Các kết quả cho thấy rằng vữa và bê tông trên
nền geopolymer với phụ gia là tro bay cho kết quả
cơ tính rất tốt, hoàn toàn phù hợp trong ứng dụng
xây dựng kết cấu và có thể cạnh tranh với Portland
bê tông. Tám hỗn hợp của vữa và sáu của bê tông
đã được đánh giá về các đặc tính cơ học, chúng phụ
thuộc vào tỷ lệ tro bay/xi măng, thành phần cát và
đá dăm, nồng độ kiềm và thời gian xử lý sau khi đúc.
Tuy nhiên, đây mới là nghiên cứu bước đầu, cần
tiếp tục nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ cao,
điều kiện môi trường (axít, nước biển.) và quá trình
lão hóa đến cơ tính của vữa và bê tông geopolymer
với phụ gia là tro bay.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 514 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng ứng dụng tro bay làm phụ gia trong vữa và bê tông trên nền geopolymer, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2013
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 85
KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG TRO BAY LÀM PHỤ GIA TRONG VỮA
VÀ BÊ TÔNG TRÊN NỀN GEOPOLYMER
POTENTIAL APPLICATIONS OF ADDING FLY ASH BASED GEOPOLYMER
MORTAR AND CONCRETE
Nguyễn Thắng Xiêm1
Ngày nhận bài: 11/1 0/2012; Ngày phản biện thông qua: 17/12/2012; Ngày duyệt đăng: 15/3/2013
TÓM TẮT
Kể từ khi công thức hóa học của vật liệu geopolymer được tìm ra bởi giáo sư người Pháp Joseph Davidovits, nhiều
nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu và tìm hiểu tất cả các tính chất của chúng nhằm áp dụng rộng rãi vật liệu này vào
cuộc sống. Geopolymer nổi lên như là một vật liệu mới với các tính chất thích hợp để bảo vệ môi trường; và chúng cũng
được xem như là một vật liệu mới dùng để phủ, là chất kết dính các sợi trong composite và xi măng mới trong bê tông.
Geopolymer xi măng được tổng hợp từ bột xi măng của đá phiến sét sau khi nung trong lò quay (10 giờ ở nhiệt độ 7500C)
theo tỷ lệ Si/Al = 2 và kết hợp với NaOH và Na
2
SiO
3
. Mục đích của nghiên cứu là quan sát sự ảnh hưởng của tro bay đến
cơ tính của vữa và bê tông geopolymer. Cấu trúc của tro bay và geopolymer xi măng được thực hiện trên kính hiển vi điện
tử quét (SEM) và phân tích nhiễu xạ tia X (EDX).
Từ khóa: tro bay, xi măng, cường độ chịu nén, cường độ chịu uốn, năng lượng va đập
ABSTRACT
Since the chemistry of geopolymer materials was discovered by Prof. Joseph Davidovits, many scientists have studied
these new materials and investigated all properties of them that apply to our lives. Geopolymers have emerged as a promising
new material with environmentally sustainable properties. And they also have promising as a new material for coatings
and adhesives, a new binder for fi ber composites, and new cement for concrete. Geopolymer cement was synthesized from
cement powder of shale burnt in rotary kiln (for 10 hours at 750 oC) with Si/Al molar ratio of 2.0 and combination with
sodium hydroxide (NaOH) and sodium silicate (Na
2
SiO
3
). The purpose of this research is observing the infl uence of fl y ash
on mechanical properties of geopolymer mortar and concrete. Microstructural observations of fl y ash and geopolymer
cement have been carried out by means of scanning electron microscopy (SEM) and energy-dispersive X-ray analysis (EDX).
Keywords: fl y ash, cement, compressive strength, fl exural strength, impact energy
1 TS. Nguyễn Thắng Xiêm: Khoa Xây dựng - Trường Đại học Nha Trang
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết việc sản xuất xi măng
Portland thường thải ra một lượng lớn khí CO2 vào
bầu khí quyển, do quá trình phản ứng hóa học tạo ra
CO2 từ việc nung đá vôi (canxi cacbonat - CaCO3) ở
nhiệt độ rất cao (khoảng 1450 oC) với silic oxít (SiO2)
theo phản ứng:
5CaCO3 + 2SiO2 → (3CaO,SiO2) + (2CaO,SiO2) + 5CO2
Quá trình sản xuất 1 tấn xi măng Portland sẽ
thải ra khoảng 1 tấn khí CO2 vào bầu khí quyển
(Davidovits, 2008). Sự thật là có khoảng 2,5 tỷ tấn
xi măng được sản xuất mỗi năm, nghĩa là mỗi người
trên hành tinh này phải gánh chịu 0,3 tấn khí CO2.
Đến năm 2050, sản lượng toàn cầu dự kiến sẽ đạt
5 tỷ tấn, nghĩa là sẽ thải ra khoảng 5 tỷ tấn CO2
vào khí quyển (Temuujin, 2009). Vì vậy nhu cầu cần
tìm một loại chất kết dính thân thiện với môi trường
nhằm thay thế xi măng truyền thống là một điều
hết sức cần thiết. Gần đây, geopolymer đã nổi lên
như là một vật liệu mới với các tính chất thích hợp
để bảo vệ môi trường. Chúng thu hút sự quan tâm
của các nhà khoa học do tính chất chịu lửa tốt (lên
đến 10000C), có cơ tính và độ bền lâu, có khả năng
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2013
86 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
cố định các ion kim loại nặng và độ kháng axit (bao gồm cả nước biển), có độ co và dẫn nhiệt thấp (Shuzheng
và cs, 2004; Hardjito và cs, 2005; Duxson và cs, 2007; Davidovits, 2008; Temuujin, 2009). Khả năng ứng dụng
của vật liệu geopolymer được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp như: công nghiệp ô tô và hàng không vũ
trụ, đặc biệt là cho các ứng dụng mà yêu cầu cần chịu nhiệt độ cao và cách nhiệt, gốm mới, xi măng, amiăng
và vật liệu công nghệ cao (Davidovits, 1991; Malhotra, 1991; Davidovits, 2008).
Geopolymer là tập hợp các chuỗi hay mạng lưới của các phân tử khoáng vô định hình liên kết với nhau
thông qua các liên kết cộng hóa trị. Quá trình geopolymer hóa (là quá trình tổng hợp để tạo thành vật liệu
Geopolymer) liên quan đến phản ứng hóa học của aluminosilicate oxit (Si2O5, Al2O2) với polysilicate kiềm nhằm
dễ tạo ra phản ứng trùng ngưng polymer hình thành mối liên kết giữa Si-O-Al. Quá trình geopolymer hóa phụ
thuộc vào tỷ lệ Si/Al, Davidovits đã phân biệt polysilicate thành bốn loại khác nhau là Poly(sialate) có dạng
(-Si-O-Al-O-) với Si/Al = 1, Poly(sialate-siloxo) có dạng (-Si-O-Al-O-Si-O-) với Si/Al = 2, Poly(sialate-disiloxo)
có dạng (-Si-O-Al-O-Si-O-Si-O-) với Si/Al = 3, Poly (sialate-multisiloxo) với Si/Al >> 3 (Shuzheng và cs, 2004;
Hardjito và cs, 2005; Duxson và cs, 2007; Davidovits, 2008). Nói chung, bất kỳ đất sét khoáng chất có chứa hàm
lượng SiO2 và Al2O3 cao đều có thể được pha loãng vào các dung dịch kiềm mạnh (như NaOH hoặc KOH) để
tạo một chuỗi phản ứng tỏ a nhiệ t của quá trình ge polymer hóa tạo vật liệu geopolymer.
Tro bay (fl y ash) là sản phẩm của quá trình đốt cháy than nghiền tại các nhà máy nhiệt điện. Tro bay có kích
thước hạt từ 1μm to 150μm và đa số là có hình cầu (mịn hơn so với xi măng Portland và vôi). Tùy thuộc vào
nguồn và thành phần của than bị đốt cháy, thành phần hóa học của tro bay có thay đổi đáng kể. Tuy nhiên, thành
phần chính của tất cả tro bay là tương tự nhau và có thành phần gần giống xi măng Portland như SiO2, Al2O3,
Fe2O3 và CaO, trong khi Mg, K, Na, Ti, và S chiếm số lượng ít hơn. Tùy thuộc vào hàm lượng cacbon nhiều hay
ít mà tro bay có màu xám hay đen. Nếu tro bay có màu sáng cho thấy hàm lượng cacbon thấp. Hàng năm, các
nhà máy nhiệt điện đã thải ra một lượng lớn tro bay, do vậy tro bay đã trở thành mối quan tâm của các nhà môi
trường thế giới. Sử dụng các loại vật liệu này giúp giảm chi phí sản xuất sản phẩm và giảm đáng kể hiệu ứng
nhà kính từ việc sản xuất xi măng và bê tông (Malhotra, 1994; Assosiation, 2003; Lee và cs, 2003; Potgieter và
cs, 2003; Hewlett, 2004; Fansuri, 2006; Mines, 2006; Ahmaruzzaman, 2010).
Trong bài báo này, tác giả sử dụng bột xi măng được hình thành từ đá phiến sét sau khi nung trong lò quay
kết hợp với dung dịch kiềm để tạo ra vật liệu geopolymer xi măng. Và mục đích của nghiên cứu là quan sát sự
ảnh hưởng của việc bổ sung tro bay đến cơ tính của vữa và bê tông.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu
1.1. Hỗn hợp geopolymer
Vật liệu geopolymer được tổng hợp từ bột xi măng của đá phiến sét đốt trong lò quay (ở nhiệt độ 750 oC với
thời gian là 10 giờ) với tỷ lệ giữa Si/Al bằng 2 kết hợp với dung dịch kiềm (NaOH + Na2SiO3 với môđun bằng 1,5)
để tạo ra geopolymer xi măng.
Bột xi măng có diện tích bề mặt là 20,8m2/g, kích thước trung bình là d50 = 4,2μm và d90 = 9.3μm. Bảng 1 mô
tả thành phần hóa học chính của bụi bay sau khi được phân tích bởi nhiễu xạ tia X (XRD).
Bảng 1. Thành phần hóa học chính của bụi bay được xác định bởi XRD
Thành phần Al2O3 SiO2 Fe2O3 SO3 CaO LOI
% khối lượng 41.6 52.6 2.6 1.1 0.8 1.3
(a) (b)
Hình 1. Hình SEM của bột xi măng
(a) với độ phóng đại 5000 lần và geopolymer xi măng khi đóng rắn (b) phóng đại 500 lần
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2013
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 87
Bột xi măng (hình 1a) và geopolymer xi
măng sau khi đóng rắn (hình 1b) được chụp từ
kính hiển vi điện tử quét (SEM). Bột xi măng
nhìn chung có dạng sắc và nhọn. Từ hình 1b ta
thấy trên bề mặt của geopolymer xi măng sau
khi đóng rắn có nhiều vết nứt, vì vậy việc thêm
tro bay vào hỗn hợp geopolymer xi măng, vữa
và bê tông là điều cần thiết để giảm hiện tượng
này, đồng thời ổn định cơ tính và giảm giá thành
sản phẩm.
Hình 2. Biểu đồ phân bố kích thước hạt của tro bay
1.2. Thành phần hóa học của tro bay
Hình 3a mô tả tro bay có hình dạng sắc nhọn
và có kích thước trung bình khoảng 3,55μm được
quan sát bởi biểu đồ phân bố kích thước hạt (hình
2). Từ giản đồ phân bố năng lượng quang phổ (hình
3b) và bảng phân tích định lượng các nguyên tố hóa
học, ta thấy tro bay có chứa hàm lượng Al và Si cao.
Điều này cho thấy tro bay là nguồn nguyên liệu rất
tốt để kết hợp với geopolymer tạo thành hỗn hợp
bê tông.
1.3. Đá dăm và cát
Đá dăm được sử dụng có kích thước tiêu chuẩn
từ 5 mm đến 10 mm và cát mịn có đường kính từ
0,14 đến 1,25 mm theo TCVN 7570 : 2006. Tất cả
đá và cát đều được sấy khô trước khi đem đi chế
tạo mẫu.
2. Phương pháp chế tạo mẫu
Công nghệ chuẩn bị mẫu được tiến hành như
sau. Ban đầu trộn bột xi măng với dung dịch hoạt
tính kiềm ở nhiệt độ phòng khoảng 5 phút với tốc
độ 100rpm cho đến khi hỗn hợp được đồng nhất.
Tiếp theo, đổ tro bay, cát hoặc đá dăm vào hỗn hợp
và trộn khi hỗn hợp đồng nhất (khoảng 5 phút, tốc
độ 100rpm). Đổ trực tiếp hỗn hợp vữa tươi hoặc bê
tông tươi vào khuôn và đặt trên bàn rung khoảng 2
phút để loại bỏ các bọt khí bên trong mẫu. Mẫu sau
Hình 3. Hình SEM (a) có độ phóng đại từ 2000 đến 5000 lần
và biểu đồ phân bố năng lượng quang phổ (b) của tro bay
Bảng 2. Phân tích định lượng các nguyên tố hóa học của tro bay
Yếu tố O Na Mg Al Si S K Ca Ti Fe As
Nguyên tố [%] 52,81 1,81 0,97 14,73 23,97 0,39 0,41 1,69 0,57 2,57 0,09
Độ lệch chuẩn 0,52 0,10 0,06 0,18 0,52 0,05 0,04 0,29 0,06 0,11 0,01
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2013
88 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
khi đúc xong được bao phủ bằng túi nhựa khoảng
48 giờ. Thử nghiệm cường độ chịu nén mẫu vữa
được thực hiện với tiêu chuẩn của Úc AS 1012,9 với
kích thước hình trụ là (Ø50 x 100) mm. Sử dụng tiêu
chuẩn quốc tế ASTM C39 để kiểm tra cường độ chịu
nén của bê tông với kích thước hình trụ là (Ø100
x 200) mm. Sử dụng 4 mẫu thử cho mỗi lần thử
nghiệm và tính giá trị trung bình. Kiểm tra cường độ
chịu uốn được thử nghiệm với mẫu có kích thước là
(40 x 40 x 160) mm theo tiêu chuẩn ASTM C348 - 08
và thử nghiệm va đập mẫu vữa với kích thước là (10
x 10 x 50) mm. Tất cả các mẫu này đều được xử
lý ở nhiệt độ phòng 3 ngày sau khi đúc. Tiếp theo,
tháo các mẫu ra khỏi khuôn và tiếp tục xử lý ở nhiệt
độ phòng cho đến ngày thử nghiệm (7, 14, 28 và 90
ngày đối với bê tông).
3. Dụng cụ và thiết bị
Kiểm tra độ sụt theo tiêu chuẩn C143/C143M,
bê tông tươi được đổ vào khuôn hình nón cụt có
chiều cao 300mm, đường kính đỉnh là 100mm,
đường kính đáy 200mm.
Kiểm tra uốn trên máy Instron Model 4202,
tốc độ là 2,0 mm/phút và chiều dài nhịp là 120mm
dựa theo tiêu chuẩn ASTM C78/C78M - 10. Kiểm
tra nén được thực hiện trên máy VEB Werktoff
Prufmaschinen Leipzig, 500 kN theo tiêu chuẩn
ASTM C 31/C 31M - 03a.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Hình 4 và 5 trình bày đường hồi quy tuyến tính
của cường độ chịu nén, cường độ chịu uốn, môđun
đàn hồi và năng lượng va đập so với tỷ lệ phần trăm
của tro bay/xi măng có trong hỗn hợp. Các hình này
cho thấy cơ tính của vữa geopolymer phụ thuộc vào
tỷ lệ của tro bay/xi măng, cường độ giảm khi tăng tỷ lệ
của tro bay/xi măng. Khi vữa và bê tông geopolymer
không có phụ gia tro bay cho kết quả về cường độ
chịu nén sau khi xử lý 28 ngày là 59 MPa và 34
MPa, kết quả này cao hơn so với mẫu có phụ gia
là tro bay. Tuy nhiên, khi chịu uốn thì mẫu không có
phụ gia tro bay cho kết quả nhỏ hơn so với mẫu có
tro bay, vữa geopolymer là 5,2 MPa và 6,7 MPa đối
với bê tông geopolymer. Với tỷ lệ phần trăm giữa
tro bay/xi măng bằng 0,5 (nghĩa là hỗn hợp mẫu
MLF’-2 theo bảng 3) sẽ cho kết quả là lớn nhất. Mẫu
vữa sau khi xử lý ở nhiệt độ phòng trong 28 ngày có
trọng lượng riêng xấp xỉ là 1650 Kg/m3.
Các thử nghiệm về năng lượng va đập được
thực hiện trung bình 4 mẫu của mỗi hỗn hợp sau khi
xử lý 28 ngày. Kết quả thử nghiệm được biểu diễn ở
hình 5b. Năng lượng va đập và môđun đàn hồi tăng
khi giảm tỷ lệ giữa tro bay/xi măng. Và cũng dễ dàng
nhìn thấy rằng thời gian xử lý càng dài từ 7 ngày tới
28 ngày thì môđun đàn hồi, cường độ chịu nén và
cường độ chịu uốn đều tăng.
Bảng 3. Thành phần hỗn hợp vữa tươi và bê tông
Hỗn hợp Ký hiệu mẫu
Vật liệu
Tro bay [%] Xi măng [%] Kiềm[%] Cát mịn [%] Đá dăm [%]
Nước
[%]
Vữa
MLF’-2 20 39.5 40.5 - - -
MLF’-3 30 33 38 - - -
MLF’-4 40 22 38 - - -
MLF’-6 25 28 38 9 - -
MLF’-7 25 23 35 17 - -
MLF’-8 25 18 32 25 - -
MLF’-9 25 12 33 30 - -
MLF’-10 25 8 31 36 - -
Bê tông
M1 20 10 8.5 19 38 4.5
M2 15 13 11 19 38 4
M3 15 13 15 19 38 -
M4 10 15 18 19 38 -
M5 10 15 18 9 48 -
M6 10 9 14 9 58 -
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2013
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 89
Kết quả chụp từ kính hiển vi của hỗn hợp MLF’- 6
đến MLF’-8 và SEM của hỗn hợp MLF’-6 được thể
hiện ở hình 6. Quan sát hình ảnh bề mặt mẫu từ
kính hiển vi ta thấy không có vết nứt, nhẵn và ít
có sự thay đổi khi thành phần hỗn hợp khác nhau.
Và khi quan sát bởi SEM, ta thấy trong cấu trúc vật
liệu các pha vô định hình liên tục và sít đặc. Theo
Zang, G. và cộng sự cho rằng chỉ có pha vô định
hình trong nguyên liệu mới tham gia phản ứng
geopolymer hóa, còn các pha tinh thể như SiO 2,
Fe2O3... chưa phản ứng từ nguyên liệu đầu. Vì vậy
chính nhờ cấu trúc vô định hình liên tục này làm cho
vật liệu geopolymer có cường độ cao.
Từ hình 7, ta thấy các kết quả của hỗn hợp M1
và M2 là nhỏ hơn so với kết quả khác, bởi vì các
hỗn hợp này được bổ sung nước, điều này nên hạn
chế trong geopolymer vì nước sẽ làm giảm nồng độ
kiềm dẫn đến quá trình geopolymer hóa giảm, các
pha vô định hình bị gián đoạn và do đó làm giảm
cường độ chịu nén.
Hình 4. Cường độ chịu nén (a) và cường độ chịu uốn (b) của vữa geopolymer
Hình 5. Môđun đàn hồi (a) và năng lượng va đập (b) của vữa geopolymer
Hình 6. Bề mặt của vữa geopolymer với các hỗn hợp từ MLF’- 6 đến MLF’- 8 phóng đại 500 lần và hình SEM
của hỗn hợp MLF’- 6 phóng đại 2000 lần
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2013
90 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
Độ sụt đã được kiểm tra để đo lường tính khả
thi của bê tông tươi. Độ sụt là chỉ tiêu quan trọng
nhất của hỗn hợp bê tông, nó đánh giá khả năng dễ
chảy của hỗn hợp bê tông dưới tác dụng của trọng
lượng bản thân hoặc rung động. Như vậy độ sụt liên
quan đến khả năng thi công và chất lượng của bê
tông, do đó cần phải xác định.
Từ bảng 4 thấy rằng độ sụt tăng khi hàm
lượng nước hoặc kiềm có trong hỗn hợp tăng,
đó là một trong những nguyên chính tác động
đến cường độ chịu nén của bê tông geopolymer.
Hình 7 cho thấy rằng mẫu sau khi được xử lý
trong 90 ngày ở nhiệt độ phòng thì cường độ
chịu nén của hỗn hợp M5 là cao hơn so với
các hỗn hợp khác, có giá trị là 32 MPa và
môđun đàn hồi khoảng 21 GPa, theo quy luật
thì môđun đàn hồi tăng khi cường độ nén của
bê tông tăng lên.
Hình 7. Cường độ chịu nén (a) và môđun đàn hồi (b) của bê tông geopolymer
Bảng 4. Các tính chất của geopolymer bê tông xử lý ở nhiệt độ phòng
Tính chất Thời gian [Ngày]
Hỗn hợp
M1 M2 M3 M4 M5 M6
Độ sụt [mm] 235 230 205 205 195 210
Trọng lượng riêng [kg/m3]
7 2112 2135 2195 2222 2250 2250
90 1999 2033 2003 1984 2035 2104
Cường độ chịu cắt [MPa]
7 1.03 0.68 1.46 1.40 1.64 1.51
90 1.21 0.92 1.73 1.69 1.78 1.73
Bảng 5. Cường độ chịu uốn của bê tông geopolymer M5 xử lý ở nhiệt độ phòng
Hỗn hợp
Cường độ chịu uốn [MPa] Độ biến dạng [%]
7 ngày 14 ngày 28 ngày 7 ngày 14 ngày 28 ngày
M5 4.80 ± 0.13 6.88 ± 0.98 7.09 ± 0.58 0.81 1.14 0.71
Hỗn hợp M5 đã được sử dụng để kiểm tra
cường độ chịu uốn của bê tông geopolymer. Các
mẫu được xử lý ở nhiệt độ phòng từ 7, 14, 28 ngày.
Kết quả kiểm tra được trình bày trong bảng 5. Kết
quả cho thấy độ bền uốn của bê tông geopolymer
tăng theo thời gian khoảng 30% từ 7 ngày đến 14
ngày và hầu như không đổi độ bền uốn khi xử lý
về sau.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2013
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 91
Hình 8. Kiểu phá hủy (trái) và bề mặt của hỗn hợp M5
(phải) bê tông geopolymer có độ phóng đại 500 lần
Hình 8 biểu diễn kiểu phá hủy của mẫu bê
tông geopolymer gần giống với tiêu chuẩn ASTM
C39-03 là phương pháp tiêu chuẩn dùng để thử
nghiệm cường độ chịu nén của mẫu bê tông hình
trụ. Bề mặt hỗn hợp M5 tương đối tốt, mặt trơn lán,
sít đặc và không có vết nứt.
IV. KẾT LUẬN
Các kết quả cho thấy rằng vữa và bê tông trên
nền geopolymer với phụ gia là tro bay cho kết quả
cơ tính rất tốt, hoàn toàn phù hợp trong ứng dụng
xây dựng kết cấu và có thể cạnh tranh với Portland
bê tông. Tám hỗn hợp của vữa và sáu của bê tông
đã được đánh giá về các đặc tính cơ học, chúng phụ
thuộc vào tỷ lệ tro bay/xi măng, thành phần cát và
đá dăm, nồng độ kiềm và thời gian xử lý sau khi đúc.
Tuy nhiên, đây mới là nghiên cứu bước đầu, cần
tiếp tục nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ cao,
điều kiện môi trường (axít, nước biển...) và quá trình
lão hóa đến cơ tính của vữa và bê tông geopolymer
với phụ gia là tro bay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahmaruzzaman, M., 2010. A review on the utilization of fly ash. Progress in Energy and Combustion Science, 36, 327–363.
2. American Coal Ash Assosiation, 2003. Fly Ash Facts for Highway Engineers, 81.
3. Davidovits, J., 1991. Geopolymers: Inorganic Polymeric New Materials. Thermal Analysis, 37, 1633-1656.
4. Davidovits, J., 2008. Geopolymer chemistry & application, Second Edition, Géopolymèr – France.
5. Duxson, P., và cộng sự, 2007. The role of inorganic polymer technology in the development of ‘green concrete’. Cement and
Concrete Research, 37, 1590 – 1597.
6. Fansuri, H., 2006. Suitability Of Coal Fly Ashes To Aggregate Manufacture From Coal Fly Ash By Sintering. 11th APCChE
Congress, Kuala Lumpur.
7. Hardjito, D., và cộng sự, 2005. Development and properties of Low-calcium fl y ash-based Geopolymer concrete. Research
report GC1, Perth, Australia: Faculty of Engineering, Curtin University of Technology.
8. Hewlett, P. C., 2004. Lea’s Chemistry of cement and concrete, Oxford: Elsevier, Butterworth–Heinemann, 1087.
9. Lee, A. P., và cộng sự, 2003. Is fl y ash an inferior building and structural material. Science in Dispute.
10. Malhotra, V. M., 1991. Making Concrete “Greener” With Fly Ash. ACI Concrete International, 21, 61-66.
11. Malhotra, V. M., 1994. Fly Ash in Concrete. CANMET.
12. Managing Coal Combustion Residues in Mines, 2006. Committee on Mine Placement of Coal Combustion Wastes, National
Research Council of the National Academies.
13. Potgieter, J. H., và cộng sự, 2003. Alternative procedure for classification of fly ash particle size fractions. Proceedings of the
international ash utilisation symposium, USA.
14. Shuzheng, Z., và cộng sự, 2004. Novel modifi cation method for inorganic geopolymer by using water soluble organic
polymers. Lsevier B.V, 58, 1292-1296.
15. Temuujin, J., 2009. Effect of mechanical activation of fl y ash on the properties of geopolymer cured at ambient temperature.
Journal of Materials Processing Technology, 209, 5276–5280.
16. Zhang, G., và cộng sự, 2010. Synthesis, characterization, and mechanicalproperties of red mud-based geopolymers,
Transportation Research Record, 2167, 1-9.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kha_nang_ung_dung_tro_bay_lam_phu_gia_trong_vua_va_be_tong_t.pdf