Chỉ riêng mẫu ở độ sâu 3,0 m có sinh khối bám bẩn thường thấp hơn và thay
đổi không đều đặn. Điều này do các mẫu này thường chịu điều kiện lắng đọng trầm
tích cao, dòng nước ngầm từ suối làm hạn chế sinh vật bám phát triển. Mặc dù vào
các tháng mùa khô bám bẩn cảm ứng (trong 30 ngày đầu) là thấp nhất trong năm
nhưng trên đồ thị hình 6, tốc độ phát triển sinh khối vẫn mạnh nhất là do giai đoạn
này, các sinh vật hệ macro đã bám ổn định và tăng trưởng mạnh. Sau 7, 8 tháng, sinh
khối tăng không đáng kể, thậm chí có thể giảm do một số hàu bị chết, lớp vỏ và
phần thân bị tách dần khỏi mẫu.
Ngoài ra, thời điểm đặt mẫu cũng ảnh hưởng đến tốc độ tăng sinh khối ở giai
đoạn ban đầu. Số liệu trình bày ở bảng 3 cho thấy hầu hết các mẫu triển khai vào
thời điểm mùa khô (phương án 3) có độ tăng sinh khối cao hơn so với các mẫu triển
khai vào mùa mưa. Kết quả này là do các mẫu triển khai theo phương án 3 có lợi thế
phát triển ban đầu nên chúng nhanh chóng tăng trưởng. Tuy vậy, sau hơn 5 tháng
thử nghiệm, sinh khối theo phương án 2 và 3 là tương đương nhau.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát bám bẩn hệ macro theo độ sâu và thời gian tại trạm nghiên cứu thử nghiệm biển đầm Báy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 59
KHẢO SÁT BÁM BẨN HỆ MACRO THEO ĐỘ SÂU VÀ THỜI GIAN
TẠI TRẠM NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM BIỂN ĐẦM BÁY
NGUYỄN VĂN CHI, ĐỒNG VĂN KIÊN, BÙI BÁ XUÂN, MAI VĂN MINH, LÊ HỒNG QUÂN
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Quá trình hình thành và phát triển của quần thể sinh vật bám bẩn sinh học
trong nước biển phụ thuộc theo 2 khuynh hướng chính: 1 - số lượng các ấu trùng
tiếp xúc với bề mặt vật liệu; 2 - các yếu tố hạn chế ấu trùng làm tổ và phát triển. Vị
trí địa lý và mùa trong năm là yếu tố quyết định đến bám bẩn sinh học. Nghiên cứu ở
hầu hết các khu vực ven biển của nước Mỹ cho thấy đặc trưng bám bẩn khác nhau
theo khu vực hoặc theo mùa trong cùng một khu vực [1]. Người ta thường sử dụng
các biện pháp khác nhau để chống sinh vật bám bẩn trên bề mặt vào mùa hè nhưng
ngược lại không cần áp dụng biện pháp nào vào mùa đông. Visscher J. P. khẳng
định tốc độ di chuyển và thời lượng di chuyển của bề mặt vật liệu trong nước biển
(so với đứng im) tỷ lệ nghịch với lượng bám bẩn được xác định trên chúng [2]. Các
nghiên cứu bám bẩn trên đĩa quay và hệ thống ống thủy tinh trong suốt có dòng chảy
với tốc độ khác nhau đã khẳng định, hà vẫn được tìm thấy ở vận tốc dưới 0,5 knot
[1, 3]. Còn đối với các đĩa quay, hà bám ở khu vực tâm đĩa (vận tốc di chuyển rất
thấp) tỷ lệ nghịch với tốc độ quay của đĩa và hà chỉ được tìm thấy ở phía trong của
đĩa ứng với đường kính tại đó vận tốc dài là 1 knot. Đặc trưng bề mặt vật liệu cũng
ảnh hưởng trực tiếp đến đặc trưng bám bẩn. Sự khác nhau này xảy ra đối với các loại
vật liệu khác nhau, khả năng thấm ướt bề mặt, độ nhám bề mặt của cùng một loại vật
liệu [4, 5]. Bức xạ mặt trời cũng tác động trực tiếp đến quá trình bám bẩn sinh học ở
khía cạnh tạo thuận lợn hơn về mặt sinh lý cho chúng bám và phát triển, xuất phát từ
bản chất quang dưỡng [6, 7]. Ngoài ra, vật liệu có màu sắc tối sẽ thu hút số lượng
bám bẩn nhiều hơn so với màu sáng [8]. Phương của bề mặt vật liệu cũng ảnh hưởng
không nhỏ đến kết quả bám bẩn sinh học. Hầu hết các tác giả đều khẳng định rằng,
bề mặt dưới của các tấm mẫu nằm ngang có số lượng sinh vật bám nhiều hơn ở bất
kỳ góc nào khác và ngược lại với bề mặt trên [1, 9, 10]. Kết quả này được cho là do
một số loài ấu trùng thường di chuyển bởi lưng và hướng lên trên nên dễ bám vào
phía dưới của các bề mặt và phía trên của các bề mặt nằm ngang luôn tồn tại một lớp
trầm tích có thể gây khó khăn cho các ấu trùng bám và phát triển. Xét về khía cạnh
môi trường nước biển, nhiều công trình đã khẳng định nhiệt độ, độ mặn so với mặt
nước biển đều liên quan trực tiếp đến lượng bám bẩn. Nhiệt độ và độ mặn thích hợp
cho quá trình sinh sản và phát triển tương ứng từ 15-30oC và 3,0-3,5% [11]. Bài báo
trình bày kết quả khảo sát ảnh hưởng của độ sâu, thời điểm thử nghiệm và thời gian
thử nghiệm theo tháng (30 ngày) đến mức độ bám bẩn và sự tăng sinh khối sau một
năm thử nghiệm tại Trạm nghiên cứu thử nghiệm biển Đầm Báy (Nha Trang).
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Địa điểm thử nghiệm: Các mẫu thử nghiệm được treo trên phao nổi đặt ở
vị trí nước mặt có độ sâu dao động khoảng từ 3,5 đến 5,5 m.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 60
2.2. Bố trí thử nghiệm
2.2.1. Các mẫu thử nghiệm là các tấm mica trung tính kích thước 300x150x2
mm bằng nhựa acrylic màu đen như tấm kiểm tra theo [12].
2.2.2. Mẫu thử nghiệm được triển khai ở 4 tầng độ sâu so với mặt nước biển
lần lượt là: 0,6; 1,4; 2,2; 3,0 m tính theo mép trên của mẫu. Độ sâu từ 0,6 - 3,0 m
phù hợp với khoảng độ sâu thử nghiệm theo [12]. Mỗi tầng bố trí 3 mẫu. Các mẫu
được treo theo phương thẳng đứng, dọc theo chiều bờ biển (hướng bắc nam) theo 3
phương án để khảo sát:
+ Phương án 1: Triển khai hàng tháng 12 mẫu thử nghiệm bắt đầu từ
19/9/2016. Các mẫu này được thu sau đó 30 ngày và triển khai 12 mẫu mới cho chu
kỳ tiếp theo.
+ Phương án 2: Triển khai đồng loại 144 mẫu tại thời điểm bắt đầu phương án
1. Số mẫu này được thu lần lượt theo từng tháng, mỗi tháng 12 mẫu.
+ Phương án 3: Triển khai hàng tháng 12 mẫu thử nghiệm bắt đầu từ
19/9/2016. Các mẫu này được thu đồng loạt ở cuối kỳ thử nghiệm (sau 12 tháng).
- Xác định khối lượng bám bẩn bằng cân trực tiếp mẫu thu định kỳ sau khi để
ráo nước tự nhiên ở vị trí không có nắng (khoảng 2 giờ). Sử dụng cân điện tử Ohaus
PA4102 sai số 0,01 g.
- Xác định diện tích bám bẩn (hàng tháng) bằng phần mềm ImageJ.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc trưng môi trường nơi thử nghiệm
Một số thông số khí tượng và môi trường nước biển liên quan được trình bày
ở bảng 1 và 2. Theo đó, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 9, đạt đỉnh vào tháng 12,
giảm dần trong tháng 1 với lượng mưa trung bình khá cao, kèm với đó là lượng bức
xạ mặt trời giảm.
Bảng 1. Một số thông số khí tượng trung bình tháng tại Đầm Báy
Thông số
Thời gian
Nhiệt độ,
oC
Số giờ nắng,
h
Tổng bức xạ,
MJ/m2
Lượng mưa,
mm
Năm
2016
Tháng 9 28,7 269,6 613,6 171,3
Tháng 10 27,3 188,7 474,4 359,5
Tháng 11 27,2 185,5 479,1 345,1
Tháng 12 25,9 116,4 270,5 1128
Năm
2017
Tháng 1 24,8 121,7 139,9 417,5
Tháng 2 24,9 179,3 478,4 29,50
Tháng 3 25,6 188,2 637,7 14,75
Tháng 4 27,2 231,8 600,6 31,25
Tháng 5 28,3 190,6 400,0 154,3
Tháng 6 28,4 235,5 618,7 38,50
Tháng 7 28,2 255,9 529,7 79,25
Tháng 8 28,5 267,3 623,5 91,84
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 61
Nồng độ oxy, nhiệt độ và độ mặn ở khu vực thử nghiệm đều tương đối cao,
cho phép cả thực vật và động vật biển bám, phát triển thuận lợi [11].
Bảng 2. Một số thông số nước biển trong thời gian thử nghiệm tại Đầm Báy
Thông số Nhiệt độ (oC) Độ mặn (‰) Độ pH Nồng độ O2 hòa tan (mg/l)
Sâu 0,6 m 25,1 - 30,3 32 - 34 8,1 - 8,4 5,55 - 6,95
Sâu 1,4 m 26,5 - 29,1 32 - 34 8,1 - 8,4 5,69 - 6,86
Sâu 2,2 m 25,9 - 28,8 32 - 34 8,1 - 8,4 5,92 - 7,12
Sâu 3,0 m 26,1 - 29,6 32 - 34 8,1 - 8,4 5,83 - 6,54
3.2. Khảo sát mức độ bám bẩn sinh học theo các tháng trong năm và độ sâu
Ảnh đại diện các mẫu bám bẩn hàng tháng (độ sâu 1,4 m) và theo độ sâu
(6/2017) ở phương án 1 được trình bày trong hình 1, 2. Luôn có một lớp bám bẩn
nhất định trên các bề mặt mẫu nhưng có sự khác biệt về số lượng sinh vật macro
quan sát được. Tại các thời điểm tháng 9, 10/2016 và từ tháng 3÷8/2017 hà, hàu đã
phát triển thành cá thể rõ rệt, kích thước từ 2 đến 5 mm. Từ tháng 11/2016 đến
01/2017, số lượng bám bẩn rất ít. Sinh khối bám bẩn trên các mẫu ở độ sâu 1,4 m và
2,2 m cũng cao hơn 2 độ sâu còn lại (hình 2).
Trước
khi thử
nghiệm
9/2016
10/2016
11/2016
12/2016
1/2017
2/2017
3/2017
4/2017
5/2017
6/2017
7/2017
8/2017
Hình 1. Ảnh đại diện các mẫu thử nghiệm ở độ sâu 1,4 m theo phương án 1.
0,6 m 1,4 m 2,2 m 3,0 m
Hình 2. Ảnh chụp các mẫu thử nghiệm ở độ sâu khác nhau, tháng 6/2017
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 62
Số liệu tổng hợp về sinh khối và diện tích bám bẩn sinh học hệ macro hàng
tháng được thể hiện trên hình 3, 4. Kết quả khảo sát cho thấy có sự thống nhất tương
đối giữa sinh khối và diện tích bám bẩn. Sinh khối và diện tích bám bẩn hàng tháng
ở mùa khô cao hơn so với mùa mưa. Theo công bố của các nghiên cứu tại Miami,
Floria, Mỹ, sinh khối bám bẩn ướt trên các mẫu plastic dao động từ 4 đến 24 g/144
in2 (từ 43 đến 258 g/m2) [3]. Như vậy, số liệu về sinh khối bám bẩn tại nơi khảo sát
ở độ sâu 1,4 và 2,2 m của nhóm tác giả vào mùa khô thậm chí còn cao hơn ở Miami.
Đây là kết quả tổng hợp của nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là do thiếu ánh
sáng, do bức xạ mặt trời ít và mưa nhiều, liên tục vào mùa mưa. Thiếu ánh sáng
không những là nguyên nhân trực tiếp hạn chế về mặt sinh lý của sinh vật bám bẩn
[6] mà còn hạn chế hiện tượng quang dưỡng của chúng [7]. Mặc khác, cũng do mưa
nhiều nên do hiện tượng đối lưu tại một số vị trí nhất định, độ mặn bị giảm cục bộ
cũng là nguyên nhân đáng kể.
Hình 3. Biểu đồ thể hiện sinh khối bám bẩn theo thời gian (tháng / năm) và độ sâu
Hình 4. Biểu đồ thể hiện diện tích bám bẩn theo thời gian (tháng / năm) và độ sâu
Ở phạm vi độ sâu từ 0,6 m cho đến 3,0 m, mặc dù không có sự thay đổi lớn về
độ sâu nhưng vẫn có sự khác biệt về sinh khối và diện tích bám bẩn mà chủ yếu ở
các tháng mùa khô. Theo các nghiên cứu đã công bố ở trong khoảng độ sâu này, môi
trường cho phép tạo ra đặc trưng bám bẩn tương tự nhau [11]. Tuy nhiên các mẫu ở
độ sâu 0,6 m vẫn có sinh khối bám bẩn ít hơn, có thể được giải thích dựa vào ảnh
hưởng của việc di chuyển tương đối giữa mẫu và môi trường do sóng khiến nước
luôn trượt trên bề mặt và do các mẫu này cũng chịu sự rung lắc nhiều nhất do dao
động của phao gây ra [1, 2]. Ngược lại, diện tích bám bẩn ít hơn trên các mẫu ở độ
sâu 3,0 m có thể do nhận được ít ánh sáng hơn ở những thời điểm đỉnh triều và dễ bị
tác động bởi cát, trầm tích đáy tại thời điểm đáy triều gây khó khăn cho các ấu trùng
bám và phát triển.
Si
nh
k
hố
i b
ám
b
ẩn
(g
/m
2 )
D
iện
tí
ch
b
ám
b
ẩn
(%
)
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 63
3.3. Khảo sát sự tăng sinh khối sau một năm và theo mùa thử nghiệm
Kết quả bám bẩn trên các mẫu thử nghiệm từ tháng thứ 2 trở đi đều có diện
tích bám bẩn tăng, số cá thể cũng như sinh khối tăng lên rõ rệt (hình 5, 6). Tốc độ
tăng sinh khối của quần thể bám bẩn gần như tuyến tính chứng tỏ sinh vật bám phát
triển đều đặn cả về số lượng và kích thước và không có sự khác biệt rõ rệt giữa các
mẫu thử nghiệm ở các độ sâu khác nhau từ 0,6 đến 2,2 m.
2
4 6 8
10
12
Hình 5. Ảnh đại diện mẫu theo phương án 2 ở độ sâu 1,4 m (tháng thử nghiệm)
Số tháng thử nghiệm (từ 19/9/2016)
Hình 6. Biểu đồ thể hiện sinh khối bám bẩn theo thời gian thử nghiệm và độ sâu
Chỉ riêng mẫu ở độ sâu 3,0 m có sinh khối bám bẩn thường thấp hơn và thay
đổi không đều đặn. Điều này do các mẫu này thường chịu điều kiện lắng đọng trầm
tích cao, dòng nước ngầm từ suối làm hạn chế sinh vật bám phát triển. Mặc dù vào
các tháng mùa khô bám bẩn cảm ứng (trong 30 ngày đầu) là thấp nhất trong năm
nhưng trên đồ thị hình 6, tốc độ phát triển sinh khối vẫn mạnh nhất là do giai đoạn
này, các sinh vật hệ macro đã bám ổn định và tăng trưởng mạnh. Sau 7, 8 tháng, sinh
khối tăng không đáng kể, thậm chí có thể giảm do một số hàu bị chết, lớp vỏ và
phần thân bị tách dần khỏi mẫu.
Si
nh
k
hố
i b
ám
b
ẩn
(g
/m
2 )
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 64
Bảng 3. Sinh khối tấm kiểm tra theo phương án 2 (g/m2) và phương án 3 (±%)
Số
tháng
0,6 m
(PA2)
0,6 m
(PA3)
1,4m
(PA2)
1,4m
(PA3)
2,2 m
(PA2)
2,2 m
(PA3)
3 m
(PA2)
3 m
(PA3)
2 678 +26,4 % 412 +12,1 % 589 +7,8 % 478 +2,5 %
3 1700 -3,9 % 1478 + 4,8 % 1411 +12,7 % 955 +38,6 %
4 2311 -4,4 % 2111 +16,96% 3189 +3,4 % 1449 +10,2 %
5 3690 +2,4 % 3213 +1,93 % 3573 3,5 % 1623 -6,7 %
Ngoài ra, thời điểm đặt mẫu cũng ảnh hưởng đến tốc độ tăng sinh khối ở giai
đoạn ban đầu. Số liệu trình bày ở bảng 3 cho thấy hầu hết các mẫu triển khai vào
thời điểm mùa khô (phương án 3) có độ tăng sinh khối cao hơn so với các mẫu triển
khai vào mùa mưa. Kết quả này là do các mẫu triển khai theo phương án 3 có lợi thế
phát triển ban đầu nên chúng nhanh chóng tăng trưởng. Tuy vậy, sau hơn 5 tháng
thử nghiệm, sinh khối theo phương án 2 và 3 là tương đương nhau.
4. KẾT LUẬN
- Bám bẩn sinh học ban đầu (tháng đầu tiên) diễn ra thuận lợi hơn vào các
khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 9 (mùa khô) và cao hơn từ 2 đến 4 lần so với
các tháng còn lại (mùa mưa). Độ sâu ở 1,4 m và 2,2 m tại phao thử nghiệm ở Đầm
Báy thích hợp cho thử nghiệm bám bẩn sinh học do diễn ra mạnh hơn và ổn định
hơn so với ở độ sâu 0,6 m và 3,0 m.
- Tốc độ tăng sinh khối diễn ra mạnh và hầu như tuyến tính trong khoảng từ tháng
thứ 3 đến tháng thứ 7, sau đó tốc độ tăng chậm lại và không đáng kể cho đến 12 tháng.
- Mức độ bám bẩn ở những tháng đầu tiên (sau 2,3 và 4 tháng) phụ thuộc vào
mùa triển khai đặt mẫu (đặt mẫu vào tháng 9 - mùa mưa cho giá trị thấp hơn so với
đặt vào tháng 4, 5, 6 - mùa khô). Tuy nhiên sau 6 tháng, mức sai khác này không
còn ý nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. WHOI (Woods Hole Oceanographic Institute), Factors Influencing the
Attachment and Adherence of Fouling Organisms (Marine Fouling and Its
Prevention), George Banta Publishing Co., 1952, 580:230-240.
2. Visscher J.P., Nature and extent of fouling of ships’ bottoms, Bulletin of the
Bureau of Fisheries Part II, 1927, 43(1031):193-252.
3. Smith F.G.W., Effect of water currents upon the attachment and growth of
barnacles, Biological Bulletin, 1946, 90(1):51-70.
4. Pomerat C.M., Weiss C.M., The influence of texture and composition of
surface on the attachment of sedentary marine organisms, Biological Bulletin,
1946, 91(349):57-65.
Nghiên cứu khoa học công nghệ
Tạp chí Khoa học và Công nghệ nhiệt đới, Số 16, 10 - 2018 65
5. Sheer B.T., Fox D.L., Attachment of Sedentary Marine Organisms to
Petrolatum Surfaces, Proceedings of the Society for Experimental Biology and
Medicine, 1947, 65:92-95.
6. Gregg J.H, Background illumination as a factor in the attachment of barnacle
cyprids, Biological Bulletin, 1945, 88(1):44-49.
7. Weiss C.M., The Effect of Illumination and Stage of Tide on the Attachment of
Barnacle Cyprids, Biological Bulletin, 1947, 93(3):240-249.
8. Pomerat C.M, Reiner E.R., The Influence of Surface Angle and of Light on the
Attachment of Barnacles and Other Sedentary Organisms, Biological
Bulletin,1942, 82(1):14-25.
9. Hopkins A.E., Factors Influencing the Spawning and Setting of Oysters in
Galveston Bay, Texas. Bulletin of the U.S. Fish Commission, 1931, 47:57-83.
10. McDougall, Sessile Marine Invertebrates of Beaufort, North Carolina: A
Study of Settlement, Growth, and Seasonal Fluctuations among Pile-Dwelling
Organisms, Ecological Monographs, 1943, 13(3):321-374.
11. WHOI (Woods Hole Oceanographic Institute), Relations to Local
Environments (Marine Fouling and Its Prevention), George Banta Publishing
Co., 1952, 580:102-117.
12. TCVN 8785-1:2011, Sơn và các lớp phủ bảo vệ kim loại - Phương pháp thử
trong điều kiện tự nhiên - Phần 1: Hướng dẫn đánh giá hệ sơn và lớp phủ bảo
vệ kim loại.
SUMMARY
INVESTIGATION OF MACRO BIO-FOULING IN TIME AND DEPTH
AT DAM BAY MARINE RESEARCH AND TESTING STATION
The initial bio-fouling occurred more favorably in the months from March to
September and 2 to 4 times higher than the rest. The testing conditions were most
stable at depth of 1.4 m and 2.2 m compared to 0.6 m and 3.0 m. The biomass
growth rate was almost linearly observed from 3rd to 7th months, then slowed down
and was negligible up to 12th month. The level of bio-fouling in the first 4 months
depended on the seasons (biomass of samples have been immersed in September
lower than that of samples immersed from April to June). However, after 6 months,
this difference is not significant.
Keywords: Bám bẩn macro, sinh khối, diện tích bám bẩn, thời gian thử nghiệm.
Nhận bài ngày 29 tháng 8 năm 2017
Phản biện xong ngày 20 tháng 4 năm 2018
Hoàn thiện ngày 24 tháng 5 năm 2018
Chi nhánh Ven biển, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_bam_ban_he_macro_theo_do_sau_va_thoi_gian_tai_tram.pdf