thiếu niên bằng
nghiên cứu mô tả cắt ngang. Họ xác định số trẻ vị
100 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Khả năng tự quản lý cơn hen ở trẻ em...
thành niên tham gia nghiên cứu sử dụng thuốc nếu
như các triệu chứng nặng của bệnh kéo dài. Tỷ lệ sử
dụng thuốc ở trẻ vị thành niên bị hen ở mức độ trung
bình chiếm tỷ lệ nhiều nhất (31,8%), ở mức độ nhẹ
(20,7 %) và chỉ 4,8% ở mức độ nặng. Kết quả này
cho thấy triệu chứng nặng của bệnh có liên quan đến
mức độ tự quản lý thấp [12]. Theo Motlow và Ozual
(2003), kết quả của họ cho thấy là 33% số trẻ vị
thành niên có các triệu chứng hằng ngày và 24,5%
có các triệu chứng xuất hiện mỗi tuần được điều
trị bằng corticoid dạng hít. Tuy nhiên, trẻ vị thành
niên có triệu chứng hàng ngày có khả năng tự quản
lý cơn hen kém khi so với trẻ vị thành niên có triệu
chứng xuất hiện mỗi tuần hay mỗi tháng.
Sự hỗ trợ xã hội có mối liên quan tích cực và dự
đoán đáng kể trong tiên lượng khả năng tự quản lý
cơn hen (B= 0,059, p<0,05). Điều này có nghĩa là
trẻ em ở lứa tuổi học được sự hỗ trợ tốt từ xã hội
có khả năng tự quản lý tốt. Kết quả này phù hợp
với học thuyết nhận thức xã hội của Bandura (1997)
nhấn mạnh sự quan trọng của hỗ trợ xã hội tạo điều
kiện cho cá nhân thực hiện hành vi tự quản lý [1].
Kết quả này tương tự với các nghiên cứu trước đây.
Yang và cộng sự cho thấy rằng có một mối liên kết
giữa lối sống lành mạnh để quản lý cơn hen với sự
hỗ trợ của bố mẹ và bạn bè trong quản lý cơn hen
cấp, tránh các yếu tố khởi phát cơn hen, hoạt động
thể chất (lần lượt β = 0,45, β = 0,26) ở trẻ từ độ tuổi
9-14 [14]. Trong các nghiêu cứu khác của Rhee và
cộng sự (2010), họ nêu ra rằng mức độ hỗ trợ tốt từ
phía gia đình có mối liên quan với mức độ kiểm soát
cơn hen tốt và chất lượng cuộc sống cao, và để đạt
được kết quả này cần phải vượt qua nhiều rào cản.
Họ nhận ra rằng có mối liên hệ tương đối giữa sự
hỗ trợ của gia đình và kiểm soát cơn hen (β=0,16,
p=0,05, r2=0,16) [10].
Sự phát hiện này khuyến nghị rằng điều dưỡng
và nhân viên y tế làm việc với trẻ hen có thể tăng
cường khả năng tự quản lý cơn hen ở trẻ lứa tuổi học
đường thông qua tăng cường sự hỗ trợ xã hội đặc
biệt ở trẻ nam và trẻ có mức độ bệnh nặng. Hơn nữa,
họ cũng có thể giáo dục trẻ và người nhà để tăng
cường kiến thức, khả năng tự quản lý của trẻ. Can
thiệp của nghiên cứu cần thực hiện để tăng sự hỗ trợ
từ phía gia đình trẻ. Những nghiên cứu dài hạn cần
được thực hiện để theo dõi sự gia tăng khả năng tự
quản lý cơn hen của trẻ.
V. KẾT LUẬN
Khả năng tự kiểm soát cơn hen ở trẻ lứa tuổi học
đường ở mức từ trung bình đến cao. Hỗ trợ xã hội
đặc biệt là bố mẹ, anh chị em và bạn bè là yếu tố
quan trọng để nâng cao khả năng quản lý thuốc điều
trị hen. Các biện pháp can thiệp đối với trẻ nam và
cải thiện mức độ nặng của bệnh có thể cải thiện sự
hiểu biết và kiểm soát cơn hen hiệu quả ở trẻ em lứa
tuổi học đường.
Kết quả của nghiên cứu này đặc biệt có ý nghĩa
đối với điều dưỡng và các nhân viên y tế để phát
triển các hoạt động và chương trình can thiệp nhằm
tăng cường và thúc đẩy khả năng tự kiểm soát cơn
hen ở trẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bandura, A. Self-efficacy: The exercise of
control. 1997. New York: W. H. Freeman.
2. Bruzzese JM, Chew GL, Evans D. Asthma
prevalence, severity, and management among
New York City adolescents.Journal of Allergy
and Clinical Immunology 2002,109(1), S 175
3. Burns CE, Dunn AM, Brady MA, Starr NB,
Blosser CG. Pediatric primary care (5th ed).
Philadelphia: Elsevier. 2013
4. Clark, N. M., Gong, M., Schork, M. A., Evans,
D., Roloff, D., Hurwitz, M, Maiman, L.,
&Mellins, R. B. (1998).Impact of education
for physicians on patient outcomes.Pediatrics,
101(5), 831-836.
5. Jacobs B, Young N, Dick P, Ipp M, Dutkowski
R, Davies H, Langley J, Greenberg S, Stephens
D, Wang E. Canadian acute respiratory illness
and flu scale (CARIFS): Development of a valid
measure for childhood respiratory infections.
Journal of Clinical Epidemiology 2000, 53(8),
793-799.
6. Gordon TA. Assessing social support in
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 101
children: Development and initial validation
of the social support questionnaire for
children.Doctoral dissertation, Department
of Psychology, Graduate School Faculty,
Louisiana State University and Agriculture and
Mechanical College. 2011.
7. Horner SD. Effect of education on school-age
children’s and parent’s asthma management.
Journal for Specialist in Pediatric Nursing
2004, 9(3), 95-102.
8. Kaul T. Helping African American children self-
manage asthma: The importance of self-efficacy.
Journal of School Health 2011, 81(1), 29-33.
9. Kieckhefer G M, Spitzer A. School-age children’s
understanding of the relations between their
behavior and their asthma management. Clinical
Nursing Research 2001, 4(2), 149-167
10. Rhee H, Belyea MJ, BraschJ. Family support
and asthma outcomes in adolescents: Barriers to
adherence as a mediator. Journal of Adolescent
Health 2010, 47(5), 472-478.
11. Rhee H, Belyea M, Ciurzynski S, BraschJ. Barriers
to asthma self-management in adolescents:
Relationships to psychosocial factors. Pediatric
Pulmonology 2009, 44(2), 183-191
12. Raherison C, Tunon-de-Lare M, Vernejoux
JM, Taytard A. Practical evaluation of asthma
exacerbation self-management in children
and adolescents. Respiratory Medicine 2000,
94(11), 1047-1052.
13. World Health Organization. Asthma.2013.
(Accessed at centre/
factsheets/fs307/en/)
14. Yang TO, Sylva K, Lunt I. Parent support,
peer support, and peer acceptance in healthy
lifestyle for asthma management among early
adolescent. Journal for Specialists in Pediatric
Nursing 2010, 15(4), 272-281.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
kha_nang_tu_quan_ly_con_hen_o_tre_em_lua_tuoi_hoc_duong_tai.pdf