Khái quát lịch sử hình thành và hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt người phạm tội quả tang

Đối với những việc cần làm ngay sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt nói chung và trong trường hợp phạm tội quả tang nói riêng, khoản 1 Điều 114 Bộ luật TTHS năm 2015 cũng đã rút ngắn thời gian xem xét việc ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt từ 24 giờ xuống còn 12 giờ, cụ thể: “Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp,bắt người hoặc nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Việc rút ngắn thời gian này sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc củng cố tài liệu, chứng cứ làm căn cứ ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Bộ luật TTHS năm 2003 đã có quy định thông báo về việc bắt. Tuy nhiên, nội dung quy định này chưa nêu rõ về thời hạn thông báo vì vậy không đảm bảo tính kịp thời của việc thông báo trên thực tế. Ngoài ra, nội dung thông báo này cũng chưa quy định trong trường hợp người bị bắt là người nước ngoài. Khắc phục những hạn chế nêu trên, Điều 116 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định rõ về việc thông báo.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 191 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khái quát lịch sử hình thành và hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về biện pháp bắt người phạm tội quả tang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 22 KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BIỆN PHÁP BẮT NGƯỜI PHẠM TỘI QUẢ TANG Ngô Văn Vịnh1 Tóm tắt: Biện pháp bắt người phạm tội quả tang được quy định từ rất sớm và liên tục được hoàn thiện qua các lần sửa đổi, bổ sung văn bản pháp lý điều chỉnh về hoạt động này. Bài viết sau nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử hình thành và hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt người phạm tội quả tang, nhằm nâng cao nhận thức về biện pháp này, qua đó góp phần tạo cơ sở vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật, đảm bảo bắt đúng người, đúng tội. Từ khóa: Bộ luật tố tụng hình sự, bắt người, phạm tội quả tang, Nhận bài: 05/10/2017; Hoàn thành biên tập:15/11/2017; Duyệt đăng:28/11/2017. Abstract: Method of arresting offenders red-handed is early regulated and gradually finalized through amendment, supplement of legal regulating documents. The article focuses on researching, understanding history of development and finalization of criminal procedure regulations on method of arresting offenders red-handed to increase awareness on this method in order to make ground for properly applying legal regulations to ensure the right arrest. Keywords: Criminal Procedure Code, arresting offenders, offenders red-handed, Date of receipt: 05/10/2017; Date of revision: 15/11/2017; Date of approval: 28/11/2017. 1. Biện pháp bắt người phạm tội quả tang trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thời kỳ từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước năm 1988 Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã đánh đổ hoàn toàn bộ máy nhà nước phong kiến và dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuy nhiên chính quyền non trẻ phải đối mặt với vô số những khó khăn chồng chất như: Nền kinh tế vốn lệ thuộc lại càng kiệt quệ do phát xít Nhật khai thác triệt để trong chiến tranh thế giới thứ hai; nạn đói hoành hành; thực dân Pháp được sự giúp đỡ đắc lực của quân đội Anh vào giải giáp vũ khí của quân đội Nhật Bản trở lại gây hấn ở Nam Bộ; bọn tay sai người Việt trỗi dậy với âm mưu lật đổ chính quyền cách mạngCùng với việc củng cố chính quyền còn non trẻ, thiết lập trật tự mới, Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật, trong đó có các văn bản pháp luật tố tụng hình sự (TTHS). Tuy nhiên trong thời kỳ này, hệ thống pháp luật TTHS Việt Nam được điều chỉnh chủ yếu bằng các sắc lệnh, nghị định, thông tư hoặc các bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp bắt nói riêng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật chứa đựng các quy định về bắt người và sử dụng biện pháp đó như một phương tiện sắc bén để đấu tranh phòng chống bọn Việt gian phản động và các tội phạm nguy hiểm khác. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên biện pháp bắt mới chỉ được quy định xen kẽ trong các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy. Cụ thể ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán, trong đó Điều thứ 4 quy định: “Ban Tư pháp xã không có quyền tịch thu tài sản của ai, cũng không có quyền bắt bớ, giam giữ ai trừ khi có trát nã của một Thẩm phán hay, khi thấy người phạm tội quả tang”. Như vậy, theo quy định này thì có hai trường hợp bắt người có thể được áp dụng: bắt người theo trát nã của Thẩm phán và bắt người phạm tội quả tang. Còn theo Điều thứ 5 1 Thạc sỹ, Bộ môn Pháp luật và nghiệp vụ Công an, Học viện Chính trị Công an nhân dân. Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 23 của Sắc lệnh này thì:“Khi bắt người trong hai trường hợp trên, Ban Tư pháp xã phải lập biên bản hỏi cung và giải bị can lên ngay Toà án trên trong hạn 24 giờ là cùng”. Nghiên cứu Sắc lệnh số 13/SL cho thấy pháp luật nước ta những ngày đầu đã bước đầu xác định về thẩm quyền và thủ tục bắt người trong đó có bắt người phạm tội quả tang. Tuy nhiên, quy định về biện pháp này còn đơn giản, chưa chặt chẽ, đặc biệt chưa xác định rõ các căn cứ bắt. Tiếp đến, ngày 29/3/1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ký Sắc lệnh số 40/SL về bảo vệ tự do cá nhân, trong đó Điều thứ 1 quy định: “Chỉ trừ khi nào có sự phạm pháp quả tang về khinh tội hay trọng tội còn bao giờ bắt người cũng cần phải có lệnh của Thẩm phán viên. Lệnh bắt người của Thẩm phán viên phải viết ra giấy và bao giờ cũng do nhân viên của các cơ quan chính thức đem thi hành. Ở nơi nào chưa đặt thẩm phán viên thì có những cơ quan do luật pháp đã ấn định để thay cho thẩm phán viên thì mới có quyền ra lệnh bắt người”. Theo quy định này, thẩm quyền ra lệnh bắt thuộc về Thẩm phán viên, ngoài ra, bất kỳ ai cũng không được quyền bắt người trừ trường hợp có sự phạm pháp quả tang về khinh tội hay trọng tội. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện những quy định nêu trên, Điều thứ 2 Sắc lệnh số 40/SL đã đưa ra khái niệm về phạm pháp quả tang và trình tự, thủ tục bắt người phạm pháp quả tang:“Khi nào sự phạm pháp đương xẩy ra hoặc vừa xẩy ra trước mắt hoặc khi nào kẻ phạm pháp còn đương bị công chúng theo đuổi hay còn đương cầm giữ tang vật thì gọi là phạm pháp quả tang. Trong trường hợp đặc biệt ấy (trường hợp phạm pháp quả tang) thì bắt người không cần phải có lệnh trước của Thẩm phán viên. Tư nhân bắt được kẻ phạm pháp quả tang phải lập tức dẫn đến trình nhà chức trách ở gần đấy nhất. Những nhân viên có trách nhiệm về việc tuần phòng có thể dẫn người bị bắt đến thẳng Thẩm phán viên mà không cần phải hỏi cung trước.Bất kỳ vào trường hợp nào trong thời hạn 24 giờ kể từ lúc bắt, người bị bắt cũng phải được đem ra trước mặt Thẩm phán viên để lấy cung”. Theo quy định này, có bốn trường hợp được gọi là phạm pháp quả tang:sự phạm pháp đương xẩy ra; sự phạm pháp vừa xẩy ra trước mắt; kẻ phạm pháp còn đương bị công chúng theo đuổi; kẻ phạm phá còn đương cầm giữ tang vật. Bên cạnh đó, trình tự, thủ tục của việc bắt người phạm pháp quả tang cũng đã được Sắc lệnh này quy định nhưng còn đơn giản. Tuy nhiên đây cũng là những điểm tiến bộ hơn của Sắc lệnh này so với Sắc lệnh số 13/SL trước đây và đã được các văn bản pháp luật sau kế thừa. Dẫu vậy có thể nhận thấy, Sắc lệnh số 40/SL cũng mới chỉ xác định bắt phạm pháp quả tang và bắt thường, mà chưa xác định các trường hợp bắt người khác. Để khắc phục các hạn chế này, ngày 20/5/1957 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký ban hành Luật số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân, trong đó Điều 4 đã xác định thẩm quyền, đặc biệt quy định đầy đủ hơn về trình tự, thủ tục bắt người phạm tội quả tang: “Đối với những người phạm pháp quả tang, bất cứ người nào cũng có quyền bắt và phải giải ngay đến Uỷ ban Hành chính, Toà án nhân dân hoặc đồn công an nơi gần nhất. Trong những trường hợp khẩn cấp, cơ quan công an có thể bắt giữ trước khi có lệnh viết của các cơ quan định trong điều 3, và phải báo cho các cơ quan đó biết”. Ngoài ra, so với Sắc lệnh số 40/SL, Luật số 103-SL/L.005 đã bổ sung thêm thủ tục: “Người phạm pháp bị bắt phải được giải lên cơ quan tư pháp hoặc cơ quan công an từ cấp huyện trở lên trong hạn hai mươi bốn giờ kể từ lúc bắt” (Điều 5). Tuy nhiên Điều 4 Luật số 103-SL/L.005 cũng mới chỉ quy định:“Những trường hợp phạm pháp quả tang và trường hợp khẩn cấp là những trường hợp đặc biệt do luật quy định” mà chưa xác định cụ thể về các trường hợp phạm pháp quả tang. Đây cũng là điểm hạn chế cần phải được hoàn thiện trong các văn bản HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 24 luật tiếp theo. Bên cạnh đó, việc Luật số 103- SL/L.005 vẫn sử dụng thuật ngữ “phạm pháp” với nghĩa là bất cứ vi phạm pháp luật nào, từ vi phạm hình sự, vi phạm hành chính đến vi phạm dân sự đều có thể bị áp dụng biện pháp bắt người phạm pháp quả tang là quá rộng. Ngoài ra, những thủ tục cần tiến hành ngay sau khi bắt người phạm pháp quả tang còn chưa được quy định cụ thể. Do đó, các cơ quan có thẩm quyền khó khăn trong việc áp dụng và điều tra, xử lý. Để kịp thời hướng dẫn và thực thi Luật số 103-SL/L005 có hiệu quả, ngày 18/6/1957, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra Sắc luật số 002/SLt quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, những trường hợp khẩn cấp và những trường hợp khám người phạm pháp quả tang. Theo đó, Sắc luật số 002/SLt đã quy định về bốn trường hợp phạm pháp quả tang và thẩm quyền bắt phạm pháp quả tang tại Điều 1: “Để kịp thời giữ kẻ phạm pháp đã gây thiệt hại đến an toàn của Nhà nước, đến trật tự xã hội, đến tài sản của Nhà nước, đến tính mệnh tài sản của nhân dân, nay quy định những trường hợp sau đây là phạm pháp quả tang mà người công dân nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến Uỷ ban hành chính, Toà án nhân dân hoặc Đồn công an nơi gần nhất: 1- Đang làm việc phạm pháp hoặc sau khi phạm pháp thì bị phát giác ngay. 2- Đang bị đuổi bắt sau khi phạm pháp. 3- Đang bị giam giữ mà lẩn trốn. 4- Đang có lệnh truy nã”. Có thể thấy, so với quy định tại Sắc lệnh số 40/SL thì Sắc luật số 002/SLt đã quy định thêm hai trường hợp phạm pháp quả tang là đang bị giam giữ mà lẩn trốn và đang có lệnh truy nã. Như vậy ở đây đã có sự đồng nhất giữa bắt người phạm pháp quả tang và bắt người có lệnh truy nã. Ngoài ra, Điều 3 Sắc luật số 002/SLt cũng cho phép người bắt quả tang được quyền khám để tước vũ khí:“Để bảo vệ cho người bắt giữ khỏi bị kẻ phạm pháp quả tang hung hãn hãm hại, nay quy định: Đối với kẻ phạm pháp quả tang là thổ phỉ, biệt kích, kẻ giết người hoặc cướp của, côn đồ hung hãn thì người công dân nào khi bắt giữ cũng có quyền khám để tước vũ khí”. Việc bổ sung quy định này nhằm đảm bảo an toàn cho tính mạng, sức khỏe của người bắt giữ. Có thể thấy việc Sắc luật số 002/SLt quy định rõ về bốn trường hợp bắt người phạm pháp quả tang đã đánh dấu một bước phát triển mới về kỹ thuật lập pháp trong lĩnh vực TTHS. Như vậy, so với các văn bản pháp luật đã ban hành trước đây, Sắc luật số 002-SLt đã có sự thay đổi, bổ sung khá lớn quy định về bắt người phạm tội quả tang. Tuy nhiên, việc tiếp tục sử dụng thuật ngữ “phạm pháp” đã mở rộng diện người bị bắt cho nên đã dẫn đến không ít các trường hợp lạm dụng việc bắt người, vi phạm đến quyền tự do thân thể của công dân. Ngày 10/7/1957, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành Nghị định số 301/TTg quy định chi tiết thi hành Luật số 103/SL-L005 ngày 20/5/1957. Tuy nhiên, đối với biện pháp bắt người phạm tội quả tang, Nghị định này không có sự sửa đổi, bổ sung. Ở Miền Nam, sau khi Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam ra đời, ngày 15/03/1976 Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 02/SL-76 quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật, trong đó Điều 1 quy định nguyên tắc chung: “Việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật phải có lệnh viết của cơ quan có thẩm quyền, trừ trường hợp phạm tội quả tang và trường hợp khẩn cấp quy định ở các Điều 2 và 3 dưới đây”. Về các trường hợp bắt người phạm tội quả tang, Điều 2 Sắc luật số 02/SL-76 quy định: “Trong trường hợp phạm tội quả tang, bất cứ công dân nào cũng có quyền bắt và giải ngay kẻ phạm tội đến Ủy ban nhân dân cách mạng, cơ quan an ninh, hoặc Viện kiểm sát nhân dân gần nhất. Những trường hợp sau đây là phạm tội quả tang: a) Đang làm việc phạm tội hoặc ngay sau khi phạm tội thì bị phát giác. Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 25 b) Đang bị đuổi bắt sau khi phạm tội. c) Đang bị giam giữ mà lẫn trốn. d) Đang có lệnh truy nã”. Như vậy, về cơ bản Sắc luật số 02/SL-76 kế thừa các trường hợp bắt người phạm pháp quả tang được quy định trong Sắc luật số 002/SLt, nhưng Sắc luật số 02/SL-76 đã sử dụng thuật ngữ “phạm tội” để thay thế cho thuật ngữ “phạm pháp”. Đây cũng là một bước tiến mới về kỹ thuật lập pháp thể hiện sự phát triển trong tư duy của các nhà lập pháp. Tuy nhiên, việc Sắc luật số 02/SL-76 tiếp tục quy định trường hợp đang có lệnh truy nã là một trường hợp phạm tội quả tang cũng chưa hợp lý vì bắt người phạm tội quả tang khác về bản chất so với bắt người đang có lệnh truy nã. 2. Biện pháp bắt người phạm tội quả tang trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam thời kỳ từ năm 1988 đến nay Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, trước hết là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với nội dung chủ yếu là xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, hình thành cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Chính sách kinh tế mới đã tạo động lực cho sự phát triển và nâng cao mức sống cho xã hội, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, hiện tượng tiêu cực mới nảy sinh trong xã hội lại tăng lên, tội phạm gia tăng, oan sai và xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân diễn ra nhiều hơn Trong bối cảnh đó, các văn bản pháp luật về TTHS nói chung và biện pháp ngăn chặn, biện pháp bắt nói riêng được ban hành rải rác đã không thể hiện đầy đủ các chính sách của Đảng và Nhà nước trong pháp luật TTHS. Khắc phục bất cập đó, ngày 28/6/1988, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp thứ 3 thông qua Bộ luật TTHS đầu tiên: Bộ luật TTHS năm 1988. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp, những quy định về biện pháp bắt người được xây dựng tập trung, thống nhất trong một Bộ luật, có những thay đổi sâu sắc và tương đối phát triển. Bộ luật TTHS năm 1988 cũng có ba lần sửa đổ, bổ sung vào các năm: 1990, 1992 và 2000. Các lần sửa đổi, bổ sung đã đáp ứng kịp thời yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trong từng thời kỳ và đã từng bước thể chế hóa một số quan điểm mới về cải cách tư pháp ở nước ta. Trước khi có Bộ luật TTHS năm 1988, một số văn bản pháp luật như Sắc luật số 002/SLt; Sắc luật số 02/SL-76 chưa quy định biện pháp bắt người đang bị truy nã. Theo các văn bản pháp luật này thì việc bắt người đang có lệnh truy nã thuộc về một trong các trường hợp bắt người phạm tội quả tang. Rõ ràng, việc coi bắt người đang có lệnh truy nã là một trường hợp bắt người phạm tội quả tang là không hợp lý. Do đó, Bộ luật TTHS năm 1988 đã bổ sung biện pháp bắt người đang bị truy nã nhưng lại quy định chung trong cùng một điều luật với bắt người phạm tội quả tang. Về căn cứ áp dụng, theo khoản 1 Điều 64 Bộ luật TTHS năm 1988 thì có ba căn cứ (trường hợp) bắt người phạm tội quả tang, đó là: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt; người ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt; người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị đuổi bắt. Như vậy, Bộ luật TTHS năm 1988 đã kế thừa hai trường hợp bắt người phạm tội quả tang được quy định tại Sắc luật số 02/SL-76, đó là: Đang làm việc phạm tội hoặc ngay sau khi phạm tội thì bị phát giác; Đang bị đuổi bắt sau khi phạm tội. Còn những trường hợp: Đang bị giam giữ mà lẫn trốn; Đang có lệnh truy nã, Bộ luật đã xóa bỏ. Về thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang, Bộ luật TTHS năm 1988 quy định bất kỳ ai cũng có quyền bắt và “Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí của người bị bắt” (khoản 2 Điều 64). Về trình tự, thủ tục bắt, cũng theo khoản 1 Điều 64 Bộ luật TTHS năm 1988, khi bắt người phạm tội quả tang không cần có lệnh hay quyết định của cá nhân hoặc cơ quan nào, đồng thời HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP 26 “giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền”. Ngoài ra, khoản 1 Điều 65 Bộ luật TTHS năm 1988 còn quy định rõ những việc cần làm ngay sau khi nhận người bị bắt: “Sau khi nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính công khai, Bộ luật TTHS năm 1988 còn quy định cụ thể thông báo về việc bắt: “Người ra lệnh bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt phải thông báo ngay” (Điều 67). Rõ ràng, Bộ luật TTHS năm 1988 đã quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn về biện pháp bắt người phạm tội quả tang trên các phương diện: thẩm quyền, căn cứ áp dụng, trình tự, thủ tục và những việc cần làm ngay sau khi bắt cũng như thông báo về việc bắt. Ngày 26/11/2003, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Bộ luật TTHS năm 2003. Về căn cứ bắt, thẩm quyền bắt và trình tự, thủ tục bắt người phạm tội quả tang, Bộ luật TTHS năm 2003 đã giữ nguyên so với Bộ luật TTHS năm 1988. Đối với thông báo về việc bắt, Bộ luật TTHS năm 1988 chỉ quy định trách nhiệm thông báo thuộc về người ra lệnh bắt. Tuy nhiên, đối với bắt người phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã thì “bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền” (khoản 1 Điều 64 Bộ luật TTHS năm 1988). Rõ ràng trong trường hợp này, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt lại không phải thông báo về việc bắt. Điều này là không logic và thiếu hợp lý. Do đó, Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2003 đã bổ sung cả Cơ quan điều tra nhận người bị bắt cũng có trách nhiệm thông báo về việc bắt, cụ thể: “Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay”. Ngày 27/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Bộ luật TTHS năm 2015. Trong Bộ luật TTHS năm 1988 và Bộ luật TTHS năm 2003, bắt người phạm tội quả tang và bắt người đang bị truy nã được quy định chung tại một điều luật. Tuy nhiên do bản chất của bắt người phạm tội quả tang khác so với bắt người đang bị truy nã, do đó để bảo đảm rõ ràng, Bộ luật TTHS năm 2015 tách nội dung này thành hai điều luật riêng biệt quy định về bắt người phạm tội quả tang (Điều 111) và bắt người đang bị truy nã (Điều 112). Khoản 1 Điều 82 BLTTHS năm 2003 quy định:“Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền”. Với quy định này thì cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất có trách nhiệm lập biên bản về việc bắt người và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Tuy nhiên, trên thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau như khoảng cách địa lý xa xôi mà việc bắt đối tượng lại diễn ra trong đêm, phương tiện đi lại không có, điều kiện thời tiết xấumà nhiều trường hợp các cơ quan này không thể giải ngay đối tượng đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền được. Vì vậy Soá 6/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai 27 để khắc phục được bất cập này, khoản 1 Điều 111 BLTTHS năm 2015 đã quy định: “Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền”. Như vậy với quy định này thì các cơ quan nói trên có thể giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra cóthẩm quyền. Về căn cứ bắt, thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang, Bộ luật TTHS năm 2015 giữ nguyên so với Bộ luật TTHS năm 2003. Về nội dung, Bộ luật TTHS năm 2015 đã bổ sung trách nhiệm của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an trong việc phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang để tạo cơ sở pháp lý cho các lực lượng này thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, cụ thể:“Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy định của pháp luật; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền” Đối với những việc cần làm ngay sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt nói chung và trong trường hợp phạm tội quả tang nói riêng, khoản 1 Điều 114 Bộ luật TTHS năm 2015 cũng đã rút ngắn thời gian xem xét việc ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt từ 24 giờ xuống còn 12 giờ, cụ thể: “Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp,bắt người hoặc nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt”. Việc rút ngắn thời gian này sẽ góp phần nâng cao trách nhiệm của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong việc củng cố tài liệu, chứng cứ làm căn cứ ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt. Bộ luật TTHS năm 2003 đã có quy định thông báo về việc bắt. Tuy nhiên, nội dung quy định này chưa nêu rõ về thời hạn thông báo vì vậy không đảm bảo tính kịp thời của việc thông báo trên thực tế. Ngoài ra, nội dung thông báo này cũng chưa quy định trong trường hợp người bị bắt là người nước ngoài. Khắc phục những hạn chế nêu trên, Điều 116 Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định rõ về việc thông báo./. Tài liệu tham khảo: 1. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946), Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán. 2. Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946), Sắc lệnh số 40/SL ngày 29/3/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà về bảo vệ tự do cá nhân. 3. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1957), Luật số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. 4. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (1957), Sắc luật số 002/SLt ngày 18/6/1957 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra quy định những trường hợp phạm pháp quả tang, những trường hợp khẩn cấp và những trường hợp khám người phạm pháp quả tang. 5. Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1976), Sắc luật số 02/SL-76ngày 15/03/1976 của Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, khám đồ vật. 6. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2003, Hà Nội. 7. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng hình sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2015, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhai_quat_lich_su_hinh_thanh_va_hoan_thien_cac_quy_dinh_cua.pdf
Tài liệu liên quan