Khả năng ức chế của một số loại thuốc sát trùng đối với noãn nang cầu trùng gà trong điều kiện phòng thí nghiệm

Ngoài 2 thuốc sát trùng trên, Virkon được sử dụng rộng rãi trong việc đảm bảo an toàn sinh học tại các trang trại, được chứng minh là có tác dụng ngừa virus, vi khuẩn và nấm. Thành phần của Virkon bao gồm oxone, natri clorua và các chất đệm vô cơ khác. Các nghiên cứu trước đó đã chứng minh natri clorua và kali peroxymonosulfate không có tác dụng gì đối với với noãn nang cầu trùng (You, 2014; Fraise và ctv, 2013), tương tự với thí nghiệm của chúng tôi khi không thấy tác động đáng kể ức chế sự phát triển của noãn nang, cho thấy việc sát trùng bằng Virkon tại các trang trại không có khả năng ngăn ngừa bệnh cầu trùng gà. Trong số các thuốc sát trùng sử dụng, Javen và Iod cho thấy tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử thấp nhất khi ủ với hai thuốc sát trùng này, lần lượt là 14±5,66 và 18%. Dung dịch Javen từ lâu đã được sử dụng rộng rãi để sát trùng bề mặt cứng (thuốc tẩy gia dụng), bao gồm hai hoạt chất chính tác dụng sát trùng trong javen là NaClO và NaCl. Trong khi natri clorua (NaCl) không có tác động gì đối với noãn nang cầu trùng, thí nghiệm của Ryley vào năm 1973 chứng minh rằng lớp vỏ ngoài của noãn nang có thể bị loại bỏ nhờ natri hypochlorite (NaClO); tương tự như thí nghiệm của chúng tôi là hầu hết noãn nang vỡ vỏ giải phóng bào tử ra bên ngoài (Hình 3F). Một số nghiên cứu đã sử dụng thành công NaClO để tinh sạch noãn nang cầu trùng khi thu từ trong phân gà (Wagenbach và ctv, 1966; Nyberg và ctv, 1968). Kết quả thu được trong nghiên cứu này cũng cho thấy giảm đáng kể sự hình thành bào tử của noãn nang khi sử dụng Javen, ức chế khoảng 60% số lượng noãn nang. Trong nước, natri hypochlorite ion hóa để tạo ra Na+, và ion hypochlorite (OCl−) ở trạng thái cân bằng với axit hypochlorous (HOCl), đây là một tác nhân oxy hóa mạnh có khả năng phá hủy các protein của noãn nang (Dychdala, 1991; Bloomfield, 1996). Iod có tác động khử trùng bằng cách làm giảm nhu cầu oxy của vi sinh vật hiếu khí, giảm quá trình hô hấp. Iod can thiệp chuỗi hô hấp của vi sinh vật bằng cách ngăn chặn sự vận chuyển điện tử thông qua các phản ứng điện di với các enzyme của chuỗi truyền điện tử trong quá trình hô hấp. Noãn nang cầu trùng rất cần O2 để phát triển đến giai đoạn hình thành bào tử, việc Iod làm ức chế khả năng sử dụng O2 sẽ làm giảm khả năng phát triển của cầu trùng. Tuy nhiên, thí nghiệm của Guimarães (2007) xử lý cầu trùng với Iod trong vòng 30 phút, sau đó tiếp tục nuôi trong vòng 4 tiếng cho kết quả ức chế phát triển cầu trùng kém. Ở thí nghiệm này, khi cầu trùng được ngâm hoàn toàn trong Iod, thì tỷ lệ noãn nang hình thành bảo từ lại thấp hơn rất nhiều so với các thuốc sát trùng khác. Bên cạnh đó, iod nguyên tử hoàn toàn có khả năng xâm nhập qua lớp vỏ noãn nang và phát huy tác dụng (Anderson và Mallmann, 1943). Theo như kết quả trên, Javen và Iod cho thấy khả năng ức chế noãn nang tốt, khi tỷ lệ hình thành bào tử sau 7 ngày đều dưới 20%.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng ức chế của một số loại thuốc sát trùng đối với noãn nang cầu trùng gà trong điều kiện phòng thí nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 202090 ALT) activity in broiler chickens. Rev. Cie.-Fac. Cie. Vet., 16(1): 39-47. 13. Mishra H.N. and Das C. (2003). A review on biological control andmetabolism of aflatoxin. Crit. Rev. Food Sci. Nut., 43(3): 245-64. 14. Mohsen B., Mohammad C., Seyed N.M., Seyed A.H. and Maryam T.A.E. (2018). Effects of biological and mineral compounds in aflatoxin-contaminated diets on blood parameters and immune response of broiler chickens. J. App. Ani. Res., 46(1): 707-13. 15. Nguyễn Hữu Nam (1999). Một số chỉ tiêu biến đổi bệnh lý trên gà nhiễm độc Aflatoxin B1 thực nghiệm, Luận án tiến sỹ nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I. Hà Nội. 16. Oguz H., F. Kurtoglu, V. Kurtoglu and Y.O.Birdane (2002). Evaluation of biochemical characters of broiler chickens during dietaryaflatoxin (50 and 100ppb) and clinoptilolite exposure. Res. Vet. Sci., 73: 101-03. 17. Lê Anh Phụng và Dương Thanh Liêm (2001). Biến đổi các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu vịt CV super M khi bổ sung Mycosorb vào khẩu phần có các mức aflatoxin khác nhau. Tập san KHKT Nông Lâm Nghiệp, Đại học Nông lâm TP HCM, 1: 170-76. 18. Smela M.E., Currier S.S., Bailey E.A. and Essigmann J.M. (2001). Thechemistry and biology of aflatoxin B1: from mutational spectro-metry to carcinogenesis. Carcinogenesis, 22(4): 535-45. 19. Chu Văn Thanh (1996). Ảnh hưởng của aflatoxin B1 có trong thức ăn chăn nuôi đối với sự phát triển và một số biến đổi sinh lý, sinh hóa, giải phẫu bệnh lý của vịt siêu thịt CV super meat, Luận án phó tiến sỹ khoa học nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp I. 20. Thaxton J.P., Tung H.T. and Hamilton P.B (1974). Immunosuppression in chickens by aflatoxin. Poul. Sci., 53(2): 721-25. 21. Tung H.T., Wyatt R.D. Thaxton and Hamilton P.D. (1975). Concentrations of serum proteins during aflatoxicosis, Toxicol App. Pha., 34: 320-26. 22. Xin-Yan. H., Qi-Chun H., Wei-Fen L., Jun-Fang J. and Zi-Rong X. (2008). Changes in growth performance, digestive enzyme activities and nutrient digestibility of cherry valley ducks in response to aflatoxin B1 levels. Liv. Sci., 119: 216-20. 23. Umar S., A. Arshad, B. Ahmad and M. Arshad (2012). Clinico biochemical and hemato-logical changes in broilers induced by concurrent exposure to aflatoxin B1 and ochratoxin A. J. Pub. Health Bio. Sci., 1: 79-85. 24. Valchev I., Kanakov D., Hristov T.S., Lazarov L., Binev R., Grozeva N. and Nikolov Y. (2014). Effects of experimental aflatoxicosis on renal function in broiler chickens. Bulg. J. Vet. Med., 17(4): 314-24. KHẢ NĂNG ỨC CHẾ CỦA MỘT SỐ LOẠI THUỐC SÁT TRÙNG ĐỐI VỚI NOÃN NANG CẦU TRÙNG GÀ TRONG ĐIỀU KIỆN PHÒNG THÍ NGHIỆM Bùi Khánh Linh1*, Trần Thị Chi1, Công Hà My1, Vũ Hoài Nam1, Nguyễn Thị Tình1, Bùi Thị Huyền Thương1, Phạm Thu Hương1 và Lê Thị Lan Anh1 Ngày nhận bài báo: 02/01/2020 - Ngày nhận bài phản biện: 05/02/2020 Ngày bài báo được chấp nhận đăng: 08/02/2020 TÓM TẮT Sử dụng các loại thuốc sát trùng trong quá trình chăn nuôi gia cầm luôn là phương pháp an toàn sinh học cần thiết và được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, đa số các loại thuốc sát trùng thông thường hiện nay không có khả năng tiêu diệt noãn nang cầu trùng. Xử lý noãn nang cầu trùng với 5 loại thuốc sát trùng Virkon 1%, Javen 5%, Omnicide 0,8%, Andekol 0,5% and Iod 1% trong vòng 4 giờ, sau 7 ngày tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử rất cao, trong khoảng 60% đến 90%. Noãn nang được ngâm hoàn toàn trong thuốc sát trùng Virkon, Omnicide và Andekol trong 7 ngày vẫn có tỷ lệ hình thành bào tử cao, lần luợt là 64, 55 và 49%. Javen và Iod cho thấy khả năng ức chế noãn nang tốt, khi tỷ lệ hình thành bào tử sau 7 ngày đều dưới 20%. Từ khoá: Cầu trùng, noãn nang, thuốc sát trùng. ABSTRACT The efficiency of disinfectants on the Eimeria Oocysts in laboratory condition The use of disinfectants during poultry production is a necessary and widely used biosecurity method. However, most of the common disinfectants are not capable of disrupting or inhibiting 1 Học viện Nông nghiệp Việt Nam *Tác giả liên hệ: TS. Bùi Khánh Linh. Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Tel: 0888945599. Email: bklinh5@gmail.com CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 2020 91 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Khi nhắc tới ngành chăn nuôi gia cầm, không thể không nhắc tới bệnh do đơn bào Eimeria spp. gây ra. Bệnh nguy hiểm không chỉ vì mức độ phổ biến ở các trại chăn nuôi, mà còn do thiệt hại bệnh gây ra không dễ dàng nhận thấy, tuy không gây chết nhanh chóng nhưng làm giảm đáng kể khối lượng gia cầm, dẫn tới giảm năng suất, gây thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi. Hơn nữa, gà nhiễm bệnh có khả năng thải noãn nang trực tiếp ra ngoài môi trường và phát triển đến giai đoạn có khả năng gây nhiễm, vì vậy công tác vệ sinh chăn nuôi và khử trùng sẽ đem lại hiệu quả to lớn trong việc phòng ngừa bệnh. Để tiêu diệt noãn nang, quá trình xử lý nhiệt yêu cầu nhiệt độ 70-80oC, khiến điều này không thể thực hiện được với quy mô sản xuất lớn, hay không phù hợp với khả năng của nhiều trại chăn nuôi (Chroustová và ctv, 1987). Các loại thuốc sát trùng hiện nay sử dụng với mục đích là để tiêu diệt các loại mầm bệnh nói chung như vi khuẩn, virus và nấm. Tuy nhiên, tác động của những loại thuốc này lên noãn nang cầu trùng vẫn còn chưa được đánh giá một cách chính xác. Do đặc điểm của noãn nang có lớp vỏ dày, kết cấu bền vững bao bên ngoài nên có khả năng đề kháng với nhiều loại thuốc sát trùng, hạn chế sự xâm nhập của thuốc vào trong noãn nang. Thí nghiệm này được tiến hành để đánh giá tác động tới noãn nang cầu trùng của một số loại thuốc sát trùng thông thường được sử dụng phổ biến trong chăn nuôi hiện nay, nhằm tìm ra loại thuốc phù hợp để giảm thiểu mầm bệnh ngoài môi trường, cải thiện hiệu quả phòng chống bệnh cầu trùng. 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Vật liệu Noãn nang cầu trùng gà được thu từ các cá thể gà trên địa bàn Gia Lâm, Trâu Quỳ, Hà Nội. Các loại thuốc sát trùng được mua tại các quầy bán thuốc thú y tại Trâu Quỳ và Hưng Yên. Nghiên cứu được thực hiện tại phòng thí nghiệm Ký sinh trùng, Khoa Thú y, Học viện Nông nghiệp Việt Nam từ tháng 5/2019 đến tháng 12/2019. 2.2. Phương pháp 2.2.1. Thu noãn nang cầu trùng gà Mẫu phân gà cho vào cốc thủy tinh, đổ 90ml nước muối bão hòa rồi khuấy đều, lọc qua lưới lọc sang cốc khác. Dung dịch thu được đổ vào 6 ống falcon 15ml, mỗi ống đổ đến vạch 13ml. Ly tâm bằng máy ly tâm lạnh với tốc độ 6.000 vòng/phút trong 10 phút. Lấy 6 ống ra khay đựng, hút 1-1,5ml phần nổi/ống sang 6 ống falcon 15ml khác, bổ sung thêm nước thường đến vạch 13ml, ly tâm với tốc độ 6.000 vòng/phút trong 10 phút. Tiếp tục hút bỏ phần nổi đến vạch 1ml hoặc 0,5ml. Hút phần dung dịch còn lại ở 6 ống sang ống eppendorf, ly tâm với tốc độ 12.000 vòng/phút trong 10 phút, hút bỏ phần nổi đến vạch 0,3ml hoặc thấp hơn. Noãn nang cầu trùng sau khi thu được chia vào mỗi ống 104 noãn nang và bổ sung dung dịch dựa theo thí nghiệm. 2.2.2. Đánh giá tác động của thuốc sát trùng đối với noãn nang trong phòng thí nghiệm Thuốc sát trùng được pha theo các tỷ lệ khác nhau với nước cất theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Thuốc sát trùng pha loãng với tỷ lệ: Aldekol DES FF (Goovet): 0,5%; Javen: 5%; Virkon™ S (Bayer): 1%; Omnicide (Coventry Chemical LTD): 0.8%; Iodine (RTD GROUP): 1%. sporulation of Eimeria oocysts. Treatment of coccidia oocysts with 5 disinfectants includes Virkon 1%, Javen 5%, Omnicide 0.8%, Andekol 0.5% and Iod 1% within 4hrs, the rate of sporulation was significantly high, ranging from 60% to 90% at day 7th. The proportion of oocyst sporulation when fully immersed in Virkon, Omnicide and Andekol for 7 days was 64, 55 and 49%, respectively. The best disinfectants efficacy was observed in Javen and Iod, at less than 20%. Keyword: Disinfectants, Eimeria, oocyst. CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 202092 * Thí nghiệm 1: Đánh giá tác động đối với sự hình thành bào tử của noãn nang khi ủ với thuốc sát trùng trong vòng 4 giờ Ủ noãn nang trong các dung dịch thuốc sát trùng trong vòng 4h, tiếp đó ly tâm, rửa sạch 3 lần với nước cất và chuyển sang dung dịch K2Cr2O7 để đánh giá khả năng phát triển của noãn nang. Thí nghiệm được chia làm 6 lô: Lô 1: ĐC âm - dung dịch K2Cr2O7 Lô 2: Dung dịch Aldekol 0.5% Lô 3: Dung dịch Javen 5% Lô 4: Dung dịch Virkon 1% Lô 5: Dung dịch Omnicide 0.8% Lô 6: Dung dịch Iodine 1% * Thí nghiệm 2: Đánh giá tác động đối với sự hình thành bào tử của noãn nang khi ủ với thuốc sát trùng trong vòng 7 ngày Ủ noãn nang trong các dung dịch thuốc sát trùng và kiểm tra tác động của dung dịch đối với noãn nang sau mỗi 24h, quan sát trong vòng 7 ngày. Thí nghiệm được chia làm 6 lô như TN1, ngoại trừ lô 1: Lô ĐC âm - nước cất. Các lô được nuôi trong các điều kiện phòng (25oC-27oC). Theo dõi hằng ngày, kiểm tra sự phát triển của noãn nang cầu trùng trong từng lô thí nghiệm. Trộn đều môi trường chứa noãn nang, dùng micropipete hút dung dịch lên phiến kính và đậy lamen. Kiểm tra dưới kính hiển vi vật kính x40 để đếm số lượng cầu trùng và theo dõi sự hình thành bào tử. Tỷ lệ hình thành bào tử là tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử trong 100 noãn nang kiểm tra ngẫu nhiên trong mỗi lô. 2.3. Xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng phương pháp thống kê sinh học trên phần mềm Microsoft Exel 2019. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Tác động đối với sự hình thành bào tử của noãn nang khi ủ với thuốc sát trùng trong 4 giờ Theo dõi khả năng phát triển của noãn nang ở các lô thí nghiệm sau khi ủ trong thuốc sát trùng trong 4 giờ, quan sát sự phát triển bào tử và tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử được thể hiện ở Hình 1. Dung dịch K2Cr2O7 là môi trường có khả năng ngăn ngừa sự phát triển của một số vi khuẩn, giàu oxy cho noãn nang phát triển nên tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử tăng dần qua 7 ngày, từ 63,7±5,7% ở ngày 1 đến 96±1% ở ngày thứ 7. Tỷ lệ này tăng tương tự đối với lô ủ với Aldekol, đạt 89±1%. Đối với lô sử dụng Virkon, tỷ lệ này dao động trong 65-75% từ ngày thứ 2 đến ngày cuối cùng. Không có sự khác biệt đáng kể giữa 3 lô sử dụng Omnicide, Iodine và Virkon, ở ngày thứ 7 tỷ lệ phát triển của noãn nang vẫn rất cao, trên 70%. Chỉ có duy nhất lô sử dụng Javen, tỷ lệ phát triển có xu hướng giảm dần, chỉ còn 40.33±6.3%. Hình 1. Tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử sau khi ủ với các loại thuốc sát trùng trong vòng 4 giờ (%, n=106) CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 2020 93 3.2. Tác động đối với sự hình thành bào tử của noãn nang khi ủ với thuốc sát trùng 7 ngày Sau khi ủ noãn nang với các dung dịch và kiểm tra tác động của dung dịch đối với noãn nang sau mỗi 24 giờ, quan sát trong vòng 7 ngày. Có thể thấy tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử ở ba lô Andekol, Omnicide, Virkon vẫn rất cao. Lô noãn nang ủ với Virkon tăng mạnh nhất so với các lô thử thuốc sát trùng, tăng gần 50% sau 7 ngày. Tỷ lệ này giảm nhẹ đối với lô Adekol và Omnicide ở ngày thứ 7, tuy nhiên xấp xỉ 50% số lượng noãn nang vẫn có khả năng hình thành bào tử. Nhìn chung, tỷ lệ phát triển của noãn nang ở 3 lô này thấp hơn so với lô ĐC âm, tuy nhiên trong điều kiện thực tế, số lượng noãn nang ở giai đoạn gây nhiễm vẫn có khả năng tồn tại nhiều ngoài môi trường, gây rủi ro cao trong việc chăn nuôi gia cầm. Lô ủ với Javen và Iodine có tác dụng rõ rệt trong việc ức chế noãn nang hình thành bào tử, giúp ức chế hình thành bào 56- 60% so với lô đối chứng âm ở ngày thứ 7. Hình 2. Tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử sau khi ủ với các loại thuốc sát trùng trong 7 ngày (%, n=106) 3.3. Hình thái noãn nang cầu trùng sau khi ủ trong thuốc sát trùng Noãn nang cầu trùng gà ở điều kiện bình thường có vỏ dày, gồm 2 lớp (Hình 3A); lớp vỏ ngoài bao gồm carbohydrate và protein, lớp vỏ bên trong bao gồm 1,5% carbohydrate, 30% lipid and 70% protein (Ryley, 1973). Sau 7 ngày, noãn nang cầu trùng ở lô Virkon, Omnicide và Aldekol, vẫn giữ được cấu trúc vỏ với 4 bào tử nguyên vẹn bên trong noãn nang (Hình 3D). Đối với lô ủ trong Aldekol và Omnicide, không quan sát được sự tổn thương nào ở lớp vỏ và bào tử bên trong, tuy nhiên lớp vỏ ngoài trở nên mỏng hơn (Hình 3B, C). Tương tự, vỏ noãn nang ủ với Iodine cũng trở nên mỏng hơn và còn quan sát thấy sự phá huỷ bào tử ở bên trong (Hình 3E). Ngoài ra, hầu hết noãn nang ở lô ủ với Javen đều vỡ vỏ, phá huỷ cấu trúc noãn nang, quan sát được nhiều vỏ noãn nang trong dung dịch (Hình 3F). Việc khử trùng chuồng trại là bước quan trọng để giảm thiểu số lượng noãn nang cầu trùng tại các trang trại. Tuy nhiên, việc lựa chọn thuốc tẩy trừ cầu trùng hiện nay vẫn đang là một vấn đề đáng lo ngại do noãn nang cầu trùng khi ở ngoài môi trường có vỏ dày giúp kháng lại nhiều tác nhân cơ học và hoá học. Trong phòng thí nghiệm, để phá vỡ vỏ noãn nang cần đòi hỏi lắc với tốc độ cao cùng bi thuỷ tinh hoặc sử dụng đánh sóng siêu âm (Kaya và ctv, 2007). Thành noãn nang cũng có khả năng chống các chất sát trùng tan trong nước có khả năng phân giải protein, trong đó bao gồm nhiều chất tẩy rửa và chất khử trùng (Monné, 1954; Ryley, 1973). Tuy nhiên, vỏ noãn nang cầu trùng có những lỗ nhỏ là công cụ để thông khí, một số hoá chất có thể xâm nhập vào noãn nang thông qua đó. CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 202094 Trong thí nghiệm của chúng tôi, sau khi ủ với thuốc sát trùng 4 giờ và chuyển sang K2Cr2O7 để đánh giá khả năng phát triển, tỷ lệ hình thành bào tử sau 7 ngày đều cao (>70%), ngoại trừ lô ủ trong Javen. Điều này cho thấy hầu hết thuốc sát trùng sử dụng trong TN không có tác dụng với noãn nang trong thời gian ngắn. Do vậy, một số trang trại/phòng TN sử dụng thuốc sát trùng với 1 lần khử trùng có thể sẽ không có tác dụng trong việc tiêu diệt noãn nang cầu trùng, dẫn đến tỷ lệ nhiễm/tái nhiễm cầu trùng vẫn cao, gây khó khăn trong công tác chăn nuôi gia cầm. Một số lô sử dụng thuốc sát trùng có tỷ lệ noãn nang phát triển cao hơn lô ĐC âm có thể do thuốc sát trùng có tác dụng tốt trong việc tiêu diệt vi khuẩn nhưng không có khả năng phá huỷ vỏ noãn nang đồng thời một số hoá chất có tính kiềm có tác dụng bào mòn vỏ noãn nang nhưng không phá huỷ mà kích thích noãn nang sinh bào tử nhanh hơn do tác động nhiệt sinh ra. Đối với thí nghiệm ủ toàn bộ noãn nang trong thuốc sát trùng trong vòng 7 ngày, tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử vẫn lên tới 50% ở hai lô ủ với Aldekol và Omnicide. Trong thành phần của Aldekol gồm có hoạt chất chính là Glutaraldehyde và Ammonium chlorides. Thành phần của Omnicide cũng chứa glutaraldehyde, và ngoài ra còn chứa cocobenzyl dimethyl ammonium là hợp chất amino bậc 4 được chứng minh có khả năng diệt được các vi khuẩn, virus, nấm,.. Glutaraldehyd có phổ hoạt động rộng chống lại nhiều vi khuẩn và bào tử, nấm và virus. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh glutaraldehyd có khả năng liên kết mạnh mẽ với lớp vỏ ngoài của vi sinh vật như E. coli và Staphylococcus aureus (Munton và ctv, 1971; 1973); ức chế hoạt động của enzyme dehydrogenase (Munton và ctv, 1973) và enzyme periplasmic (Gorman và ctv, 1977), phòng ngừa sự phân giải do lysostaphin gây ra ở S. aureus (Russell và ctv, 1975) và do natri lauryl sulfate gây ra ở (A) (B) (C) (D) (E) (F) Hình 3. Hình thái noãn nang cầu trùng sau khi ủ trong thuốc sát trùng ngày thứ 7 (A) Noãn nang cầu trùng ở lô đối chứng âm (nước cất) (B) Noãn nang cầu trùng ủ với Aldekol (C) Noãn nang cầu trùng ủ với Omnicide (D) Noãn nang cầu trùng ủ với Virkon (E) Noãn nang cầu trùng ủ với Iodine (F) Noãn nang cầu trùng ủ với Javen CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 2020 95 E. coli (Munton và ctv, 1973) và ức chế tổng hợp RNA, DNA và protein (McGucken và ctv, 1973). Trong khi đó quá trình hình thành bào tử của noãn nang chịu ảnh hưởng của nhiều loại vi khuẩn khác và độc tố chúng tiết ra. Noãn nang phát triển kém hơn khi được nuôi trong môi trường đã nuôi cấy E. Coli đã được chứng minh trước đó (Soliman và ctv, 2018). Khả năng tiêu diệt các loài vi khuẩn của các thuốc sát trùng này có thể đã tạo điều kiện thuận lợi cho noãn nang phát triển hình thành bào tử. Có thể thấy ở Hình 3B, noãn nang có vỏ mỏng, bào tử bé hơn so với lô đối chứng âm (Hình 3A) nhưng noãn nang còn nguyên vẹn, không thấy sự phá vỡ. Tương tự như noãn nang ở lô Omnicide không thấy sự phá vỡ và không khác biệt đáng kể với lô đối chứng (Hình 3C). Trong thí nghiệm Chroustová vào năm 1987, sử dụng glutaraldehyde ở nồng độ 10% trong vòng 24 giờ, tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử đạt 92,9%, không khác biệt đáng kể so với lô đối chứng âm. Tương tự, thí nghiệm của You năm 2014 sử dụng muối ammonium bậc 4 5% cho thấy muối này không có khả năng ức chế noãn nang hình thành bào tử, ngay cả khi kết hợp với aldehyde cũng không quan sát thấy tác động rõ rệt. Chưa có cơ chế nào chứng minh hai hợp chất có trong Aldekol và Omnicide có tác dụng đối với đơn bào, kết quả này thấy khả năng ức chế noãn nang hình thành bào tử của hai thuốc này không đáng kể. Ngoài 2 thuốc sát trùng trên, Virkon được sử dụng rộng rãi trong việc đảm bảo an toàn sinh học tại các trang trại, được chứng minh là có tác dụng ngừa virus, vi khuẩn và nấm. Thành phần của Virkon bao gồm oxone, natri clorua và các chất đệm vô cơ khác. Các nghiên cứu trước đó đã chứng minh natri clorua và kali peroxymonosulfate không có tác dụng gì đối với với noãn nang cầu trùng (You, 2014; Fraise và ctv, 2013), tương tự với thí nghiệm của chúng tôi khi không thấy tác động đáng kể ức chế sự phát triển của noãn nang, cho thấy việc sát trùng bằng Virkon tại các trang trại không có khả năng ngăn ngừa bệnh cầu trùng gà. Trong số các thuốc sát trùng sử dụng, Javen và Iod cho thấy tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử thấp nhất khi ủ với hai thuốc sát trùng này, lần lượt là 14±5,66 và 18%. Dung dịch Javen từ lâu đã được sử dụng rộng rãi để sát trùng bề mặt cứng (thuốc tẩy gia dụng), bao gồm hai hoạt chất chính tác dụng sát trùng trong javen là NaClO và NaCl. Trong khi natri clorua (NaCl) không có tác động gì đối với noãn nang cầu trùng, thí nghiệm của Ryley vào năm 1973 chứng minh rằng lớp vỏ ngoài của noãn nang có thể bị loại bỏ nhờ natri hypochlorite (NaClO); tương tự như thí nghiệm của chúng tôi là hầu hết noãn nang vỡ vỏ giải phóng bào tử ra bên ngoài (Hình 3F). Một số nghiên cứu đã sử dụng thành công NaClO để tinh sạch noãn nang cầu trùng khi thu từ trong phân gà (Wagenbach và ctv, 1966; Nyberg và ctv, 1968). Kết quả thu được trong nghiên cứu này cũng cho thấy giảm đáng kể sự hình thành bào tử của noãn nang khi sử dụng Javen, ức chế khoảng 60% số lượng noãn nang. Trong nước, natri hypochlorite ion hóa để tạo ra Na+, và ion hypochlorite (OCl−) ở trạng thái cân bằng với axit hypochlorous (HOCl), đây là một tác nhân oxy hóa mạnh có khả năng phá hủy các protein của noãn nang (Dychdala, 1991; Bloomfield, 1996). Iod có tác động khử trùng bằng cách làm giảm nhu cầu oxy của vi sinh vật hiếu khí, giảm quá trình hô hấp. Iod can thiệp chuỗi hô hấp của vi sinh vật bằng cách ngăn chặn sự vận chuyển điện tử thông qua các phản ứng điện di với các enzyme của chuỗi truyền điện tử trong quá trình hô hấp. Noãn nang cầu trùng rất cần O2 để phát triển đến giai đoạn hình thành bào tử, việc Iod làm ức chế khả năng sử dụng O2 sẽ làm giảm khả năng phát triển của cầu trùng. Tuy nhiên, thí nghiệm của Guimarães (2007) xử lý cầu trùng với Iod trong vòng 30 phút, sau đó tiếp tục nuôi trong vòng 4 tiếng cho kết quả ức chế phát triển cầu trùng kém. Ở thí nghiệm này, khi cầu trùng được ngâm hoàn toàn trong Iod, thì tỷ lệ noãn nang hình thành bảo từ lại thấp hơn rất nhiều so với các thuốc sát trùng khác. Bên cạnh đó, iod nguyên tử hoàn toàn có khả năng xâm nhập qua lớp vỏ CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC KHKT Chăn nuôi số 259 - tháng 9 năm 202096 noãn nang và phát huy tác dụng (Anderson và Mallmann, 1943). Theo như kết quả trên, Javen và Iod cho thấy khả năng ức chế noãn nang tốt, khi tỷ lệ hình thành bào tử sau 7 ngày đều dưới 20%. 4. KẾT LUẬN Xử lý noãn nang cầu trùng với 3 loại thuốc sát trùng Virkon 1%, Omnicide 0.8%, Andekol 0.5% trong vòng 4 giờ hoặc sau 7 ngày, tỷ lệ noãn nang hình thành bào tử rất cao. Trong khi đó, Javen và Iod cho thấy khả năng ức chế noãn nang tốt, khi tỷ lệ hình thành bào tử sau 7 ngày đều <20%. Việc tăng số lần khử trùng và sử dụng kết hợp Javen, Iod với các hợp chất khác sẽ là những phương hướng nghiên cứu tiếp theo để tăng cường khả năng ngăn ngừa sự phát triển của noãn nang cầu trùng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Adam P. Fraise, Peter A. Lambert and Jean-Yves Maillard (2013). Principles and Practice of Disinfection, Preservation and Sterilization, 5th Edition. 2. Anderson L.P. and W.L. Mallmann (1943). The penetrative powers of disinfectants. Technical Bulletin; 183: 14-15. 3. Bloomfield S.F. (1996). Chlorine and iodine formulations. Handbook of Disinfectants and Antiseptics. trang 133-58. 4. Chroustová Eva and Pinka K. (1987). The Efficiency of Disinfectants on the Oocysts of Eimeria tenella. Acta Veterinaria Brno, 56: 141-49. 5. Dychdala G.R. (1991). Chlorine and chlorine compounds. Disinfection, Sterilization, and Preservation, 4: 131-51. 6. Gorman S.P. and Scott E.M. (1977). Uptake and media reactivity of glutaraldehyde solutions related to structure and biocidal activity. Microbios Letters, 5: 163-69. 7. Guimarães J.J.S., Bogado A.L.G., da Cunha T.C.B. and Garcia J.L. (2007). In vitro evaluation of the disinfection efficacy on Eimeria tenella unsporulated oocysts isolated from broilers. Bra. J. Vet. Par. J., 16: 67-71. 8. Kaya G., Dale C., Maudlin I. and Morgan K. (2007). A novel procedure for total nucleic acid extraction from small numbers of Eimeria species oocysts. Turkiye Parazitol Derg, 31: 180-83. 9. McGucken P.V. and Woodside W. (1973). Studies on the mode of action of glutaraldehyde on Escherichia coli. J. Appl. Mic., 36: 419-26. 10. Monné L. and Hönig G. (1954). On the properties of the shells of coccidian oocysts. Arkiv för Zoologi, 7: 251-56. 11. Munton T.J. and Russell A.D. (1973). Interaction of glutaraldehyde with spheroplasts of Escherichia coli. J. Appl. Bac., 36: 211-17. 12. Munton T.J. and Russell A.D. (1971). Interaction of glutaraldehyde with some micro- organisms. Experientia, 27: 109-10. 13. Nyberg P.A., Bauer D.H. and Knapp S.E. (1968). Carbon dioxide as the initial stimulus for excystation of Eimeria tenella oocysts. J. Prot., 15: 144-48. 14. Russell A.D. and Vernon G.N. (1975). Inhibition by glutaraldehyde of lysostaphin-induced lysis of Staphylococcus aureus. Microbios, 13: 147-49. 15. Ryley J.F. (1973). Cytochemistry, physiology, and biochemistry. The Coccidia: Eimeria, Isospora, Toxoplasma and Related Genera, Chapter 5, Pp 145-18. 16. Soliman E.S., Sallam N.H. and Abouelhassan E.M. (2018). Effectiveness of poultry litter amendments on bacterial survival and Eimeria oocyst sporulation. Vet. World, 11(8): 1064-73. 17. Wagenbach G.E., Challey J.R. and Burns W.C. (1966). A method for purifying coccidian oocysts employing clorox and sulfuric acid-dichromate solution. J. Par., 52: 1222. 18. You M.-J. (2014). Suppression of Eimeria tenella Sporulation by Disinfectants. Korean J. Par., 52(4): 435- 38.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkha_nang_uc_che_cua_mot_so_loai_thuoc_sat_trung_doi_voi_noan.pdf
Tài liệu liên quan