TTHG là căn nguyên của cả quy trình
hòa giải thương mại, vì các bên không thể
mang tranh chấp đến cậy nhờ cơ quan hòa
giải giải quyết nếu giữa các bên không tồn
tại một TTHG phù hợp. TTHG trước hết là
một thỏa thuận dân sự đặc biệt, nên cũng như
tất cả mọi thỏa thuận dân sự khác, TTHG
tuyệt đối thượng tôn tinh thần tự do thỏa
thuận của các bên. Vì lẽ đó, trong các văn
bản pháp luật về hòa giải của cả Việt Nam và
Đức, không bao hàm những quy định cụ thể
nhằm điều chỉnh nội dung và hình thức của
TTHG. Điều này tạo điều kiện để các bên
phát huy tối đa sự chủ động và thiện chí của
mình khi thiết lập TTHG. Mặc dù HGTM,
với tư cách là một dịch vụ giải quyết tranh
chấp, đã được một số tổ chức tư nhân, điển
hình là các trung tâm trọng tài, triển khai từ
khoảng 10 năm nay ở nước ta, nhưng thực tế
số lượng vụ việc được giải quyết bằng hòa
giải ít hơn nhiều so với trọng tài. Chúng tôi
hy vọng rằng, những kinh nghiệm của pháp
luật Đức về HGTM nói chung, cũng như
TTHG nói riêng, sẽ phần nào hữu ích cho
việc thiết lập một hệ thống HGTM hiệu quả
và ngày càng tiệm cận với những chuẩn mực
HGTM trên thế giới
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khái niệm, nội dung và hình thức của thỏa thuận hòa giải nhìn từ góc độ so sánh giữa luật Việt Nam và Đức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Bài viết trình bày ba nội dung chính của thỏa thuận hòa giải là khái
niệm, nội dung và hình thức của thỏa thuận hòa giải trên cơ sở so
sánh giữa luật Việt Nam và Đức; đưa ra một số vấn đề cần lưu ý
nhằm hoàn thiện chế định này.
Lê Nguyễn Gia Thiện*
Lê Nguyễn Gia Phúc**
* NCS. Giảng viên Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
** NCS. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Abstract
This article provides three substantial contents of the conciliation
agreement: the concept, contents and form of the conciliation
agreement on the basis of a comparison between the Vietnamese
law and the German one. It is also to raise a number of matters that
need to be reviewed, addressed for further improvement of this
regulation.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: hòa giải thương mại, hòa giải
viên, thỏa thuận hòa giải, nội dung của
thỏa thuận hòa giải, hình thức của thỏa
thuận hòa giải, Nghị định số 22/2017,
Đạo luật Hòa giải của Đức năm 2012.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 14/08/2017
Biên tập : 07/09/2019
Duyệt bài : 15/09/2017
Article Infomation:
Keywords: commercial conciliation;
conciliator; conciliation agreement;
conciliation contents; form of the
conciliation agreement; Decree No.
22/2017; German Mediation Act of 2012
Article History:
Received : 14 Aug. 2017
Edited : 07 Sep. 2017
Approved : 15 Sep. 2017
KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC CỦA THỎA THUẬN
HÒA GIẢI NHÌN TỪ GÓC ĐỘ SO SÁNH GIỮA LUẬT VIỆT NAM VÀ ĐỨC
Hòa giải thương mại (HGTM), với tư
cách là một phương thức giải quyết tranh
chấp ngoài tòa án, được sử dụng rộng rãi
và phổ biến trên toàn thế giới. Đặc thù của
phương thức hòa giải này được biểu hiện ở
khả năng tự định đoạt một cách tối thượng
của các bên trong tranh chấp. Các bên tranh
chấp sẽ tự thiết lập các nội dung của thỏa
thuận hòa giải (TTHG), vốn chứa đựng tất
cả các yếu tố của quy trình hòa giải, và khi
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 12(364) T6/2018
quy trình hòa giải kết thúc, chính các bên,
chứ không phải bất kỳ một ai khác, sẽ tự
thỏa thuận với nhau về các kết quả hòa giải
sao cho êm đẹp và phù hợp nhất. Ở Đức,
HGTM được áp dụng rất thường xuyên và
có một lịch sử lâu đời1 nhưng mãi đến năm
2012, HGTM mới được quy định một cách
chính thức trong Đạo luật Hòa giải trên cơ
sở nội luật hóa Chỉ thị 2008/52/EC của Nghị
viện châu Âu và Hội đồng châu Âu về những
khía cạnh liên quan đến các vấn đề hòa giải
dân sự và thương mại (Chỉ thị 2008/52/
EC)2. Tương tự, HGTM tại Việt Nam cũng
chỉ mới được luật hóa một cách chính thức
khi Nghị định số 22/2017/NĐ-CP về HGTM
(Nghị định HGTM) được Chính phủ ban
hành ngày 24/2/2017.
Sự xuất hiện của các văn bản này3 có
những ý nghĩa sau: (i) các bên tranh chấp,
những người chịu ảnh hưởng nhiều nhất, có
cơ sở để đặt niềm tin vào quy trình hòa giải
vì các bước, các vấn đề đều đã được pháp
luật dự liệu một cách rõ ràng, minh bạch; (ii)
Nhà nước thể hiện sự ủng hộ đối với phương
thức hòa giải thông qua việc luật hóa chi tiết
các vấn đề liên quan đến quy trình này; (iii)
sự xuất hiện của các đạo luật tạo nên sự tin
tưởng của nhà đầu tư nước ngoài và đưa nền
pháp chế tiệm cận với những chuẩn mực
hiện đại, hiệu quả của các phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại nói chung trên
bình diện thế giới. Một trong những yếu tố
được xem là căn nguyên và cốt lõi của cả
quy trình hòa giải là TTHG, bởi lẽ, không
1 Trước khi ban hành các phán quyết của mình, các thẩm phán ở Đức từ lâu đã rất hữu ích cho các bên với vai trò là người
hòa giải tranh chấp, xem: Peter Olsen, Court based Mediation in Germany and transposition of the mediation directive
2008/52/EC, website: www.civilmediation.org/downloads-get?id=494, truy cập ngày 20/4/2017.
2 Cần lưu ý là nội dung của các tranh chấp có thể được các bên mang ra hòa giải theo Chỉ thị 2008/52/EC và Đạo luật
hòa giải của Đức rất rộng, bao gồm hầu hết các tranh chấp trong lĩnh vực dân luật, chứ không chỉ riêng các tranh chấp
thương mại. Ngoài ra, đạo luật này còn bao gồm cả hòa giải trong tố tụng tại tòa án và hòa giải ngoài tố tụng. Trong
phạm vi của bài viết, để phù hợp các tiêu chí so sánh với pháp luật Việt Nam, chúng tôi chỉ phân tích pháp luật hòa giải
của Đức dưới khía cạnh hòa giải ngoài tòa án đối với các tranh chấp thương mại.
3 Trong bài viết này, do chỉ đề cập đến hòa giải thương mại nên thuật ngữ “hòa giải thương mại” nhiều khi được gọi tắt
là “hòa giải”.
4 Điều 3(1) Nghị định HGTM.
5 Điều 1(1) Đạo luật Hòa giải 2012.
có TTHG thì không có sự tồn tại của quy
trình hòa giải. TTHG, thoạt nhìn dường như
khá cơ bản và giản đơn, nhưng thực tiễn
của HGTM trên thế giới, mà cụ thể là Đức,
chứng minh rằng vấn đề này lại rất đa dạng
chứa đựng nhiều khía cạnh pháp lý thú vị.
1. Khái niệm thỏa thuận hòa giải
Theo pháp luật Việt Nam4, HGTM là
phương thức giải quyết tranh chấp thương
mại do các bên thỏa thuận và được hòa giải
viên thương mại làm trung gian hòa giải hỗ
trợ giải quyết tranh chấp theo quy định của
Nghị định HGTM. Pháp luật Đức thì cho
rằng5, hòa giải trước hết là một quy trình bảo
mật và được tổ chức chặt chẽ, dựa trên tinh
thần tự nguyện và tự định đoạt mà các bên
tìm đến để giải quyết tranh chấp của mình
thông qua một giải pháp thân thiện với sự
hỗ trợ của một hay nhiều hòa giải viên. So
sánh hai khái niệm về hòa giải thương mại
này, có thể rút ra một số điểm tương đồng và
khác biệt như sau:
- Cả pháp luật Việt Nam và pháp luật Đức
đều nhấn mạnh đến tính tự nguyện và tự định
đoạt (freiwillig und eigenverantwortlich), hay
nói khác đi là tính thượng tôn thỏa thuận của
các bên khi tham gia vào quá trình hòa giải.
Chính các bên, chứ không phải ai khác, sẽ
đứng ra để thỏa thuận với nhau về khả năng
sử dụng phương thức này.
- Đạo luật Hòa giải 2012 của Đức
đã nhấn mạnh được ưu thế của hòa giải
là tính bảo mật, tính chặt chẽ về mặt quy
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 12(364) T6/2018
trình6. Hơn nữa, Đạo luật cũng đã nêu bật
được bản chất của quyết định hòa giải thành,
vốn được định danh là giải pháp thân thiện
(einvernehmliche Beilegung) giữa các bên,
đồng thời Đạo luật cũng xác định rõ ràng
vai trò của hòa giải viên chỉ là hỗ trợ các bên
trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp,
đặc biệt là khi thông qua kết quả hòa giải
thành. Thật đáng tiếc khi những chi tiết này
chưa được đề cập đến trong pháp luật Việt
Nam về HGTM.
Trong HGTM, các bên không thể cậy
nhờ đến cơ quan hòa giải giúp mình giải
quyết tranh chấp nếu giữa các bên không tồn
tại một thỏa thuận đề cập đến vấn đề này (gọi
là TTHG). Một câu hỏi được đặt ra là liệu
TTHG có thể được các bên dự liệu từ trước
khi xuất hiện tranh chấp hay sau khi tranh
chấp đã có rồi thì các bên mới thỏa thuận
về việc lựa chọn cơ chế hòa giải? Điều 3(2)
Nghị định HGTM của Việt Nam có câu trả
lời cụ thể cho nghi vấn này, theo đó TTHG
là thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết
tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát
sinh bằng phương thức hòa giải. Pháp luật
Đức không có bất cứ điều khoản nào có nội
hàm tương tự như của pháp luật Việt Nam.
Chúng tôi cho rằng, sở dĩ nhà làm luật
của Đức không dự liệu về thời điểm hình
thành nên TTHG cũng phần nào hợp lý, vì
thời điểm hình thành nên TTHG hoàn toàn
độc lập với thời điểm tranh chấp xảy ra và
trên thực tế các bên trong những hợp đồng
thương mại vẫn không dự liệu các điều
khoản hòa giải trước khi tranh chấp xảy ra7.
Vì vậy, sự xuất hiện của TTHG hoàn toàn
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên,
bất cứ khi nào các bên thống nhất được ý chí
6 Chúng tôi sử dụng thuật ngữ “quy trình hòa giải” hay “quy trình giải quyết tranh chấp” chứ không phải thuật ngữ “quy
trình tố tụng” vì về mặt bản chất, hòa giải không hề có sự xuất hiện của bất kỳ cơ quan tài phán nào, đây cũng là sự khác
biệt cơ bản giữa hòa giải và trọng tài.
7 Hess/Pelzer, Mediation in Germany: Finding the Right Balance between Regulation and Self-Regulation, in trong
Esplugues/Marquis (chủ biên), New Developments in Civil and CommercialMediation, Springer, 2015, p. 296.
8 Chúng tôi gọi chung cơ quan đứng ra thực hiện việc hòa giải cho các bên là cơ quan hòa giải, cơ quan này có thể bao
gồm một hoặc nhiều hòa giải viên, cũng như có thể thuộc về một tổ chức cung cấp dịch vụ hòa giải nào đó hay vận hành
hoàn toàn độc lập.
về việc mang tranh chấp đến cậy nhờ hòa
giải viên giải quyết thì lúc đó TTHG được
hình thành. Theo chúng tôi, dường như Điều
3(2) Nghị định HGTM chủ ý là nêu lên thời
điểm xuất hiện của TTHG hơn là nêu lên
khái niệm về TTHG. Tuy nhiên, việc nêu
lên khái niệm về TTHG cũng không thật cần
thiết và bằng chứng là luật Đức cũng không
nhắc gì đến khái niệm này, vì TTHG cũng
chỉ là thỏa thuận của các bên đề cập đến
khả năng giải quyết tranh chấp thông qua
phương thức hòa giải.
2. Nội dung của thỏa thuận hòa giải
Nội dung của TTHG là một vấn đề rất
khó để mô tả một cách cụ thể vì các đạo luật
về hòa giải trên thế giới, ví dụ như Đạo luật
Hòa giải của Đức hay Nghị định HGTM của
Việt Nam đều để ngỏ vấn đề này. Đây cũng
là điều hợp lý vì dựa vào bản chất của hòa
giải là sự tự định đoạt một cách toàn vẹn
và chủ động của các bên, nên những gì các
bên nêu lên trong TTHG đều có thể được
xem như là một phần không thể tách rời
của TTHG. Trong số các nội dung liên quan
đến TTHG, chúng tôi cho rằng, để bảo đảm
không phát sinh những rắc rối pháp lý, các
bên trong tranh chấp cần lưu tâm đến một số
vấn đề sau đây:
- Tên của cơ quan hòa giải8
Tên của cơ quan hòa giải nêu đích
danh cá nhân hoặc tổ chức nào đó sẽ đứng
ra thụ lý và giải quyết tranh chấp cho các
bên. Tương tự như trọng tài, hòa giải cũng
bao gồm hai loại hình cơ bản nhất là hòa
giải thường trực và hòa giải vụ việc. Hòa
giải thường trực là việc cơ quan giải quyết
tranh chấp cho các bên được vận hành trong
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 12(364) T6/2018
khuôn khổ của một tổ chức cung cấp dịch vụ
hòa giải nhất định. Ngược lại, trong hòa giải
vụ việc, các bên không cầu viện đến bất kỳ
một tổ chức hòa giải nào cả, mà những cơ
quan hòa giải, tức các hòa giải viên vụ việc,
hoạt động hoàn toàn độc lập và tham gia vào
quá trình hòa giải là hoàn toàn nhân danh
chính bản thân mình.
Ví dụ, ở Đức, nếu tranh chấp về việc
thanh toán hợp đồng vận tải tàu biển giữa
hai doanh nghiệp A và B được dẫn chiếu đến
việc hòa giải thông qua Hiệp hội Trọng tài
hàng hải Đức (German Maritime Arbitration
Association - GMAA)9 thì đây là hòa giải
thường trực vì GMAA sẽ thụ lý và tiến hành
hòa giải cho các bên và khi đó quy tắc hòa
giải của GMAA sẽ được áp dụng10. Trái lại,
nếu các bên chỉ thỏa thuận về việc tranh
chấp xảy ra thì sẽ được một hòa giải viên A
nào đó thụ lý thì hòa giải trong trường hợp
này là hòa giải vụ việc.
Một điều cần lưu ý là nếu các bên cầu
viện đến phương thức hòa giải, nhưng lại
ghi sai tên của tổ chức hòa giải thì hệ quả
pháp lý sẽ như thế nào, ví dụ thay vì ghi là
German Maritime Arbitration Association
lại ghi rằng German Maritime Arbitration
Center? Thỏa thuận này có được xem là
TTHG vụ việc hay không hay mặc nhiên
là một thỏa thuận vô hiệu? Căn cứ vào lý
thuyết xem TTHG là một thỏa thuận dân sự
thuộc địa hạt của dân luật thì rõ ràng trường
hợp này liên quan đến giao dịch dân sự vô
hiệu do nhầm lẫn đến từ cả hai phía.
Đương nhiên là sau khi TTHG được
thiết lập, các bên phát hiện ra sai sót về tên
của cơ quan hòa giải và đã sửa lại cho đúng
9 Hầu hết các trung tâm trọng tài đều cung cấp dịch vụ hòa giải. Tại Việt Nam, việc các trung tâm trọng tài cung cấp dịch
vụ hòa giải đều rất phổ biến. Đơn cử, Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) bắt đầu cung cấp dịch vụ hòa giải
thương mại từ năm 2007, xem: Bộ Tư pháp, Dự thảo Tờ trình về Nghị định về HGTM (Dự thảo ngày 4/3/2015).
10 Điều khoản hòa giải mẫu (Mediationsvertragsklauseln) được chính trung tâm này khuyến nghị như sau: “Wegen aller
sich aus oder im Zusammenhang mit diesem Vertrage ergebenden Streitigkeiten wird ein Mediationsverfahren nach der
Mediationsordnung der German Maritime Arbitration Association durchgeführ”, tạm dịch: “Tất cả các tranh chấp phát
sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này sẽ được tiến hành thông qua quy trình hòa giải của Hiệp hội Trọng tài hàng
hải Đức”.
11 Điều 119 Bộ luật Dân sự Đức và Điều 126 Bộ luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam.
12 Ví dụ như GMAA.
thì TTHG sẽ hợp pháp. Ngược lại, nếu đến
khi tranh chấp xảy ra mà các bên mới phát
hiện về việc nêu sai tên của cơ quan hòa
giải trong TTHG và nếu một bên trong các
bên vẫn không muốn sửa lại tên cho đúng
thì TTHG trong trường hợp này mặc nhiên
vô hiệu, vì vốn dĩ không thể định danh được
chính xác tên của cơ quan giải quyết tranh
chấp và do đó coi như không tồn tại TTHG11.
- Luật áp dụng cho quy trình hòa giải
Hòa giải là quy trình của riêng các
bên, vì thế luật áp dụng cho quy trình hòa
giải cũng sẽ hoàn toàn do các bên tự thương
lượng với nhau. Hầu hết, nếu không nói là tất
cả, các trung tâm cung cấp dịch vụ hòa giải
đều có bộ quy tắc hòa giải riêng cho mình và
khi các bên chọn một trung tâm nào đó thì
cũng đồng thời chấp nhận luôn việc hòa giải
viên sử dụng quy tắc này như là luật áp dụng
cho quy trình hòa giải. Một tình huống hoàn
toàn có thể xảy ra trên thực tế là liệu các bên
có thể sử dụng bộ quy tắc hòa giải của một
trung tâm khác với trung tâm được nêu tên
trong TTHG hay không? Câu trả lời là hoàn
toàn có thể vì quy trình hòa giải vốn dĩ là sự
tự định đoạt của các bên.
Nếu hòa giải được tiến hành thông qua
những hòa giải viên vụ việc thì sẽ không có
sẵn bộ quy tắc cho các bên áp dụng, trong
tình huống này, các bên có thể thỏa thuận
về việc sẽ sử dụng một bộ quy tắc của trung
tâm hòa giải nào đó12 hoặc áp dụng Bộ Quy
tắc về hòa giải của Ủy ban Thương mại
quốc tế của Liên hiệp quốc (UNCITRAL
Conciliations Rules) hoặc tự mình thỏa
thuận hết về tất cả các bước của toàn bộ quy
trình hòa giải. Việc các bên tự thỏa thuận về
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 12(364) T6/2018
toàn bộ quy trình hòa giải là việc rất hiếm
hoi vì vốn dĩ các bên trong hòa giải thương
mại là các doanh nghiệp, thế nhưng việc các
bên có những sự thỏa thuận mang tính bổ
khuyết và hiệu chỉnh các điều khoản được
dự liệu sẵn trong những bộ quy tắc hòa giải
của các trung tâm hoặc Bộ Quy tắc về hòa
giải của UNCITRAL là hết sức phổ biến.
- Địa điểm, ngôn ngữ và số lượng hòa
giải viên
Những vấn đề trên đây hoàn toàn chịu
sự điều chỉnh bởi thỏa thuận của các bên,
cả pháp luật Việt Nam và Đức đều không
quy định bất kỳ điều khoản nào về các vấn
đề này. Địa điểm hòa giải có thể là bất cứ
đâu, thường thì để đảm bảo tính trung lập
và không thiên vị của hòa giải, các hòa giải
viên sẽ đề nghị các bên tiến hành hòa giải tại
một nơi mà không chịu sự ảnh hưởng, ít nhất
là về mặt tâm lý, từ phía các bên. Vì vậy, địa
điểm hòa giải sẽ thường không là trụ sở của
một trong các bên, mà là trụ sở của trung
tâm hòa giải/văn phòng làm việc của hòa
giải viên hoặc bất kỳ nơi nào thuận tiện cho
các bên nhưng vẫn đảm bảo tính trung lập
và độc lập. Trong thương mại quốc tế, khi
có tranh chấp được giải quyết bằng hòa giải,
các doanh nghiệp thường chọn địa điểm là
một nước trung lập, không phải quốc gia mà
các bên tranh chấp có trụ sở hoặc đăng ký
doanh nghiệp13.
Ngôn ngữ trong quy trình hòa giải
cũng sẽ do các bên thỏa thuận hoặc do hòa
giải viên đề xuất để các bên thống nhất chọn.
Ngôn ngữ được lựa chọn phải là ngôn ngữ
13 Và Thụy Sĩ luôn là một sự lựa chọn tin cậy hàng đầu.
14 Dù Đạo luật Hòa giải 2012 không quy định một cách trực tiếp, nhưng theo thực tiễn hòa giải tại Đức thì sử dụng thông
thạo tiếng Anh là điều kiện tiên quyết để tham gia giải quyết các tranh chấp thương mại. Điều 7 Nghị định HGTM của
Việt Nam khi liệt kê các tiêu chuẩn của một hòa giải viên không đề cập đến tiêu chí về khả năng ngoại ngữ, thế nhưng
khi tham gia giải quyết các tranh chấp mà một hoặc các bên đương sự là doanh nghiệp nước ngoài thì sự thông thạo
ngoại ngữ, mà nhất là tiếng Anh, sẽ củng cố niềm tin của các bên dành cho hào giải viên.
15 Lê Nguyễn Gia Thiện, Số lượng trọng tài viên trong hội đồng trọng tài nhìn từ góc độ luật học so sánh, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, Số 15, 7/2012, tr. 44 - 49.
16 Thực tiễn tại Đức cho thấy, đôi khi các bên tranh chấp ngộ nhận về vai trò của các hòa giải viên, các bên này thường lầm
tưởng rằng nếu có hai hòa giải viên cùng tham gia giải quyết tranh chấp thì mỗi hòa giải viên sẽ đứng ra bảo vệ lợi ích
cho một bên. Điều này là hoàn toàn sai lầm vì hòa giải viên có sứ mệnh là giúp các bên đạt được những nguyện vọng
của mình thông qua việc trao đổi và đối thoại, chứ không phải nghiêng hẳn về một bên một cách thiên lệch như vậy.
có thể đảm bảo rằng các bên hiểu rõ tất cả
những gì diễn ra trong cả quá trình hòa giải.
Nếu hai bên tranh chấp sử dụng các ngôn
ngữ khác nhau thì để quy trình được diễn
ra thuận lợi, ngôn ngữ được đề xuất để giải
quyết tranh chấp thường sẽ là tiếng Anh14.
Số lượng hòa giải viên cũng là một
vấn đề mà các bên cần lưu ý. Đối với tố tụng
trọng tài, số lượng trọng tài viên có ý nghĩa
rất lớn15. Nếu là một số lẻ, hầu hết là một
hoặc ba, thì quá trình tố tụng sẽ được diễn
ra suôn sẻ và phán quyết được thông qua dễ
dàng. Thế nhưng, nếu số lượng trọng tài viên
của hội đồng trọng tài là một số chẵn thì rất
nhiều khả năng phán quyết trọng tài sẽ không
được thông qua vì không đạt được đa số.
Hơn nữa, nếu hội đồng trọng tài được thành
lập bao gồm một số lượng trọng tài viên khác
với con số mà các bên đã thỏa thuận thì đây
có thể là duyên cớ để một bên sử dụng để
yêu cầu tòa án hủy phán quyết trọng tài hay
không công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài. Đối với cơ chế hòa giải,
bởi vì các hòa giải viên không có thẩm quyền
ban hành quyết định mang tính ràng buộc và
chung thẩm như trọng tài nên số lượng hòa
giải viên tham gia vào quy trình hòa giải
không có nhiều ý nghĩa. Do đó, số lượng hòa
giải viên hoàn toàn theo ý nguyện của các
bên hoặc theo quy tắc hòa giải của trung tâm
hòa giải. Cần lưu ý là các hòa giải viên phải
cùng nhau làm việc trong suốt quá trình hòa
giải16, có các quyền và nghĩa vụ như nhau,
cùng liên đới chịu trách nhiệm trừ khi các
bên có thỏa thuận khác hoặc quy tắc hòa giải
quy định khác.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 12(364) T6/2018
- Thỏa thuận đa lớp17
TTHG đa lớp là thỏa thuận được hình
thành hoàn toàn dựa trên ý chí của các bên,
theo đó tranh chấp xảy ra giữa các bên sẽ
được giải quyết theo những phương thức
giải quyết tranh chấp riêng biệt, độc lập với
nhau và sự kết thúc của phương thức này sẽ
là căn nguyên để một bên khởi sự tố quyền
của mình tại một phương thức khác. Ví dụ
điển hình của thỏa thuận đa lớp sẽ là: “Tranh
chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp
đồng giữa các bên trước hết sẽ được giải
quyết thông qua sự thương lượng trên tinh
thần thiện chí. Nếu thương lượng không
thành công, một bên có thể mang tranh chấp
đến GMAA để giải quyết theo phương thức
hòa giải được vận hành bởi Quy tắc hòa giải
của GMAA. Nếu hòa giải bất thành, một
bên có quyền khởi kiện bên kia theo phương
thức trọng tài vận hành bởi Quy tắc tố tụng
trọng tài của GMAA”. Thỏa thuận như
trên là hoàn toàn hợp pháp vì đã chỉ rõ các
bước mà các bên trong hợp đồng cần phải
dự liệu khi tiến hành giải quyết tranh chấp
của mình. Các bên chỉ có thể mang tranh
chấp đến GMAA nếu như đã thương lượng
với nhau về nội dung vụ tranh chấp nhưng
không đạt được kết quả. Tương tự, một bên
cũng không thể kiện bên còn lại ra trước
trọng tài của GMAA nếu các bên chưa tiến
hành hòa giải theo đúng quy trình do GMAA
cung cấp.
- Các điều khoản nhằm hạn chế sự
không tham gia hòa giải
TTHG là sự đồng thuận về mặt ý chí
của các bên, đặt các bên vào tình thế thiện
chí để tham gia vào quy trình hòa giải18.
Thế nhưng một khi tranh chấp xảy ra, khả
năng một bên không muốn tham gia vào
17 Thomas Arntz, Eskalationsklauseln: Recht und mehrstufiger Streiterledigungsklauseln, Carl Heymanns Verlag, 2013.
18 Như Điều 242 BGB, Điều 3(3) BLDS 2015. Xem: Hess/Pelzer, tlđd, tr. 296.
19 Greger/Unberath, Mediationsgesetz, Sec. 1, Comment 169.
20 Khi một bên kiện bên không thiện chí ra trước tòa án để yêu cầu bên không thiện chí phải trả khoản dự phạt, bên khởi
kiện hoàn toàn có thể yêu cầu bên không thiện chí phải bồi hoàn những thiệt hại mà mình phải chịu do việc không tham
gia hòa giải của bên không thiện chí gây ra. Xem: Hess/Pelzer, tlđd, tr. 296.
21 Hannes Unberath, Mediationsklauseln in der Vertragsgestaltung: Prozessuale Wirkungen und Wirksamkeit, Neue
Juristische Wochenschrift, 2011, S.1323.
quá trình hòa giải là hiện hữu, bên này rõ
ràng là không hề thiện chí vì vốn dĩ đã đi
ngược lại những gì mình cam kết trước đó.
Vậy thì, liệu bên còn lại có phương cách gì
để buộc bên không thiện chí phải tham gia
vào quá trình hòa giải hay không? Chúng tôi
không tìm thấy câu trả lời trong cả luật Đức
và Việt Nam. Theo pháp luật Đức, việc một
bên buộc bên đối ước của mình phải tham
gia vào quy trình hòa giải là điều không thể,
hơn nữa bên thiện chí cũng không có quyền
khởi kiện bên không thiện chí ra trước Tòa
án để buộc bên không thiện chí phải tham
gia vào hòa giải19. Cái mà bên thiện chí có
thể cậy nhờ trong trường hợp này chính là
những điều khoản có khả năng ràng buộc
trách nhiệm của bên không thiện chí từ trước
khi tranh chấp xảy ra. Điều khoản phạt (hay
ước khoản dự phạt) là một sự lựa chọn phù
hợp. Ví dụ, các bên có thể quy định với nhau
trong thỏa thuận hòa giải rằng nếu bên nào
không chịu tham gia một cách thiện chí vào
quá trình hòa giải thì bên đó sẽ chịu phạt
một khoản tiền bằng 1/5 vụ tranh chấp20.
Thỏa thuận phạt này là một sự răn đe hữu
hiệu dành cho bên không thiện chí, góp phần
bảo vệ kỷ luật hợp đồng nói chung và tính
tuân thủ TTHG nói riêng.
3. Hình thức của thỏa thuận hòa giải
Hòa giải được vận hành hoàn toàn dựa
vào sự tự do hình thành từ thỏa thuận của
các bên, vì vậy sự tự do về mặt hình thức của
TTHG cũng là vấn đề cần được ủng hộ21.
Pháp luật Đức không quy định về hình thức
của TTHG, tuy nhiên hình thức văn bản sẽ
được khuyến khích vì có giá trị chứng cứ
không thể chối cãi. Tương tự với hình thức
bằng văn bản, nếu TTHG được lập thông
qua thông điệp dữ liệu điện tử thì cũng có
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 12(364) T6/2018
giá trị tương đương như văn bản22. Trên thực
tế, các Tòa án Đức chưa bao giờ xác định
sự vô hiệu của một TTHG căn cứ vào sự sai
phạm về mặt hình thức23. Ngược với pháp
luật Đức, hình thức của TTHG được pháp
luật Việt Nam minh thị rõ ràng, TTHG phải
được xác lập bằng văn bản24. Mặc dù Nghị
định HGTM không đề cập đến việc có chấp
nhận các TTHG được xác lập thông qua các
thông điệp, dữ liệu điện tử hay không, tuy
nhiên, chúng tôi cho rằng, hình thức này sẽ
đương nhiên được xem là văn bản vì Bộ luật
Dân sự năm 2015, với tư cách là luật chung
đã dự liệu rõ ràng25.
Do pháp luật Đức không có bất kỳ
điều khoản nào nói về hình thức của TTHG,
nên trên thực tế đã dẫn đến sự tranh luận
về việc liệu rằng các quy định về hình thức
của thỏa thuận trọng tài tại Điều 1031 ZPO
có thể được áp dụng vào trường hợp của
TTHG hay không26? Điều 1031 ZPO, được
nội luật hóa từ Điều 7 Luật Mẫu về Trọng tài
Thương mại quốc tế của UNCITRAL, nhấn
mạnh rằng, thỏa thuận trọng tài có thể được
xác lập thông qua những hình thức như: (i)
thỏa thuận trọng tài có thể nằm trong văn
bản được ký bởi các bên, hoặc thông qua
việc trao đổi thư từ, fax, điện tín hoặc các
hình thức thông tin khác có chứa đựng thỏa
thuận trọng tài; (ii) thỏa thuận trọng tài nằm
trong một văn bản được chuyển từ bên này
đến bên kia hoặc từ một bên thứ ba đến cả
hai bên và, nếu không có sự phản đối trong
thời gian phù hợp, nội dung của văn bản này
sẽ được xem như là một phần của hợp đồng
22 Điều 126(3) BGB.
23 Rützel/Wegen/Wilske, Commercial Dispute Resolution in Germany, C.H. Beck, 2005, p. 162.
24 Điều 11(2) Nghị định HGTM 2015.
25 Điều 119(1) Bộ luật Dân sự 2015.
26 Xem các ý kiến tranh luận tại Tochtermann in Hopt/Steffek, Mediation, p. 549; Unberath, NJW 2011, 1320, 1322;
dissenting; và Risse, Wirtschaftsmediation, section 3 comment 14.
27 Điều 16(2) Luật Trọng tài thương mại của Việt Nam cũng quy định tương tự.
28 Về bản chất, hòa giải linh động hơn trọng tài.
29 Alternative dispute resolution (ADR)- giải quyết tranh chấp,
30 Có nghĩa là ủng hộ trọng tài.
31 Điều 11(1) Nghị định HGTM 2015.
32 Thường được mệnh danh là Điều khoản giải quyết tranh chấp và thường nằm ở cuối hợp đồng, nếu nhìn từ khía cạnh
kỹ thuật soạn thảo hợp đồng.
theo thực tiễn thương mại; (iii) thỏa thuận
trọng tài cũng được thành lập từ sự dẫn chiếu
đến một điều khoản trọng tài nằm trong một
văn bản nhất định; (iv) trong trường hợp một
bên là người tiêu dùng thì thỏa thuận trọng
tài phải được lập thành văn bản có chữ ký
của các bên27. Trọng tài hay hòa giải đều
là những hình thức giải quyết tranh chấp
tư nhân, nơi mà sự linh động và mềm dẻo
luôn được đề cao28, vì thế, với tinh thần ủng
hộ hòa giải (pro-mediation) cũng như ủng
hộ các phương pháp giải quyết tranh chấp
ngoài tòa án nói chung (pro-ADR)29, chúng
tôi cho rằng, không có lý do gì những quy
định của Điều 1031 ZPO lại không thể được
áp dụng cho hình thức của TTHG.
Quay trở lại bối cảnh của luật Việt
Nam, việc áp dụng các quy định về hình
thức của thỏa thuận trọng tài vào TTHG
sẽ gặp nhiều khó khăn vì Điều 11(2) Nghị
định HGTM vốn đã hạn định hình thức của
TTHG chỉ có thể là văn bản. Vì vậy, để
đạt được tinh thần pro-arbitration30 và pro-
ADR, chúng tôi kiến nghị điều khoản này
nên được thay thế bằng điều khoản sau:
“Hình thức của TTHG giống như hình thức
của thỏa thuận trọng tài theo quy định của
pháp luật về trọng tài thương mại”.
Một vấn đề nữa cần lưu tâm là sự tồn
tại của TTHG. Do chịu ảnh hưởng của quan
điểm chỉ công nhận hình thức là văn bản của
TTHG nên pháp luật Việt Nam có dự liệu về
hai trường hợp mà TTHG có thể tồn tại31:
tồn tại dưới dạng một điều khoản trong hợp
đồng32 hoặc là một dạng thỏa thuận riêng
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 12(364) T6/2018
biệt33. Ở Đức, mặc dù pháp luật hoàn toàn
không quy định về hình thức văn bản như
Việt Nam, tuy nhiên, trên thực tế, sự tồn tại
của hai trường hợp này là hiện hữu34. Chúng
tôi cho rằng, sở dĩ như vậy là vì TTHG là
một thỏa thuận hoàn toàn độc lập với hợp
đồng thương mại giữa các bên nên sự tồn tại
của nó là trong hay ngoài hợp đồng thương
mại không ảnh hưởng gì đến hiệu lực cũng
như tính ràng buộc của TTHG.
TTHG là căn nguyên của cả quy trình
hòa giải thương mại, vì các bên không thể
mang tranh chấp đến cậy nhờ cơ quan hòa
giải giải quyết nếu giữa các bên không tồn
tại một TTHG phù hợp. TTHG trước hết là
một thỏa thuận dân sự đặc biệt, nên cũng như
tất cả mọi thỏa thuận dân sự khác, TTHG
tuyệt đối thượng tôn tinh thần tự do thỏa
thuận của các bên. Vì lẽ đó, trong các văn
bản pháp luật về hòa giải của cả Việt Nam và
Đức, không bao hàm những quy định cụ thể
33 Có thể châm chước gọi là “hợp đồng hòa giải”.
34 Xem: Hess/Pelzer, Mediation in Germany: Finding the Right Balance between Regulation and Self-Regulation, in
Esplugues/Marquis (chủ biên), New Developments in Civil and CommercialMediation, Springer, 2015, p. 296.
nhằm điều chỉnh nội dung và hình thức của
TTHG. Điều này tạo điều kiện để các bên
phát huy tối đa sự chủ động và thiện chí của
mình khi thiết lập TTHG. Mặc dù HGTM,
với tư cách là một dịch vụ giải quyết tranh
chấp, đã được một số tổ chức tư nhân, điển
hình là các trung tâm trọng tài, triển khai từ
khoảng 10 năm nay ở nước ta, nhưng thực tế
số lượng vụ việc được giải quyết bằng hòa
giải ít hơn nhiều so với trọng tài. Chúng tôi
hy vọng rằng, những kinh nghiệm của pháp
luật Đức về HGTM nói chung, cũng như
TTHG nói riêng, sẽ phần nào hữu ích cho
việc thiết lập một hệ thống HGTM hiệu quả
và ngày càng tiệm cận với những chuẩn mực
HGTM trên thế giới■
ra được những thông tin chứng minh những
tài sản có được là hợp pháp, thì cơ quan công
tố sẽ khởi kiện vụ án dân sự để chuyển giao
tài sản đã có được cho Nhà nước (Luật này
bắt đầu thi hành từ ngày 3/12/2012).
- Ở Singapore, Điều 165 Bộ luật Hình
sự năm 2007 quy định: với loại tài sản lớn
hơn TS,TN đã kê khai hoặc có TS,TN tăng
thêm mà người kê khai không giải trình được
một cách hợp lý về nguồn gốc thì người kê
khai “sẽ bị phạt tù đến 2 năm, phạt tiền hoặc
cả hai hình phạt”.
- Ở Trung Quốc, Điều 395 Luật Hình
sự năm 2011 quy định: Bất kỳ công chức
nào có tài sản hoặc chi tiêu rõ ràng vượt quá
thu nhập hợp pháp, nếu có sự khác biệt thì
có thể bị yêu cầu giải thích về nguồn gốc tài
sản của người đó. Nếu công chức không thể
giải thích được về nguồn gốc hợp pháp của
tài sản, thì phần tài sản vượt quá thu nhập
hợp pháp của họ sẽ bị coi là tài sản bất hợp
pháp, và bị phạt tù đến 05 năm hoặc cải tạo
không giam giữ và tài sản vượt quá thu nhập
hợp pháp sẽ bị tịch thu.
Trở lại dự thảo Luật PCTN (sửa đổi)
của chúng ta, theo chúng tôi, tài sản bất minh
(trong đó chủ yếu là tài sản tham nhũng) thì
phương án tốt nhất, khả thi nhất là phải sung
công (cho dù có thể phải sửa đổi, bổ sung
một vài điều của Bộ luật Tố tụng hình sự,
Bộ luật Tố tụng dân sự... song việc này hoàn
toàn trong tầm tay của cơ quan lập pháp)■
(Tiếp theo trang 40)
HOÀN THIỆN CÁC CHẾ TÀI ĐỂ ...
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 12(364) T6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khai_niem_noi_dung_va_hinh_thuc_cua_thoa_thuan_hoa_giai_nhin.pdf