MỤC LỤC
Lời cảm tạ ii
Lời cam đoan iii
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn iv
Mục lục v
Danh mục biểu bảng vi
PHẦN GIỚI THIỆU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1
1. Mục tiêu chung 1
2. Mục tiêu cụ thể 2
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 2
1. Phạm vi thời gian: 2
2. Phạm vi không gian: 2
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2
1. Phương pháp thu thập số liệu: 2
2. Phương pháp phân tích số liệu: 2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP VÀ ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3
1.1. TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM. 3
1.2. ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP, HỢP TÁC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI 4
1.2.1. Điều kiện thành lập, hợp tác. 4
1.2.2. Những lĩnh vực hoạt động của ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam 6
CHƯƠNG II SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 8
2.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN. 8
2.2. CHIẾN LƯỢC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM. 11
2.3. NHỮNG LỢI THẾ VÀ KHÓ KHĂN CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI KHI VÀO NƯỚC TA. 13
2.3.1. Những lợi thế so với ngân hàng trong nước. 13
2.3.2. Khó khăn của các ngân hàng nước ngoài. 15
CHƯƠNG III TÁC ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP 17
3.1. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC. 17
3.2. THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC. 18
CHƯƠNG IV MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH KHI CÓ SỰ THAM GIA
CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI 20
4.1. ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 20
4.2. ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC. 22
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN: 24
II. KIẾN NGHỊ: 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
DANH MỤC BIỂU BẢNG
Bảng 1: Sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài từ 2005 - 2007 8
Bảng 2: Tình hình hoạt động của các ngân hàng nước 10
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước kinh tế đang phát triển muốn tiếp cận nhanh nền kinh tế tiên tiến. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế là một hướng đi đúng và quan trọng làm tiền đề cho việc tạo dựng vị thế trên trường quốc tế, đồng thời mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng thương mại (NHTM) – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng đứng trước những thách thức lớn.
Theo các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, khu vực dịch vụ tài chính - ngân hàng là khu vực được mở cửa rất đáng kể cho các đối tác nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam từ 1/4/2007 trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng trong nước, nhà đầu tư nước ngoài được mua không quá 30% cổ phần trong các ngân hàng Việt Nam; các ngân hàng nước ngoài được huy động Việt Nam đồng (VND) với mức độ lớn hơn, . và đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận các doanh nghiệp trong nước để cho vay. Theo lộ trình, từ nay đến năm 2010, nước ta sẽ mở cửa căn bản thị trường dịch vụ ngân hàng và tự do hóa thương mại dịch vụ tài chính trên cơ sở các nguyên tắc của WTO, nhằm bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng nước ngoài theo cam kết đa phương và song phương, loại dần các hình thức bảo hộ đối với các ngân hàng trong nước.
Vì lý do đó, em chọn đề tài “Khái quát sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam” để tìm hiểu thêm về cơ hội, thách thức của các ngân hàng nước ngoài sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2. Mục tiêu chung:
Chuyên đề “Khái quát sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam hiện nay” nhằm mục tiêu phân tích, đánh giá hoạt động và ảnh hưởng của các ngân hàng nước ngoài ở nước ta trong những năm gần đây, phân tích những lợi thế và khó khăn để từ đó đề ra những biện pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện thị trường, phát triển nền kinh tế.
2. Mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu tiến trình hội nhập và điều kiện thành lập ngân hàng nước ngoài ở Việt nam.
- Phân tích sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài trong thời gian qua.
- Tác động của các ngân hàng nước ngoài đến hệ thống ngân hàng trong nước.
- Nêu lên các giải pháp hoàn thiện thị trường tài chính tiền tệ khi có sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1. Phạm vi thời gian:
Số liệu được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2004 – 06/2009.
2. Phạm vi không gian:
Trên lãnh thổ Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Ngân hàng nước ngoài có vốn đầu tư ở Việt Nam.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3. Phương pháp thu thập số liệu:
- Phương pháp thu thập số liệu: chuyên đề chủ yếu sử dụng số liệu thứ cấp. Nguồn số liệu thứ cấp này được thu thập từ sách, báo, tạp chí và từ các trang web cung cấp thông tin về sự phát triển của ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam trước và sau khi hội nhập.
- Phương pháp phân tích số liệu: tổng hợp các số liệu, so sánh các số tương đối, số tuyệt đối thu thập được sau đó tiến hành phân tích số liệu cho ra kết quả.
4. Phương pháp phân tích số liệu:
Phương pháp so sánh số liệu, tổng hợp các sự kiên, phân tích các vấn đề, khái quát hóa, , từ đó rút ra kết luận.
33 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khái quát sự phát triển của Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dẫn: Sinh viên thực hiện:
TRẦN THỊ HẠNH PHÚC ĐẶNG TÂY BÌNH
MSSV: 4074037
Cần Thơ,09/2009
LỜI CẢM TẠ
Trước hết em xin chân thành cảm ơn Khoa Kinh Tế & QTKD đã giúp cho sinh viên làm chuyên đề chuyên ngành, một mặt là bước chuyển tiếp giúp chúng em khỏi lúng túng khi sắp làm luận văn tốt nghiệp, một mặt giúp chúng em tiếp cận các vấn đề kinh tế đang đặt ra, vận dụng những lý thuyết đã học để áp dụng vào thực tế.
Em xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy của các thầy cô trường Đại học Cần Thơ, đặc biệt là thầy cô Khoa kinh Tế & QTKD đã cung cấp nhiều kiến thức cho em trong suốt những năm học qua để em có thể làm tốt chuyên đề này.
Và cuối cùng, em đặc biệt cảm ơn cô Trần Thị Hạnh Phúc, mặc dù trong quá trình làm đề cương, nộp bản nháp đến hoàn thành bản chính em đã có nhiều sai sót về nội dung cũng như hình thức trình bày, nhưng nhờ sự nhiệt tình hướng dẫn của cô mà em đã khắc phục để hoàn thành chuyên đề nghiên cứu của mình.
LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan rằng đề tài này do chính em thực hiện, các số liệu thu thập và kết quả phân tích trong đề tài là trung thực, đề tài không trùng với bất kỳ đề tài nghiên cứu khoa học nào.
Cần Thơ, ngày 08 tháng 11 năm 2009
Sinh viên thực hiện
Đặng Tây Bình
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
Ngày …. tháng …. năm……
Giáo viên hướng dẫn
(ký và ghi họ tên)
MỤC LỤC
Lời cảm tạ ii
Lời cam đoan iii
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn iv
Mục lục v
Danh mục biểu bảng vi
PHẦN GIỚI THIỆU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 1
Mục tiêu chung 1
2. Mục tiêu cụ thể 2
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 2
1. Phạm vi thời gian: 2
2. Phạm vi không gian: 2
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2
Phương pháp thu thập số liệu: 2
Phương pháp phân tích số liệu: 2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP VÀ ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 3
1.1. TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM. 3
1.2. ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP, HỢP TÁC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI 4
1.2.1. Điều kiện thành lập, hợp tác. 4
Những lĩnh vực hoạt động của ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam 6
CHƯƠNG II SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 8
2.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN. 8
2.2. CHIẾN LƯỢC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM. 11
2.3. NHỮNG LỢI THẾ VÀ KHÓ KHĂN CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI KHI VÀO NƯỚC TA. 13
2.3.1. Những lợi thế so với ngân hàng trong nước. 13
2.3.2. Khó khăn của các ngân hàng nước ngoài. 15
CHƯƠNG III TÁC ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP 17
3.1. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC. 17
3.2. THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC. 18
CHƯƠNG IV MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH KHI CÓ SỰ THAM GIA CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI 20
4.1. ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 20
4.2. ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC. 22
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN: 24
II. KIẾN NGHỊ: 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
DANH MỤC BIỂU BẢNG
Bảng 1: Sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài từ 2005 - 2007 8
Bảng 2: Tình hình hoạt động của các ngân hàng nước 10
PHẦN GIỚI THIỆU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ngày nay, hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của các nước kinh tế đang phát triển muốn tiếp cận nhanh nền kinh tế tiên tiến. Đối với Việt Nam, hội nhập quốc tế là một hướng đi đúng và quan trọng làm tiền đề cho việc tạo dựng vị thế trên trường quốc tế, đồng thời mang lại nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các ngân hàng thương mại (NHTM) – Doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng đứng trước những thách thức lớn.
Theo các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO, khu vực dịch vụ tài chính - ngân hàng là khu vực được mở cửa rất đáng kể cho các đối tác nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh. Ngân hàng 100% vốn nước ngoài được thành lập tại Việt Nam từ 1/4/2007 trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng trong nước, nhà đầu tư nước ngoài được mua không quá 30% cổ phần trong các ngân hàng Việt Nam; các ngân hàng nước ngoài được huy động Việt Nam đồng (VND) với mức độ lớn hơn,... và đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận các doanh nghiệp trong nước để cho vay. Theo lộ trình, từ nay đến năm 2010, nước ta sẽ mở cửa căn bản thị trường dịch vụ ngân hàng và tự do hóa thương mại dịch vụ tài chính trên cơ sở các nguyên tắc của WTO, nhằm bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng nước ngoài theo cam kết đa phương và song phương, loại dần các hình thức bảo hộ đối với các ngân hàng trong nước.
Vì lý do đó, em chọn đề tài “Khái quát sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam” để tìm hiểu thêm về cơ hội, thách thức của các ngân hàng nước ngoài sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chung:
Chuyên đề “Khái quát sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam hiện nay” nhằm mục tiêu phân tích, đánh giá hoạt động và ảnh hưởng của các ngân hàng nước ngoài ở nước ta trong những năm gần đây, phân tích những lợi thế và khó khăn để từ đó đề ra những biện pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện thị trường, phát triển nền kinh tế.
2. Mục tiêu cụ thể:
- Tìm hiểu tiến trình hội nhập và điều kiện thành lập ngân hàng nước ngoài ở Việt nam.
- Phân tích sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài trong thời gian qua.
- Tác động của các ngân hàng nước ngoài đến hệ thống ngân hàng trong nước.
- Nêu lên các giải pháp hoàn thiện thị trường tài chính tiền tệ khi có sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài.
III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
1. Phạm vi thời gian:
Số liệu được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2004 – 06/2009.
2. Phạm vi không gian:
Trên lãnh thổ Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Ngân hàng nước ngoài có vốn đầu tư ở Việt Nam.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập số liệu:
- Phương pháp thu thập số liệu: chuyên đề chủ yếu sử dụng số liệu thứ cấp. Nguồn số liệu thứ cấp này được thu thập từ sách, báo, tạp chí và từ các trang web cung cấp thông tin về sự phát triển của ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam trước và sau khi hội nhập.
- Phương pháp phân tích số liệu: tổng hợp các số liệu, so sánh các số tương đối, số tuyệt đối thu thập được sau đó tiến hành phân tích số liệu cho ra kết quả.
Phương pháp phân tích số liệu:
Phương pháp so sánh số liệu, tổng hợp các sự kiên, phân tích các vấn đề, khái quát hóa,…, từ đó rút ra kết luận.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP VÀ ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1. TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM.
Từ năm 1990, khi Việt Nam thực hiện mở cửa kinh tế, khu vực ngân hàng cũng đã được mở cửa cho các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam dưới hai hình thức cơ bản bao gồm mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh, tham gia cổ phần tại các ngân hàng trong nước. Vào đầu những năm 1990, khi các ngân hàng nước ngoài quay trở lại Việt Nam, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ được nhận tiền gửi không kỳ hạn bằng VND của các cá nhân là người Việt Nam và pháp nhân là tổ chức Việt Nam không có quan hệ tín dụng với ngân hàng tối đa không vượt quá 10% trên số vốn pháp định chuyển vào. Ngày 26/8/1994, tỷ lệ này được nâng lên 20%, sau đó nâng lên thành 25% ngày 13/11/1996.
Số lượng các chi ngân hàng nước ngoài tăng liên tục từ năm 1990 đến 1997 và từ 1998 có khuynh hướng chững lại về số lượng ngân hàng, quy mô cũng như thị phần hoạt động và từ khi Việt Nam có triển vọng trở thành thành viên chính thức của WTO thì số lượng lại có khuynh hướng tăng lên.
Theo văn bản cam kết của Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đối với lĩnh vực thương mại dịch vụ, phân ngành dịch vụ ngân hàng, bắt đầu từ ngày 1/4/2007, Việt Nam đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra, các ngân hàng nước ngoài được phép thiết lập sự hiện diện thương mại của mình tại Việt Nam dưới các hình thức như: văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng thương mại, các ngân hàng thương mại liên doanh với nước ngoài có vốn nước ngoài dưới 50% vốn điều lệ, các công ty cho thuê tài chính liên doanh, các công ty tài chính cho thuê 100% vốn nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài... Tuy nhiên, đáng lưu ý là các chi nhánh được thành lập ở Việt Nam sẽ không được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phải chịu hạn chế về huy động tiền gửi bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO.
Đối với những chi nhánh ngân hàng nước ngoài chưa có quan hệ tín dụng với khách hàng là người Việt Nam thì mức độ huy động vốn so với vốn pháp định được thực hiện theo lộ trình. Cụ thể từ ngày 1/1/2007 được huy động gấp khoảng trên 6 lần so với vốn pháp định đã góp đủ; từ năm 2008 gấp 8 lần; năm 2009 gấp 9 lần và năm 2010 là gấp 10 lần. Từ năm 2011 trở đi, các ngân hàng nước ngoài mới được hưởng chế độ đối xử quốc gia. Đặc biệt, Việt Nam vẫn giữ được hạn chế về việc mua cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài là không quá 30%. Đây là hạn chế đặc biệt có ý nghĩa đối với ngành ngân hàng.
Theo cam kết giữa Việt Nam và các nước thành viên, từ nay đến năm 2010, các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép thực hiện hầu hết các dịch vụ ngân hàng như một ngân hàng trong nước (trừ dịch vụ tư vấn và cung cấp thông tin ngân hàng).
1.2. ĐIỀU KIỆN THÀNH LẬP, HỢP TÁC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI.
1.2.1. Điều kiện thành lập, hợp tác.
Để được cấp giấy phép mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng liên doanh, giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng nước ngoài phải đáp ứng những điều kiện chung sau đây:
- Ngân hàng nước ngoài không vi phạm nghiêm trọng các quy định về hoạt động ngân hàng và các quy định pháp luật khác của nước nguyên xứ trong vòng 3 năm gần nhất liền kề trước khi xin cấp giấy phép;
- Ngân hàng nước ngoài có kinh nghiệm hoạt động quốc tế, được các tổ chức xếp loại tín nhiệm quốc tế xếp hạng ở mức có khả năng thực hiện các cam kết tài chính và hoạt động bình thường ngay cả khi tình hình, điều kiện kinh tế biến đổi theo chiều hướng không thuận lợi. Thời hạn hoạt động tối đa không quá 99 năm. Trong đó, thời hạn hoạt động chi nhánh ngân hàng nước ngoài không vượt quá thời hạn hoạt động ngân hàng mẹ.
- Ngân hàng nước ngoài đạt được tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, các tỷ lệ bảo đảm an toàn theo thông lệ quốc tế;
- Cơ quan giám sát, thanh tra có thẩm quyền của nước nguyên xứ có khả năng giám sát toàn bộ hoạt động của ngân hàng nước ngoài trên cơ sở tổng hợp theo thông lệ quốc tế; có cam kết hợp tác quản lý, giám sát hoạt động và trao đổi thông tin với Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài những điều kiện chung nêu trên, để được cấp giấy phép mở chi nhánh, ngân hàng nước ngoài phải đáp ứng những điều kiện theo luật định và phải có tổng tài sản ít nhất là tương đương 20 tỷ đôla Mỹ vào năm trước năm xin cấp giấy phép.
Ngoài những điều kiện chung nêu trên, để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng liên doanh, giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng nước ngoài phải đáp ứng những điều kiện theo luật định và những điều kiện sau:
- Ngân hàng nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của nước nguyên xứ cho phép tham gia thành lập ngân hàng liên doanh, thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam;
- Ngân hàng nước ngoài có tổng tài sản có ít nhất là tương đương 10 tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm xin cấp giấy phép;
- Ngân hàng nước ngoài phải có văn bản cam kết với Ngân hàng Nhà nước về việc sẵn sàng hỗ trợ về tài chính, công nghệ, quản trị, điều hành, hoạt động cho ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh; đảm bảo duy trì giá trị thực có của vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định và đáp ứng đầy đủ các quy định về an toàn hoạt động theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Để được cấp giấy phép mở văn phòng đại diện, tổ chức tín dụng nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện quy định
- Tổ chức tín dụng nước ngoài là pháp nhân được phép hoạt động ngân hàng ở nước ngoài;
- Tổ chức tín dụng nước ngoài được cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép mở văn phòng đại diện tại Việt Nam;
- Tổ chức tín dụng nước ngoài có quan hệ hợp tác với các tổ chức kinh tế Việt Nam.
Ngoài ra, khi góp vốn liên doanh thì đóng góp của bên nước ngoài vào một ngân hàng liên doanh hoạt động với tư cách của một ngân hàng thương mại không được vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng, trong khi đó phần góp vốn của bên nước ngoài vào một tổ chức tín dụng phi ngân hàng liên doanh cần phải đạt ít nhất là 30% vốn điều lệ.
Tổng mức cổ phần của các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể được giới hạn ở mức 30% vốn điều lệ của một ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam, trừ khi được pháp luật Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép.
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ thực hiện góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác khi được ngân hàng mẹ ủy quyền và cấp vốn thực hiện việc góp vốn, mua cổ phần đó. Trong trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể yêu cầu chi nhánh ngân hàng nước ngoài gửi một phần hoặc toàn bộ vốn, tài sản vào Ngân hàng Nhà nước hoặc một tổ chức tín dụng hay một tổ chức khác tại Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước chỉ định.
1.2.1. Những lĩnh vực hoạt động của ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam.
Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam có thể được thực hiện một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ sau đây:
1. Nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
2. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, giấy tờ có giá;
3. Vay vốn của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước ;
4. Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước;
5. Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn;
6. Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, giấy tờ có giá;
7. Bảo lãnh ngân hàng;
8. Kinh doanh ngoại hối;
9.Thực hiện dịch vụ thanh toán và dịch vụ ngân quỹ;
10. Mở tài khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
11. Đại lý chi trả thẻ tín dụng;
12. Thực hiện các dịch vụ thu hộ, chi hộ;
13. Thực hiện các dịch vụ uỷ thác và quản lý tài sản;
14. Thực hiện các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ.
Nội dung hoạt động cụ thể của từng Ngân hàng được quy định trong Giấy phép mở Ngân hàng.
Khi có nhu cầu và được Ngân hàng Nhà nước cho phép, Ngân hàng mới được phép thực hiện các nghiệp vụ khác phù hợp với pháp luật liên quan của Việt Nam.
CHƯƠNG II
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN.
Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước nhận định hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh có mức tăng trưởng ổn định. Chi nhánh các ngân hàng nước ngoài luôn đi tiên phong trong việc phát triển và áp dụng các công nghệ hiện đại, các sản phẩm mới tại thị trường Việt Nam. Nhiều chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã có những chiến lược mở rộng và xây dựng mạng lưới khách hàng khá tốt và đa dạng.
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
06/2009
Số chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
28
30
35
38
38
Ngân hàng liên doanh
4
4
5
5
5
Ngân hàng 100% vốn nước ngoài
0
0
0
3
5
Tổng tài sản (tỷ VND)
135.000
200.000
215.000
275.000
325.000
Thu nhập trước thuế(tỷ VND)
1.400
1.700
2.400
1.418
1.447
Bảng 1: Sự phát triển của các ngân hàng nước ngoài từ 2005 – 06/2009
Nguồn: Tổng hợp từ
Năm 2005, tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài đạt gần 135.000 tỷ VND (6,3 tỷ USD), tăng 25% so với cuối năm 2004. Thu nhập trước thuế của khối này đạt 1.400 tỷ VND tăng khoảng 45% so với năm trước.
Năm 2006 tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài đạt gần 200.000 tỷ VND tăng 48% so với năm 2005. Thu nhập trước thuế của khối chi nhánh các ngân hàng nước ngoài và liên doanh đạt 1.700 tỷ VND tăng khoảng 21% so với năm trước.
Năm 2007, tại Việt Nam đã có 35 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 5 ngân hàng liên doanh, 4 công ty cho thuê tài chính có vốn đầu tư nước ngoài và 2 công ty tài chính có 100% vốn nước ngoài. Tổng tài sản khối ngân hàng nước ngoài lên tới trên 215.000 tỷ đồng, tăng khoảng 8% so với năm 2006, chiếm khoảng gần 18% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng ở Việt Nam, nhưng tăng tới hơn 60% so với cùng kỳ năm 2005. Tốc độ tăng trưởng đó chứng tỏ trong hai năm qua, các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài chuyển số vốn rất lớn vào Việt Nam. Tổng thu nhập trước thuế của khối ngân hàng và tổ chức tín dụng nước ngoài đạt trên 2.400 tỷ đồng, tăng trên 41% so với năm 2006 và chiếm khoảng 18% tổng thu nhập trước thuế của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Tính đến cuối năm 2007, Ngân hàng Nhà nước đã nhận được 19 hồ sơ xin cấp phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 5 bộ hồ sơ xin thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Trong số 19 hồ sơ xin thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, thì có 3 hồ sơ đã được chấp thuận về nguyên tắc là Commonwealth Bank của Australia, IBK Hàn Quốc, Fubon của Đài Loan.
Năm 2008, tổng tài sản của khối ngân hàng nước ngoài đạt 275.000 tỷ đồng tăng 37.5% so với năm trước đó. Trong năm 2008, tỷ lệ nợ xấu nói chung của cả khối ngân hàng ngoại tăng so với 31/12/2007 nhưng mức tăng không đáng kể. Về tổng thu nhập trước thuế, mặc dù có một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty tài chính bị lỗ nhưng lợi nhuận trước thuế của cả khối là 1.418 tỷ đồng.
Kết quả trên cho thấy, mặc dù từ giữa năm 2008, khủng hoảng tài chính bắt đầu từ Mỹ lan rộng sang các khu vực và những diễn biến không thuận lợi của kinh tế thế giới đã tác động đến kinh tế Việt Nam và ảnh hưởng nhất định đến hệ thống các TCTD Việt Nam nhưng với những giải pháp tích cực, quyết liệt của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, hệ thống các TCTD Việt Nam nói chung và các TCTD nước ngoài tại Việt Nam nói riêng vẫn hoạt động an toàn với mức tăng trưởng khá, kinh doanh có lãi.
Đến đầu năm 2009 có 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã được thành lập là: Ngân hàng ANZ (Việt Nam), Ngân hàng Hong leong (Việt Nam), Ngân hàng Standard Chartered (Việt Nam), Ngân hàng HSBC (Việt Nam), Ngân hàng Shinhan (Việt Nam).
Tính đến tháng 06/2009, VN có 51 tổ chức tín dụng, trong đó có 5 NH 100% vốn nước ngoài, 38 chi nhánh NH nước ngoài, 4 Cty tài chính và 4 Cty cho thuê tài chính thuộc NH nước ngoài, 5 NH liên doanh với đối tác nước ngoài cùng 19 chi nhánh phụ thuộc đang hoạt động. Tổng tài sản của khối này đạt 325.000 tỷ đồng thu nhập trước thuế đạt 1.447 tỷ đồng. Nhìn chung thì 6 tháng đầu năm nay ngân hàng hoạt động có hiệu quả.
Bảng 2: Tình hình hoạt động của các ngân hàng nước ngoài từ 2005 – 06/2009
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
2008
06/2009
Tổng dư nợ cho vay (tỷ VND)
49.000
60.000
85.500
152.952
131.559
Tỷ lệ nợ quá hạn(%)
0,25
0,38
0,99
0,53
0,24
Nguồn: Tổng hợp từ
Đến cuối năm 2005, tổng dư nợ khối ngân hàng nước ngoài lên tới 49.000 tỷ VND; trong đó, tỷ lệ nợ quá hạn là 0,25%.
Năm 2006, tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đã đạt khoảng 60.000 tỷ đồng, chiếm tới 14% thị phần, tăng 22% so với năm trước. Tỷ lệ nợ quá hạn tăng lên đến 0,38%.
Năm 2007, tổng dư nợ của các ngân hàng nước ngoài tăng hơn 40% so với năm ngoái, đạt mức 85.500 tỉ đồng. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn của khối này lại tăng lên 0,99%. Tổng huy động vốn của các ngân hàng nước ngoài trong 10 tháng đầu năm 2007 ước đạt 145.000 tỉ đồng, tăng xấp xỉ 60% so cùng kỳ.
Không chỉ quy mô dư nợ tăng nhanh mà thị phần cũng tăng ấn tượng các ngân hàng nước ngoài trước đây thường chỉ chiếm 12 - 13% thì đến hết năm 2007 chiếm 15,85%. Các ngân hàng liên doanh chiếm 2,48%.
Với các chuẩn mực quản trị rủi ro hiện đại, hoạt động của các NH nước ngoài tại VN có chất lượng hoạt động khá tốt. Tỉ lệ nợ xấu trong hoạt động tín dụng luôn ở mức thấp. Năm 2008, tỉ lệ nợ quá hạn của khối này chỉ chiếm 0,53% (tỉ lệ chung toàn hệ thống là 2,92%). Tổng dư nợ tăng hơn 70% so với năm trước đạt 152.952 tỷ đồng.
Trong 6 tháng đầu năm 2009 tổng dư nợ đã đạt 131.559 tỷ đồng và tỷ lệ nợ quá hạn là 0.24%.
Ngoài hoạt động cho vay và đầu tư, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài còn chiếm thị phần khá lớn trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, chứng khoán, bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
Căn cứ vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao, các luồng chu chuyển vốn quốc tế, thanh toán quốc tế và lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam ngày càng tăng, nhiều chuyên gia tài chính cho rằng sẽ có một cuộc đổ bộ của các ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. CHIẾN LƯỢC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM.
Theo nhiều chuyên gia tài chính, ngân hàng, các tập đoàn ngân hàng, tài chính nước ngoài có thể “đổ bộ” vào Việt Nam để kinh doanh bằng ba cách: một là, nhanh chóng thiết lập và phát triển mạnh mẽ các chi nhánh; hai là, thành lập ngân hàng 100% vốn, bắt đầu từ ngày 1/4/2007 (theo cam kết WTO); ba là, tính toán phương án để từng bước “thôn tính” các ngân hàng vừa và nhỏ của Việt Nam hiện có bằng cách mua cổ phần của các ngân hàng Việt Nam. Phương án mở chi nhánh thì khá tốn kém (đòi hỏi vốn điều lệ tối thiểu 15 triệu USD) và vẫn bị hạn chế trong việc nhận tiền gửi và cho vay. Còn việc thành lập ngân hàng 100% vốn thì các ngân hàng nước ngoài còn ngần ngại khi mà chưa hiểu rõ con người Việt Nam cũng như tập quán, thói quen sinh hoạt. Cách thứ 3 sẽ được các tập đoàn tài chính quốc tế đặc biệt quan tâm. Các tập đoàn này sẽ tập trung vào các ngân hàng thương mại cổ phần – nơi họ cho rằng, cơ chế về quản trị doanh nghiệp tốt hơn. Đây có thể là cách đi “khôn ngoan”, lợi dụng nền tảng hiện có của ngân hàng thương mại cổ phần, đặc biệt là nền tảng về chi nhánh, nhân lực, văn hoá để họ có thể nhanh chóng có được lợi nhuận.
Cách “thôn tính” dần dần của các tập đoàn tài chính quốc tế cũng sẽ rất khác so với thời điểm cách đây 1, 2 năm. Bây giờ, nếu mua cổ phần của các ngân hàng hiện có thì tương đối đắt. Chính vì thế, phương án tối ưu mà các tập đoàn tài chính lựa chọn sẽ là tìm cách đầu tư vào một trong những ngân hàng Việt Nam mới đi vào hoạt động, qua đó có thể mua ngay được cổ phần với giá rẻ. Dựa vào uy tín thương hiệu của tập đoàn tài chính quốc tế, ngân hàng này cũng sẽ có tốc độ tăng trưởng nhanh trong tương lai gần, và giá của nó sẽ nhanh chóng tăng lên trong vòng một vài năm, như vậy, các nhà đầu tư tài chính quốc tế sẽ có lợi nhuận rất lớn.
Các ngân hàng nước ngoài đang tăng cường sự hiện diện tại Việt Nam thông qua việc tăng mua cổ phần của các ngân hàng trong nước, tận dụng cơ hội giá cổ phiếu đang sụt giảm. Những ngân hàng đã ký hợp đồng mua cổ phần của ngân hàng Việt Nam đang ráo riết tranh thủ thời điểm này để nâng tỷ lệ sở hữu lên mức kịch trần theo quy định của Chính phủ là 15%.
Mới đây nhất, ngày 14/5/2008, lãnh đạo cao cấp của OCBC - Tập đoàn tài chính lớn thứ 3 tại Xinggapo và lãnh đạo Ngân hàng thương mại cổ phần Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VP Bank) đã tiến hành hoàn tất thủ tục trình Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần của OCBC tại VP Bank lên mức 15%.
Điều đáng chú ý là giá bán cổ phần được hai bên thoả thuận ở mức cao gấp 4,5 lần mệnh giá (45.000 đồng/cổ phiếu), bất chấp thị trường chứng khoán nói chung và cổ phiếu ngân hàng nói riêng đang biến động mạnh theo xu hướng sụt giảm. Hơn thế, bên cạnh việc mua cổ phần với mức giá cao như vậy, OCBC còn hỗ trợ VP Bank về nghiệp vụ, công nghệ và đào tạo nhân viên.
Trước đó, Standard Chartered Bank (Anh) - đối tác chiến lược của Ngân hàng Á Châu (ACB) đã mua thêm cổ phần của ACB từ Công ty tài chính quốc tế. Theo đó, khi hoàn tất, vốn sở hữu của Standard Chartered Bank tại ACB sẽ tăng lên 15% cổ phần và 15,86% trái phiếu chuyển đổi.
Trong tháng 3, Tập đoàn tài chính Maybank (Malaixia) và Ngân hàng Thương mại cổ phần An Bình (ABBank) đã chính thức ký kết hợp tác chiến lược. Theo đó, Maybank mua 15% vốn điều lệ (tương đương 2.138 tỷ đồng) để trở thành cổ đông chiến lược nước ngoài của ABBank với giá gấp 5 lần mệnh giá.
Trước nữa, Tập đoàn Ngân hàng Hồng Công Thượng Hải (HSBC) cũng đã nâng tỷ lệ sở hữu tại đối tác chiến lược trong nước là Ngân hàng cổ phần kỹ thương Việt Nam (Techcom bank) từ 10% lên 15%, với tổng giá trị ước tính trên 539 tỷ đồng.
Trong khi đó, Ngân hàng Phương Đông (OCB) và Ngân hàng Phương Nam (Southern Bank) cho hay, hai đối tác chiến lược của họ là BNP Paribas (Pháp) và UOB (Xinggapo) cùng đang mong muốn nhanh chóng được nâng tỷ lệ sở hữu cổ phần lên 15%.
Những diễn biến trên cho thấy, sau thời gian hoạt động khá hiệu quả tại thị trường Việt Nam, các tập đoàn tài chính nước ngoài đang ngày càng quan tâm và coi đây là lĩnh vực hợp tác kinh doanh nhiều tiềm năng.
Đây là những tính toán về chiến lược của nhiều tập đoàn tài chính quốc tế và với những tính toán như thế, chắc chắn, các ngân hàng thương mại trong nước có những phương án cạnh tranh hợp lý.
Hoạt động mua lại và sáp nhập (Merging & Acquisition) sẽ là một lĩnh vực phát triển với tốc độ nhanh trong bối cảnh tự do hóa hoạt động ngân hàng theo các cam kết với WTO. Các chuyên gia ngân hàng nước ngoài dự đoán trong vòng từ năm đến bảy năm nữa, ở Việt Nam sẽ chỉ còn một nửa số ngân hàng so với hiện nay.
2.3. NHỮNG LỢI THẾ VÀ KHÓ KHĂN CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI KHI VÀO NƯỚC TA.
2.3.1. Những lợi thế so với ngân hàng trong nước.
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam phải gỡ bỏ dần các hạn chế rào cản đối với các ngân hàng nước ngoài. Hầu hết các lĩnh vực đều mở toang. Các ngân hàng nước ngoài được triển khai những nghiệp vụ quan trọng mà ngân hàng trong nước đang và có ý định thực hiện, họ được phép đối xử bình đẳng như các nhà băng trong nước, chỉ trừ một số quy định về quy mô tài chính và việc mở chi nhánh. Theo cam kết trong Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, các ngân hàng Mỹ sẽ được thành lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài, nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam không giới hạn từ các pháp nhân Việt Nam, đồng thời được phép phát hành thẻ tín dụng không giới hạn. Ngoài ra, 5 năm sau khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ dỡ bỏ mức trần huy động vốn VND, miễn sao việc huy động đó vẫn đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng.
Trong quá trình hội nhập, các NHTM Việt Nam có ưu thế cơ bản về số lượng ngân hàng, mạng lưới chi nhánh, thị phần hoạt động và khách hàng trong nước. Tuy nhiên, xuất phát điểm và trình độ phát triển của ngành ngân hàng Việt Nam còn thấp. Năng lực tài chính của nhiều NHTM Việt Nam còn yếu, vốn tự có rất thấp, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro. Các NHTM Việt Nam cũng kém ưu thế về công nghệ, loại hình dịch vụ, chiến lược khách hàng, hiệu quả hoạt động và chất lượng tài sản. Trong khi đối với các ngân hàng nước ngoài đó lại là những ưu thế.
Ở các dịch vụ truyền thống như huy động tiền gửi, cho vay... ngân hàng trong nước có lợi thế là người đến trước, mạng lưới hoạt động rộng khắp và am hiểu tâm lý khách hàng bản địa. Tuy nhiên, những lợi thế này cũng có thể mất đi, khi các ngân hàng nước ngoài hoà nhập vào thị trường, sẵn sàng giảm giá dịch vụ.
Hoạt động của ngân hàng trong nước chủ yếu vẫn là tín dụng còn các ngân hàng nước ngoài lại rất mạnh về dịch vụ (chiếm tới trên 40% tổng thu nhập) thì tình trạng “độc canh” tín dụng vẫn còn phổ biến ở hầu hết các ngân hàng Việt Nam. Việc các doanh nghiệp trong nước chuyển qua giao dịch với các ngân hàng nước ngoài ngày càng nhiều đang là lời cảnh báo cho hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Các ngân hàng nước ngoài cũng có ưu thế và kinh nghiệm trong giao dịch thanh toán và chuyển tiền, cả về loại hình và chất lượng dịch vụ. Các ngân hàng Việt Nam có phạm vi hoạt động trùng với lĩnh vực hoạt động có ưu thế của các ngân hàng nước ngoài như thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, đầu tư dự án... sẽ gặp khó khăn lớn.
Ngoài ra, hàng loạt nghiệp vụ mới chưa được thực hiện tại Việt Nam như môi giới tiền tệ, kinh doanh các sản phẩm phái sinh có thể bị các ngân hàng nước ngoài chiếm lĩnh bởi vì họ đã đi trước rất nhiều năm, có bề dày kinh nghiệm và đã gặt hái thành công. Các ngân hàng trong nước mới học theo nhưng khó đuổi kịp, bởi đây là những nghiệp vụ rủi ro cao.
Khi ngân hàng nước ngoài vào mở chi nhánh tại Việt Nam, khách hàng có thể thích giao dịch với ngân hàng nước ngoài hơn ngân hàng Việt Nam do tâm lý “vọng ngoại”. Hơn nữa, vì ấn tượng bề ngoài của các ngân hàng nước ngoài như uy tín, như trụ sở, trang bị, sắc phục và trên hết là sự phục vụ của nhân viên từ khâu tiếp tân vui vẻ, lắng nghe chăm sóc khách hàng đến khâu nghiệp vụ, giải quyết nhanh, gọn, lẹ. Đây cũng là cơ hội để các ngân hàng ngoại khuếch trương thanh thế và lấn chiếm thị phần. Kết qủa một cuộc điều tra của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc được thực hiện vào cuối năm 2005 cho biết: có 45% khách hàng (là doanh nghiệp và cá nhân) sẽ chuyển sang vay vốn của ngân hàng nước ngoài thay vì của ngân hàng trong nước; 50% chọn dịch vụ ngân hàng nước ngoài thay thế, và 50% còn lại chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiền, đặc biệt là ngoại tệ... Các công ty đa quốc gia thường rất thích làm việc với các ngân hàng có uy tín quốc tế và đó chính là lợi thế của các ngân hàng nước ngoài. Trong khi đó, các ngân hàng trong nước rất khó tiếp cận được với họ.
Với công nghệ thông tin hiện đại, các ngân hàng con sẽ nhanh chóng đón đầu được làn sóng và xu hướng chuyển đổi thói quen sử dụng không dùng tiền mặt của người tiêu dùng Việt Nam trong vòng 2 - 3 năm tới. Nhưng trên thực tế, các loại thẻ do ngân hàng trong nước phát hành, người tiêu dùng chỉ sử dụng vào mục đích rút tiền mặt. Trong khi đó, chiến lược của nhân hàng nước ngoài là đem đến sự thuận tiện cho người sử dụng thẻ bằng cách thay thế việc thanh toán bằng tiền mặt. Bên cạnh đó, các ngân hàng nước ngoài lại đi trước trong khâu đơn giản hóa thủ tục, họ luôn tạo ra sự nhanh nhạy trong cho vay vốn, vì họ có sự quản trị rủi ro tốt như chấp nhận cho vay tín chấp lến đến 200 triệu đồng; cho doanh nghiệp tại các Khu Chế Xuất, Khu Công Nghiệp vay căn cứ theo năng lực tài chính, tình hình kinh doanh… mà không cần thế chấp bất động sản.
Một khi đã hoạt động dưới hình thức 100% vốn nước ngoài, họ được coi như một pháp nhân Việt Nam. Với 3 lợi thế lớn là công nghệ, vốn và quản trị, các ngân hàng nước ngoài thừa khả năng cung cấp dịch vụ với chất lượng cao hơn, quản lý rủi ro tốt hơn. Đây là thách thức không nhỏ với các ngân hàng trong nước.
2.3.2. Khó khăn của các ngân hàng nước ngoài.
Dù chấp nhận mở cửa ở hầu hết các phân ngành dịch vụ ngân hàng, song phía Việt Nam đã thắng lợi khi cài thêm được một số yêu cầu mang tính kỹ thuật. Chẳng hạn, muốn lập một ngân hàng con 100% vốn nước ngoài, ngân hàng mẹ phải có tổng tài sản tối thiểu 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. Nếu muốn mở chi nhánh, ngân hàng mẹ phải có tài sản trên 20 tỷ USD. Chưa hết, yêu cầu về vốn đối với mỗi chi nhánh là 15 triệu USD. Và khi đã thành lập chi nhánh, họ sẽ không được mở thêm các điểm giao dịch khác ngoài trụ sở chi nhánh. Với những yêu cầu này, các ngân hàng ngoại sẽ gặp khó nếu muốn mở rộng hoạt động.
Việt Nam cũng kiên quyết giữ quyền hạn chế sự tham gia mua cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài trong ngân hàng nội địa. Tổng số cổ phần mà các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trong mỗi ngân hàng cổ phần của Việt Nam không vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng. Và ngay cả khi ngân hàng niêm yết cổ phiếu trên sàn, hạn mức đó vẫn giữ nguyên.
Một điểm mà đại diện Việt Nam nhấn mạnh là một chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép mở các điểm giao dịch, các điểm giao dịch hoạt động phụ thuộc vào vốn của chi nhánh.
Các ngân hàng nước ngoài sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn nếu họ có ý định cung cấp dịch vụ trong các phân khúc thị trường nhắm vào các công ty và cá nhân người Việt Nam. Lý do vì đây là những phân khúc mà họ không biết tường tận lắm. Nhưng đây cũng lại là những phân khúc có nhiều cơ hội kinh doanh nhất.
Để khai thác hiệu quả những phân khúc này, các nhà quản lý ngân hàng nước ngoài cần phải nắm vững về văn hóa và những thông lệ kinh doanh ở Việt Nam, điều mà không phải một sớm một chiều họ có thể làm được. Ngoài ra, do bị hạn chế trong việc mở mạng lưới chi nhánh huy động vốn tiền đồng các ngân hàng nước ngoài buộc phải trông chờ vào một ngày nào đó tiền đồng được tự do chuyển đổi và/hoặc tham gia vào thị trường liên ngân hàng để huy động cho đủ vốn tiền đồng đáp ứng các nhu cầu kinh doanh ở phân khúc thị trường nói trên.
Nói ngắn gọn, thì để phát huy được sở trường về vốn, công nghệ, và quản lý để giành thị phần, các ngân hàng nước ngoài cần có những điều kiện tiên quyết là:
(i) tiền đồng được tự do chuyển đổi;
(ii) một thị trường liên ngân hàng cho tiền đồng hoạt động sôi động và hữu hiệu;
(iii) lãi suất tự do hóa hoàn toàn.
Thực tế, cả ba điều kiện này ở nước ta xem ra còn rất lâu mới có thể thành hiện thực.
Một khó khăn nữa đối với ngân hàng nước ngoài đó là chướng ngại văn hóa, phát sinh từ việc phần đông người Việt không sử dụng ngân hàng và nhiều người không tin tưởng các ngân hàng. Thay vào đó, họ giữ tiền trong nhà và đặt niềm tin vào các hệ thống cho vay không chính thức qua thân nhân và bè bạn.
CHƯƠNG III
TÁC ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
3.1. TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC.
Các ngân hàng Việt Nam được tham gia vào một “sân chơi” kinh doanh bình đẳng và mang tính chuyên nghiệp cao. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng khốc liệt, đặc biệt là sau năm 2010. Sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng sẽ ngày càng giảm và sự bảo hộ sẽ không còn nữa. Chính bối cảnh đó sẽ tạo ra cho các ngân hàng Việt Nam sự năng động trong hoạt động kinh doanh và có thể nói bắt buộc phải năng động để kinh doanh hiệu quả. Đồng thời đây cũng là cơ hội để các ngân hàng thể hiện năng lực và trình độ của mình.
Bên cạnh đó, nhờ có tiến trình hội nhập mạnh mẽ, các ngân hàng Việt Nam sẽ có cơ hội để học hỏi kinh nghiệm, phương pháp đào tạo nhân lực, trình độ công nghệ, quản lý từ các ngân hàng nước ngoài thường được đánh giá là mạnh về tài chính, công nghệ và quản trị điều hành. Các tổ chức này một mặt là những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng đối với các ngân hàng trong nước nhưng lại là kênh truyền dẫn vào Việt Nam những công nghệ ngân hàng hiện đại, những thông lệ tốt nhất và là nguồn tài chính bổ sung cho thị trường tiềm năng của Việt Nam và là cầu nối cho các nhà đầu tư nước ngoài đến với thị trường và các doanh nghiệp Việt Nam. Sự cọ xát trong hoạt động kinh doanh cũng là cơ hội để các ngân hàng Việt Nam nâng mình lên một tầm cao mới.
Hội nhập quốc tế giúp các NHTM Việt Nam tiếp cận và chuyên môn hoá các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. Chính hội nhập quốc tế cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia tất cả các dịch vụ ngân hàng tại Việt Nam buộc các NHTM Việt Nam phải chuyên môn hoá sâu hơn về nghiệp vụ ngân hàng, quản trị ngân hàng, quản trị tài sản nợ, quản trị tài sản có, quản trị rủi ro, cải thiện chất lượng tín dụng, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, dịch vụ ngân hàng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới mà các ngân hàng nước ngoài dự kiến sẽ áp dụng ở Việt Nam.
Thực tiễn cho thấy hoạt động của những ngân hàng trong nước có sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài đang ngày càng phát triển, minh bạch và rõ ràng hơn. Với những ưu thế về kinh nghiệm và tập quán kinh doanh hiện đại, các nhà đầu tư nước ngoài đã đóng góp vào công tác quản trị những ưu thế kinh doanh nổi trội. Nhờ đó, các ngân hàng trong nước tự hoàn thiện mình trong công tác chăm sóc khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ trong mỗi sản phẩm tài chính đưa ra công chúng.
Sự có mặt của những ngân hàng lớn của nước ngoài đã góp phần thay đổi diện mạo của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam, từ đó củng cố niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng, thể hiện qua giá cổ phiếu của những ngân hàng thương mại cổ phần tăng với tốc độ chóng mặt trong suốt thời gian qua.
3.2. THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG TRONG NƯỚC.
Khi ngân hàng 100% vốn nước ngoài được phép thành lập ở Việt Nam, ngân hàng trong nước sẽ vấp phải sự cạnh tranh gay gắt vì ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính lớn, cũng như kinh nghiệm kinh doanh, sự tham gia ngày càng sâu rộng của ngân hàng nước ngoài khiến hệ thống ngân hàng trong nước phải đối mặt với nguy cơ mất dần lợi thế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ (hiện chiếm 90% thị phần) và những rủi ro thị trường về giá, tỷ giá, lãi suất có thể bắt nguồn từ sự lan truyền các cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực và thế giới.
Không chỉ có vậy, công nghệ của các ngân hàng Việt Nam cũng lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặc dù đã và đang dần được cải tiến, nhưng công nghệ ngân hàng Việt Nam vẫn còn kém.
Các ngân hàng nước ngoài thường mạnh về vốn, công nghệ tiến tiến, sản phẩm dịch vụ đa dạng trong khi đó ngân hàng chúng ta trình độ quản trị còn nhiều bất cập, tiềm lực vốn nhỏ bé, sản phẩm dịch vụ đơn điệu, các ngân hàng thương mại quốc tế đang thực hiện khoảng 6.000 nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng ngân hàng, trong khi các ngân hàng thương mại Việt Nam mới chỉ thực hiện tối đa khoảng 300 nghiệp vụ và mới cung cấp các dịch vụ mang tính chất truyền thống, còn các dịch vụ hiện đại như ngân hàng điện tử, môi giới kinh doanh, nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, tư vấn... thì mức độ sử dụng vẫn còn mới hoặc hạn chế.
Trong bối cảnh đó, các ngân hàng Việt Nam bắt buộc phải nâng cao tính cạnh tranh để chiếm lĩnh thị phần. Để thực hiện được điều đó, các ngân hàng Việt Nam phải tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay, đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, ứng dụng công nghệ cao... Tất cả các vấn đề đó làm cho mức độ rủi ro tăng cao. Các rủi ro không chỉ nảy sinh từ các nguyên nhân truyền thống mà còn từ sự cạnh tranh, như rủi ro do việc ứng dụng công nghệ hiện đại từ chính các ngân hàng. Qua đó cũng đặt ra thách thức đối với ngành ngân hàng là làm cách nào để giám sát được các rủi ro đó. Bởi vì hoạt động ngân hàng là hoạt động nhạy cảm. Sự đổ vỡ của bất kỳ một tổ chức tín dụng nào, dù lớn hay nhỏ, đều ảnh hưởng đến nền kinh tế, thậm chí ảnh hưởng cả đến tình hình chính trị - xã hội.
Bên cạnh đó, cạnh tranh trong việc sử dụng lao động ngày càng gay gắt. Mọi sự thành công của một doanh nghiệp đều xuất phát từ yếu tố con người. Hiện nay, chế độ đãi ngộ cho lao động đặc biệt là lao động có trình độ cao ở các NHTM Việt Nam chưa đủ sức thuyết phục để lôi kéo những lao động có trình độ chuyên môn cao. Hiện tượng chảy máu chất xám là căn bệnh nan y không chỉ đối với ngành tài chính – ngân hàng mà đối với tất cả các ngành kinh tế ở Việt Nam.
Hội nhập ngân hàng đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải nhanh chóng tăng quy mô, đầu tư công nghệ, cải tiến trình độ quản lý. Công nghệ hiện đại và trình độ quản lý cũng như tiềm lực tài chính dồi dào của những ngân hàng nước ngoài sẽ là những ưu thế cơ bản tạo ra sức ép cạnh tranh trong ngành ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt Nam phải tăng thêm vốn, và đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương pháp quản trị, hiện đại hoá hệ thống thanh toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh.
CHƯƠNG IV
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH KHI CÓ SỰ THAM GIA CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC NGOÀI
4.1. ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, cần phải xây dựng một hệ thống ngân hàng có uy tín, có khả năng cạnh tranh, hoạt động có hiệu quả, an toàn, có khả năng huy động tốt hơn các nguồn vốn trong xã hội và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước.
Xây dựng các qui chế quản lý và hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị nguồn vốn, kiểm tra kiểm toán nội bộ, xây dựng quy trình tín dụng hiện đại và sổ tay tín dụng, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ chỉ số an toàn và hiệu quả kinh doanh ngân hàng phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn VN.
Tăng quy mô về vốn cho các ngân hàng thông qua tích tụ và tập trung vốn theo hướng:
(1) Nghiên cứu và xem xét tiến hành sát nhập các NHTM quốc doanh để trở thành một ngân hàng có đủ tiềm lực về tài chính có thể cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Hiện nay, các NHTM quốc doanh ở VN tuy có tên gọi khác nhau nhưng đều có các chức năng kinh doanh tiền tệ - tín dụng như nhau và đều có vốn sở hữu của nhà nước. Chính việc chia nhỏ nguồn vốn của nhà nước thành nhiều ngân hàng đã làm cho hoạt động không hiệu quả bởi chi phí cho công tác điều hành chi phí quản lý quá cao. Sáp nhập sẽ tạo nên quy mô về vốn lớn hơn đồng thời giảm được chi phí điều hành, quản lý và hơn hết là tạo nên phương thức quản lý mới là cơ hội để sử dụng vốn có hiệu quả.
(2) Tiến hành cổ phần hoá các NHTM nhằm tận dụng các nguồn lực tài chính trong dân chúng trong nước và nước ngoài. Trên cơ sở đó thay đổi mô hình quản lý từ đó tạo sắc thái mới trong hoạt động kinh doanh.
(3) Đẩy mạnh liên doanh liên kết trong hệ thống ngân hàng để tận dụng vốn và kỹ thuật cũng như trình độ quản lý từ các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới.
Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhất là hệ thống thông tin quản lý cho toàn hệ thống ngân hàng phục vụ công tác điều hành hoạt động kinh doanh, kiểm soát hoạt động ngân hàng, quản lý vốn tài sản, quản lý rủi ro, quản lý công nợ và công tác kế toán, hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hệ thống giao dịch điện tử và giám sát từ xa, vv.. nhằm nâng cao chất lượng phục vụ cho khách hàng.
Đẩy mạnh phát triển các dịch vụ ngân hàng, thực hiện các dịch vụ ngân hàng điện tử nhằm phục vụ cho khách hàng 24/24, từ đó giảm được việc phát triển các chi nhánh tốn kém trong việc xây dựng trụ sở và lãng phí trong sử dụng lao động.
Đào tạo, nâng cao trình độ nhận thức và kỹ năng nghiệp vụ ngân hàng là yêu cầu thường xuyên. Chiến lược phát triển ngành ngân hàng đã đề ra việc thực hiện quản lý cán bộ theo khối lượng và chất lượng công việc chuyên môn được giao. Thực hiện chế độ đãi ngộ theo năng lực thực tế, vị trí công tác và mức độ hoàn thành chức trách và nhiệm vụ được giao. Từng bước thực hiện cơ chế thi tuyển chức danh đối với một số vị trí quan lý lãnh đạo; bố trí lao động phù hợp với năng lực cán bộ, yếu cầu và tính chất công việc. Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên, đào tạo và đào tạo lại cán bộ thực hiện tốt nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới. Nguồn nhân lực là chìa khóa để mở cánh cửa thành công của hoạt động ngân hàng trong tiến trình hội nhập.
Các ngân hàng thương mại phải nâng cao tính cạnh tranh thông qua việc hiện đại hóa hệ thống ngân hàng thương mại, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Trên thực tế, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã và đang thực hiện việc công nghệ hóa thông tin trong hoạt động kinh doanh để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Trong lộ trình từng bước hội nhập quốc tế, các NHTMVN gặp không ít khó khăn, thách thức, đồng thời cũng tạo nhiều thời cơ cho các NHTMVN đứng vững trong hội nhập quốc tế - xu hướng tất yếu của thời đại. Do đó, để tồn tại, phát triển trong cạnh tranh đòi hỏi các NHTMVN phải chủ động đầu tư đổi mới công nghệ, cải tiến phương thức quản lý, hiện đại hoá hệ thống thanh toán, nhanh chóng tiếp cận và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới nhằm nâng cao hiệu quả và đứng vững trong cạnh tranh.
4.2. ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC.
Cùng với các nỗ lực tự thân của các ngân hàng thương mại trong nước, các giải pháp từ phía Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước là rất cần thiết cho các ngân hàng trong nước có thể hòa vào tiến trình tự do hóa dịch vụ ngân hàng.
Nâng cao hiệu lực pháp lý và đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật về thị trường ngân hàng nhằm tạo ra hành lang pháp lý phù hợp cho các ngân hàng hoạt động. Tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực sự kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, tách bạch kinh doanh và chính sách. Sắp xếp, sáp nhập, giải thể một số ngân hàng thương mại không đủ điều kiện. Bãi bỏ một số hạn chế đang cản trở các ngân hàng thương mại mở rộng các hoạt động dịch vụ mới...
Nâng cao hiệu quả quản lý của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về dịch vụ ngân hàng.
Nâng cao hiệu lực của công tác kiểm tra, giám sát. Nghiêm cấm cạnh tranh bất hợp pháp, gây mất ổn định thị trường. Giám sát hoạt động của các ngân hàng trong việc cung cấp thông tin trung thực cho khách hàng, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên cung cấp và sử dụng dịch vụ. Đổi mới căn bản hệ thống giám sát ngân hàng theo các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế. Từng bước nghiên cứu và thành lập cơ quan giám sát tài chính thống nhất, trực thuộc Chính phủ, độc lập với Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, thực hiện chức năng giám sát toàn bộ các hoạt động của các tổ chức tài chính.
Chủ động nới lỏng các quy chế về sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài trên cơ sở đảm bảo kiểm soát hiệu qủa. Cần tính toán số lượng các chủ thể nước ngoài. Việc cấp phép cần phải căn cứ vào nhu cầu và khả năng cung cấp của thị trường, số lượng các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước tại thời điểm đó trên thị trường.
Cơ cấu lại căn bản, toàn diện tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước để hình thành bộ máy tổ chức tinh gọn, chuyên nghiệp, có đủ nguồn lực, năng lực xây dựng, thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2010 phát triển ngân hàng Nhà Nước trở thành ngân hàng Trung ương hiện đại, đạt trình độ tiên tiến của các ngân hàng Trung ương trong khu vực Châu Á.
Đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng trên cơ sở tăng cường áp dụng các thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương và giám sát ngân hàng.
Nâng cao hiệu quả quản lý ngoại hối trong điều kiện tự do hoá tài khoản vãng lai và nới lỏng kiểm soát các giao dịch vốn một cách thận trọng phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường tài chính. Từng bước nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam và tạo nền tảng cho đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền tự do chuyển đổi sau năm 2010. Tiếp tục đổi mới cơ chế tỷ giá theo nguyên tắc thị trường và gắn với điều hành lãi suất.
Tiếp tục sửa đổi căn bản Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật Các tổ chức tín dụng. Các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành phải đảm bảo hai yêu cầu là phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế và tình hình thực tế của Việt Nam. Hoàn thiện hệ thống chính sách và qui định theo các cam kết mở cửa thị trường, đặc biệt các qui định liên quan đến các hình thức tiếp cận thị trường của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng trong nước mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài thông qua các hình thức cung cấp dịch vụ trong khuôn khổ WTO, đặc biệt là hiện diện thương mại và cung cấp qua biên giới.
Ngân hàng Nhà Nước phải thực hiện cam kết tái cơ cấu trên nguyên tắc cơ bản cho hệ thống tài chính mới đến năm 2010. Theo đó, xác định lại chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước để tập trung hơn vào việc giữ ổn định đồng tiền Việt Nam và các vấn đề kinh tế vĩ mô. Tái cơ cấu nhằm củng cố chức năng hiện tại của Ngân hàng Nhà nước để loại bỏ sự chồng chéo về chức năng (tức là thực hiện chính sách tiền tệ và quản lý ngân hàng). Tái cơ cấu toàn bộ cơ cấu quản trị chung của ngân hàng để có thể lập một tổ chức mới linh hoạt hơn.
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN:
Việt Nam đang phát triển không ngừng là một nước an ninh, tình hình kinh tế chính trị ổn định, không có chiến tranh hay khủng bố, các thủ tục và luật lệ đang điều chỉnh tốt hơn để thu hút đầu tư nhiều hơn. Tiền đầu tư càng đổ vào Việt Nam nhiều hơn thì vai trò của ngân hàng càng trở nên quan trọng. Do đó đầu tư vào ngân hàng Việt Nam đang ăn khách nhất, nếu phía ngân hàng Việt Nam và Chính phủ biết giải quyết đuợc hai khâu quan trọng là hiệu quả phục vụ và kinh doanh, đặc biệt là mở mang những dự án làm ăn và liên kết với các trung tâm tài chính nước ngoài.
Hội nhập kinh tế quốc tế luôn gắn liền với mở cửa thị trường và đem lại cho nền kinh tế nhiều cơ hội đan xen với không ít thách thức. Nhận thức đúng xu thế phát triển chung và thực hiện chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, ngành Ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh đổi mới hơn nữa để bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế thành công.
So với yêu cầu, thách thức của việc hội nhập kinh tế quốc tế và gia nhập WTO, ngành Ngân hàng Việt Nam còn nhiều việc cần phải làm, trong đó một tinh thần quyết tâm cao và sự đồng thuận về quan điểm của ngành Ngân hàng là nhân tố quan trọng bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế thành công trong lĩnh vực ngân hàng. Với những mục tiêu, giải pháp phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, chúng ta hy vọng ngành ngân hàng sẽ có những thay đổi mang tính quyết định để tiến lên vững chắc trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
II. KIẾN NGHỊ:
* Đối với ngân hàng Nhà nước:
- Tăng cường công tác thanh tra giám sát nhằm đảm bảo tính an toàn cho cả hệ thống ngân hàng và tạo niềm tin cho công chúng, nâng cao thương hiệu
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo hướng hội nhập.
* Đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam:
- Các ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi nhánh đi liền với chính sách chăm sóc khách hàng và tăng cường công tác tiếp thị.
- Nhiều ngân hàng nhỏ nên hợp thành một ngân hàng lớn để có sức mạnh hơn.
- Cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, chú ý phát triển các sản phẩm gắn với thị trường chứng khoán và hoạt động bảo hiểm.
- Rà soát và cải cách vấn đề cán bộ và tổ chức cán bộ của Ngân hàng nhằm trang bị cho cán bộ các năng lực, kể cả năng lực về quản lý để vận hành một ngân hàng mới...
- Nhanh chóng cải tiến công nghệ và kỹ thuật cho phù hợp để có thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài
-Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng và phải xem đây là mục tiêu chiến lược để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút khách hàng trong nước.
- Đặc biệt là cơ chế thanh toán, phải nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và có tính hệ thống, đồng bộ.
- Mỗi ngân hàng thương mại bán lẻ cần tập trung phát triển một cách tách biệt, chuyên sâu theo những khối kinh doanh mang tính mũi nhọn như: khối ngân quỹ, khối ngân hàng doanh nghiệp, cá nhân...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các website:
*
*
*
*
*
*
*
*
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ban chinh hoan chinh.doc