Khảo sát các biến chứng của bệnh túi thừa đại tràng

Dấu hiệu thủng túi thừa trên MSCT không đồng nghĩa với chỉ định mổ, ngoại trừ trường hợp lâm sàng có dấu hiệu viêm phúc mạc(9) kèm khí tự do. Các trường hợp khác có dấu hiệu trên CT như bóng khí cạnh túi thừa hay cạnh đại tràng, túi thừa mất liên tục nhưng lâm sàng không có biểu hiện viêm phúc mạc thì vẫn có thể điều trị bảo tồn. Chúng tôi có 24/33 trường hợp có biểu hiện thủng túi thừa trên MSCT nhưng vẫn điều trị bảo tồn thành công. Trong các báo cáo trước đây, chúng tôi báo cáo loạt ca cắt túi thừa nội soi với kết quả sớm rất tốt(10), trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ tìm được 38 trường hợp, khá nhiều trường hợp đã không được tìm ra với phương pháp lấy mẫu này do lỗi nhập mã ICD ban đầu. Còn rất nhiều điều cần bàn về phương pháp này, với kỹ thuật không khó khăn, thực hiện an toàn và không biến chứng thì cho thấy có vẻ đó là phương pháp hứa hẹn cho các bệnh nhân trẻ, túi thừa ít hoặc đơn độc. Trong nghiên cứu này, hơn 70% các trường hợp là túi thừa đơn độc ở đại tràng phải. Nhưng phương pháp cắt túi thừa không có nhiều ý nghĩa nếu là đa túi thừa vì bệnh nhân vẫn có thể bị biến chứng trong tương lai bởi các túi thừa còn lại, và việc phải trải qua cuộc mổ để giải quyết 1 túi thừa viêm trong số nhiều túi thừa khác là không cần thiết vì tỉ lệ điều trị nội thành công vượt qua đợt viêm cũng rất cao.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 39 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát các biến chứng của bệnh túi thừa đại tràng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 181 KHẢO SÁT CÁC BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH TÚI THỪA ĐẠI TRÀNG Lê Huy Lưu*, Đỗ Thị Thu Phương**, Nguyễn Việt Thành*, Nguyễn Đức Trí** TÓM TẮT Mở đầu – Mục tiêu: Túi thừa đại tràng là bất thường giải phẫu thường gặp nhất nhưng hiếm khi được chẩn đoán tại Việt Nam. Mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát sự hiện diện, kiểu phân bố của túi thừa ở đại tràng và các biến chứng của bệnh. Phương pháp: Ghi nhận tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán túi thừa đại tràng từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 9 năm 2014. Các thông tin về tuổi, giới, biểu hiện, phương tiện chẩn đoán, cách điều trị và kết quả được thu thập. Kết quả: Nhóm nghiên cứu bao gồm 462 bệnh nhân. Tuổi trung bình là 41 (thay đổi từ 13 – 91), 302 trường hợp là nữ (65%). Phần lớn bệnh nhân (415, 90%) có túi thừa là ở đại tràng bên phải, bệnh thường viêm ở mức độ nhẹ (416, 90%). Phần lớn được chẩn đoán dựa vào MSCT (329, 71%), một số chẩn đoán được trong mổ sau khi chỉ định mổ vì nghi ngờ viêm ruột thừa (20,1%). Kết luận: Bệnh túi thừa đang tăng lên ở Việt Nam, bệnh thường gặp bên đại tràng phải và thường nhẹ. Phần lớn được chẩn đoán dựa vào MSCT. Từ khoá: Túi thừa đại tràng, biến chứng, chẩn đoán. ABTRACT INVESTIGATION OF COMPLICATIONS OF DIVERTICULAR COLON Le Huy Luu, Do Thi Thu Phuong, Nguyen Viet Thanh, Nguyen Duc Tri * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 181 - 186 Background – objectives: Diverticular disease is the most common morphological abnormality of the colon but rarely was diagnosed in Vietnam. The objective was to assess the presentation, extent of disease, and complications of diverticulosis. Method: All patients with a diagnosis of diverticulitis from January 2010 to September 2014 were reviewed. Patients were assessed as to age, sex, presenting symptoms, diagnostic studies, extent of disease, treatment, and outcome. Results: The study group consisted of 462 patients. The mean age was 41 years (range 13 to 91), 302 of 462 (65%) were male. Most of the patients (n=415. 90%) had right-sideddiverticulitis and most (n= 416. 90%) were mild in severity. The majority were diagnosed by MSCT (n = 329, 71%), some of patients who underwent emergency surgery were for suspected appendicitis (n = 95, 20.1%). Conclusion: Diverticular colon is increasing in Vietnam, often right-sided and mild in severity. A significant proportion is diagnosed by MSCT. Key words: Diverticulitis, complications, diagnosis. MỞ ĐẦU Túi thừa đại tràng vẫn được biết là bệnh lý phổ biến ở các nước phương Tây. Có đặc điểm là thường gặp ở người lớn tuổi, biểu hiện dưới dạng nhiều túi thừa chủ yếu tập trung ở đại * Bộ môn Ngoại, Đại học Y Dược TPHCM ** Khoa Ngoại Tiêu hóa, Bệnh viện Nhân dân Gia Định Tác giả liên lạc: BS. Lê Huy Lưu ĐT: 0903 945 397 Email: lehuyluu@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Ngoại Khoa 182 tràng bên trái. Đây là vấn đề y tế lớn tại các quốc gia này bởi nhiều biến chứng có thể gặp phải do bệnh túi thừa gây ra, đặc biệt là các đối tượng bị bệnh thường là lớn tuổi và có nhiều bệnh lý kèm theo. Tại các nước phương Đông, trong đó có nước ta, bệnh túi thừa đại tràng ít được nhắc đến trước đây. Nhiều năm trở lại đây, các báo cáo về bệnh lý này ngày càng nhiều nhất là tại các nước Đông Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Trung Quốc, Singapore Nước ta cũng có vài báo cáo về bệnh lý này. Qua các nghiên cứu đã cho thấy, bệnh lý này cũng gặp khá nhiều tại các nước phương Đông trong đó có nước ta nhưng có sự khác biệt khá rõ về đặc điểm bệnh lý đó là đối tượng mắc bệnh thường trẻ hơn, phân bố nhiều ở đại tràng phải và số lượng túi thừa hiện diện ít hơn. Do những đặc điểm bệnh lý như trên, việc theo dõi, thái độ xử trí cũng khác biệt so với phương Tây, đặc biệt đối tượng bị bệnh thường trẻ, khả năng gặp biến chứng trong tương lai sẽ nhiều. Do đó, việc khảo sát các biến chứng, mức độ nguy hiểm của biến chứng, cách xử lý biến chứng là rất cần thiết để có thái độ xử lý thích hợp cho những bệnh nhân mắc bệnh này. Mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát các biến chứng của bệnh túi thừa đại tràng đồng thời rút ra một số đặc điểm của bệnh lý này. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang (cross-sectional study). Phương pháp Từ chương trình quản lý bệnh nhân của bệnh viện, chúng tôi truy cập tất cả các bệnh nhân nhập viện có mã ICD là K57.x. Sau đó tiếp tục truy cập thông tin về siêu âm, MSCT, nội soi, thông tin phẫu thuật (nếu bệnh nhân có mổ), kết quả giải phẫu bệnh Ngoài ra, từ chương trình quản lý bệnh nhân của bệnh viện, chúng tôi cũng biết được số lần nhập viện, số ngày điều trị và các bệnh kèm theo của từng trường hợp. Từ các thông tin đó, chúng tôi chọn được những trường hợp theo tiêu chuẩn nghiên cứu. Với cách làm này, chúng tôi chọn được tương đối chính xác các trường hợp thực sự bị bệnh túi thừa đại tràng nhưng không đảm bảo chọn hết được tất cả các bệnh nhân túi thừa đại tràng nhập viện vì có thể có những trường hợp bệnh nhân không được nhập đúng mã ICD. Để hạn chế điều này, chúng tôi truy cập thêm dữ liệu từ khoa giải phẫu bệnh lý, các mẫu bệnh phẩm là đại tràng trong thời gian nghiên cứu được quan tâm, và đã tìm thêm được một số trường hợp bệnh lý túi thừa nhưng được chẩn đoán lầm là u đại tràng, viêm đại tràng hay không xác định Đối tượng nghiên cứu Tất cả các trường hợp vào viện vì các biến chứng của bệnh túi thừa đại tràng tại BV Nhân Dân Gia Định trong thời gian 5 năm, từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 9 năm 2014. Tiêu chuẩn chọn bệnh: Bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu nếu có ít nhất 1 tiêu chuẩn sau: Tiêu chuẩn trên MSCT: Có ít nhất 1 hình ảnh túi thừa (bắt buộc), nếu túi thừa viêm thì phải có thêm 2 tiêu chuẩn sau: dấu hiệu viêm, thâm nhiễm mỡ quanh túi thừa và thành đại tràng dày trên 4mm. Những bệnh nhân có túi thừa thấy được qua soi đại tràng. Những bệnh nhân được ghi nhận trong mổ xác định biến chứng của túi thừa đại tràng. Những bệnh nhân được xác định qua giải phẫu bệnh sau mổ. Các thông số như tuổi, giới, đặc điểm túi thừa, các biến chứng, mức độ nặng, phương pháp chẩn đoán được thu thập. Mã hoá và xử lý thống kê bằng phần mềm SPSS 16. KẾT QUẢ Từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 9 năm 2014 có tổng số 601 lượt bệnh nhân được chẩn đoán bệnh túi thừa đại tràng với mã bệnh là K57 (ICD 10), chúng tôi chọn được 462 trường hợp thoả Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 183 tiêu chuẩn nghiên cứu. Trong đó 415 trường hợp túi thừa chỉ có ở đại tràng bên phải (90%), 47 trường hợp còn lại là túi thừa bên trái hoặc có ở khắp đại tràng (bảng 1). Cũng trong khoảng thời gian trên, số ca viêm ruột thừa phải mổ là 8513 trường hợp. Tỉ lệ viêm túi thừa đại tràng phải trên số trường hợp mổ ruột thừa xấp xỉ 1:20 Bảng 1: Đặc điểm phân bố của túi thừa trên đại tràng. Kiểu túi thừa Số lượng (%) Vị trí Túi thừa manh tràng 253 (54,7%) 415 (89,8%) Bên phải Túi thừa đại tràng lên 83 (18%) Đa túi thừa bên phải 79 (17,1%) Đa túi thừa bên trái 29 (6,3%) 47 (10,2%) Bên trái + khắp đại tràng Đa túi thừa đại tràng 18 (3,9%) Giới Nam chiếm 65%; Tỉ lệ nam: Nữ là 1,9: 1. Nam gần gấp đôi nữ. Phân bố theo năm Năm 2010, 2011 ít đáng kể so với các năm sau vì các bác sĩ chưa quen nhập đúng mã ICD của bệnh túi thừa, nhiều bệnh bị thất lạc do nhập ICD sai (biểu đồ 1). 36 58 117 156 95 0 20 40 60 80 100 120 140 160 180 2010 2011 2012 2013 2014 (9 tháng) Biểu đồ 1. Số lượng ca trong từng năm. Tuổi trung bình là 41 (thay đổi từ 13 đến 91). Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân túi thừa bên phải trẻ hơn đáng kể so với bên trái, tương ứng là 39 và 59. Hầu hết bệnh nhân vào viện trong tình trạng viêm túi thừa chưa biến chứng, 416 trường hợp chiếm tới 90% (Bảng 2), các thể lâm sàng khác bao gồm áp xe, viêm phúc mạc, rò, lầm u đại tràng, xuất huyết tiêu hoá. Các phương pháp điều trị cho bệnh nhân chưa thật sự thống nhất, nhiều trường hợp chỉ chẩn đoán được khi mổ. Bảng 2: Các biến chứng và phương pháp điều trị. Thể lâm sàng Điều trị Điều trị nội Điều trị nội (mổ) Cắt túi thừa Cắt đại tràng Tổng Tình cờ 4 0 0 0 4 Viêm 343 36 32 5 416 Áp xe 3 0 0 7 10 Viêm phúc mạc 0 0 6 8 14 Rò 1 0 0 2 3 Khối u 7 0 1 3 11 Xuất huyết tiêu hoá 4 0 0 0 4 Tổng 362 36 39 25 462 Căn cứ chẩn đoán và thái độ điều trị thay đổi theo thời gian (Bảng 3). Thời gian đầu, chẩn đoán được trước mổ rất ít, nhưng càng về sau thì khả năng chẩn đoán được bệnh bằng việc sử dụng MSCT tăng cao. Tương tự vậy, khi đã chẩn đoán được trước mổ nên điều trị không mổ cũng tăng hơn. Bảng 3: Cách chẩn đoán và điều trị. Năm Căn cứ chẩn đoán Điều trị Mổ MSCT Nội soi GPB Điều trị nội Điều trị nội (mổ) Cắt túi thừa Cắt đại tràng 2010 29 2 4 1 6 16 8 6 2011 29 26 3 0 30 14 9 5 2012 21 84 12 0 96 3 13 5 2013 9 137 10 0 142 0 8 6 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Ngoại Khoa 184 Năm Căn cứ chẩn đoán Điều trị Mổ MSCT Nội soi GPB Điều trị nội Điều trị nội (mổ) Cắt túi thừa Cắt đại tràng 2014 7 80 8 0 88 3 1 3 Hình ảnh thủng túi thừa trên MSCT có 33 trường hợp, đa số chỉ có hơi cạch đại tràng hoặc túi thừa mất liên tục, một số có hơi tự do trong bụng. 24 trong số đó được quyết định điều trị nội. Bệnh túi thừa bên trái có xu hướng được mổ cắt đại tràng nhiều hơn so với bên phải (8/47 bên trái so với 17/415 của bên phải) (Bảng 4). Bảng 4: Các yếu tố ảnh hưởng tới điều trị. Yếu tố ảnh hưởng Điều trị Điều trị nội Mổ không can thiệp Cắt túi thừa Cắt đại tràng Tổng Thủng túi thừa/ MSCT Không thủng 338 36 38 17 429 Thủng 24 0 1 8 33 Vị trí túi thừa Đại tràng phải 324 36 38 17 415 Đại tràng trái 38 0 1 8 47 BÀN LUẬN Với thiết kế nghiên cứu nhằm tìm ra các bệnh nhân được chẩn đoán chính xác nhất bệnh túi thừa đại tràng và các biến chứng của nó, trong gần năm năm chúng tôi có được 462 trường hợp với tiêu chuẩn chẩn đoán khá chắc chắn. Như vậy mỗi năm có hàng trăm trường hợp bệnh túi thừa đại tràng phải nhập viện tại bệnh viện chúng tôi, tương ứng trong thời gian này có hơn 8 ngàn trường hợp mổ cắt ruột thừa (cứ 20 trường hợp mổ cắt ruột thừa thì có 1 ca viêm túi thừa nhập viện). Con số thực tế chắc còn cao hơn do nhiều trường hợp không được chẩn đoán và các trường hợp không chắc chắn bị chúng tôi loại ra. Ngoài ra, thời gian đầu, nhiều bác sĩ vẫn chưa có ý thức chẩn đoán bệnh này, nên nhiều trường hợp đã bị bỏ sót hay chẩn đoán nhầm với bệnh lý khác. Một lý do giải thích cho việc chẩn đoán lầm này kéo dài là do đa số bệnh biểu hiện không đặc hiệu(4), dễ nhầm với các bệnh lý tiêu hoá thường gặp khác. Hơn nữa bệnh thường đáp ứng với điều trị nội khoa bằng các kháng sinh thông thường hoặc thậm chí tự hết sau vài ngày(8), vì vậy nên thường bị bỏ qua. Một số diễn tiến nặng sang các biến chứng như áp xe hay viêm phúc mạc phải mổ thì cũng không dễ cho hầu hết các phẫu thuật viên có thể nhận biết được nguyên nhân là túi thừa. Kết quả giải phẫu bệnh thì phải nhiều ngày sau mới có nên dễ bị bỏ qua. Việc nhập mã ICD không đúng cũng là một lý do khiến chúng tôi có thể để sót các bệnh nhân trong giai đoạn trên (lúc đầu ít bác sĩ dùng mã K57 mà thường nhập giống như ruột thừa). Ở chiều ngược lại, khi đã biết tới bệnh này thì nhiều người cũng lại quá dễ dàng chẩn đoán mà không cần có các tiêu chuẩn chắc chắn, khiến cho lượng bệnh tăng ảo. Tỉ lệ nam: nữ rất khác nhau trong các báo cáo. Nghiên cứu của Hussain cho thấy, tuổi trung bình là 73 và tỉ lệ nữ chiếm tới 72%(7). Nhiều nghiên cứu lại thể hiện ngược lại, đặc biệt là ở độ tuổi dưới 50, bệnh gặp nhiều hơn ở nam. Điều này cũng được thể hiện trong nghiên cứu của chúng tôi, với tuổi trung bình là 41, bệnh ưu thế rõ ở nam, nhiều gần gấp đôi nữ. Nếu chỉ tính túi thừa bên phải thì tuổi trung bình chỉ là 39 tuổi, độ tuổi này cũng phù hợp với các nghiên cứu ở các nước Á đông. Thời gian đầu, rất ít bệnh nhân được chẩn đoán viêm túi thừa và phần lớn chẩn đoán khi mổ, về sau nhờ siêu âm và chụp cắt lớp vi tính nên nhiều bệnh nhân chẩn đoán được hơn. Đây là 2 phương tiện rất hữu ích để chẩn đoán xác định cũng như chẩn đoán biến chứng, mức độ nặng nhẹ của các biến chứng, đặc biệt là chụp cắt lớp vi tính(8). Nội soi đại tràng được xem là đặc hiệu tuy nhiên dễ bỏ sót túi thừa, nhất là các trường hợp túi thừa đơn độc ở đại tràng phải. Đặc biệt nôi soi rất hạn chế trong việc đánh giá biến chứng (ngoại trừ xuất huyết tiêu hoá). Nhưng đây là phương tiện tốt nhất để khảo sát Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học Ngoại Tổng Quát 185 các bệnh kèm theo trong lòng đại tràng. Nghiên cứu của chúng tôi, 2 năm đầu chẩn đoán chủ yếu dựa vào mổ, các năm sau chẩn đoán dựa vào siêu âm và chụp cắt lớp vi tính đã tăng lên vượt trội, tính chung thì hơn 70% trường hợp được chẩn đoán dựa vào phương tiện này. Về đặc điểm phân bố cũng như số lượng túi thừa trên đại tràng. Gần 90% các trường hợp trong nghiên cứu của chúng tôi có túi thừa nằm bên đại tràng phải. Về biểu hiện lâm sàng: Hầu hết là biểu hiện viêm không biến chứng (90%). Theo y văn, túi thừa đại tràng là nguyên nhân hàng đầu gây xuất huyết tiêu hoá dưới(12), đặc biệt là túi thừa đại tràng phải thường dễ xuất huyết tiêu hoá hơn các vị trí khác(6, 13) và diễn tiến nặng hơn. Tuy nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi, dù bệnh chủ yếu ở đại tràng phải nhưng xuất huyết tiêu hoá đặc biệt rất hiếm, mà lại xảy ra trên bệnh nhân đa túi thừa chậu hông hoặc khắp đại tràng. Giống như nhận định của tác giả Lewis(11), các bệnh nhân xuất huyết tiêu hoá trong nghiên cứu của chúng tôi đều có đặc điểm là lớn tuổi, có kèm theo nhiều bệnh nội khoa, tuy nhiên vì số lương quá ít nên chúng tôi không có kết luận gì. Theo một số tác giả, biến chứng xuất huyết tiêu hoá do túi thừa ngày càng tăng trong khi chung tôi lại rất ít gặp, lý giải cho điều này, một phần có thể do chúng tôi không thu thập được đầy đủ các bệnh nhân xuất huyết tiêu hoá do túi thừa đại tràng bởi hạn chế của phương pháp lấy mẫu dựa vào mã ICD trong phần mềm quản lý của bệnh viện (hầu hết các bệnh nhân xuất huyết tiêu hoá không được nhập mã ICD chính xác). Biểu hiện khối u cũng là vấn đề đáng quan tâm, làm cho bệnh nhân rất lo lắng, khối u thường được chẩn đoán qua lâm sàng, siêu âm và MSCT. Hầu hết được loại trừ sau khi được nội soi đại tràng. Cá biệt có 1 trường hợp bị chẩn đoán ung thư manh tràng ngay cả sau khi soi và thậm chí lúc mổ vẫn nghĩ nhiều tới ung thư xâm lấn (T4). Chỉ sau khi có kết quả giải phẫu bệnh sau mổ mới khẳng định đó chỉ là khối viêm kèm theo các túi thừa khác của manh tràng. Cho dù đã có nhiều hướng dẫn điều trị bệnh túi thừa đại tràng(2,3,14), đặc biệt là túi thừa đại tràng trái. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quan điểm trái ngược trong việc xử trí(5). Có xu hướng ủng hộ việc mổ cắt bỏ vì cho rằng đáp ứng với điều trị nội ngày càng thấp ở những lần tái phát trong khi nguy cơ biến chứng lại càng cao nếu buộc phải mổ ở bệnh nhân tái phát nhiều lần(1). Xu hướng khác lại muốn điều trị bảo tồn và đưa các bằng chứng bảo vệ quan điểm của mình. Riêng túi thừa đại tràng phải thì lại có thêm nhiều điểm khác biệt, do đó chúng ta không nên áp dụng một cách máy móc một hướng dẫn nào đó cho tất cả. Thái độ khôn ngoan là biết rõ các phương pháp điều trị, ưu và nhược điểm của từng phương pháp và áp dụng cho từng bệnh nhân(15) phù hợp với các đặc điểm riêng của họ về độ tuổi, sức khoẻ, lối sống, công việc Dấu hiệu thủng túi thừa trên MSCT không đồng nghĩa với chỉ định mổ, ngoại trừ trường hợp lâm sàng có dấu hiệu viêm phúc mạc(9) kèm khí tự do. Các trường hợp khác có dấu hiệu trên CT như bóng khí cạnh túi thừa hay cạnh đại tràng, túi thừa mất liên tục nhưng lâm sàng không có biểu hiện viêm phúc mạc thì vẫn có thể điều trị bảo tồn. Chúng tôi có 24/33 trường hợp có biểu hiện thủng túi thừa trên MSCT nhưng vẫn điều trị bảo tồn thành công. Trong các báo cáo trước đây, chúng tôi báo cáo loạt ca cắt túi thừa nội soi với kết quả sớm rất tốt(10), trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ tìm được 38 trường hợp, khá nhiều trường hợp đã không được tìm ra với phương pháp lấy mẫu này do lỗi nhập mã ICD ban đầu. Còn rất nhiều điều cần bàn về phương pháp này, với kỹ thuật không khó khăn, thực hiện an toàn và không biến chứng thì cho thấy có vẻ đó là phương pháp hứa hẹn cho các bệnh nhân trẻ, túi thừa ít hoặc đơn độc. Trong nghiên cứu này, hơn 70% các trường hợp là túi thừa đơn độc ở đại tràng phải. Nhưng phương pháp cắt túi thừa không có nhiều ý nghĩa nếu là đa túi thừa vì bệnh nhân vẫn có thể bị biến chứng trong tương lai bởi các túi thừa còn lại, và việc phải trải qua cuộc mổ để Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Chuyên Đề Ngoại Khoa 186 giải quyết 1 túi thừa viêm trong số nhiều túi thừa khác là không cần thiết vì tỉ lệ điều trị nội thành công vượt qua đợt viêm cũng rất cao. KẾT LUẬN Bệnh túi thừa đại tràng đang được chẩn đoán ngày càng nhiều ở Việt Nam, bệnh thường gặp bên đại tràng phải và biến chứng gặp nhiều nhất là viêm túi thừa, đa số biểu hiện nhẹ. Phần lớn được chẩn đoán dựa vào MSCT. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Anania G, Vedana L, Santini M et al (2014). Complications of diverticular disease: surgical laparoscopic treatment. G Chir. 35 (5-6): 126-128. 2. Andersen JC, Bundgaard L, Elbrønd H et al (2012). Danish national guidelines for treatment of diverticular disease. Dan Med J. 59(5): C4453. 3. Andeweg CS, Mulder IM, Felt-Bersma RJ et al (2013). Guidelines of diagnostics and treatment of acute left-sided colonic diverticulitis. Dig Surg. 30(4-6): 278-292. 4. Annibale B, Lahner E, Maconi G, et al (2012). Clinical features of symptomatic uncomplicated diverticular disease: a multicenter Italian survey. Int J Colorectal Dis. 27 (9): 1151- 1159. 5. Bassotti G, Villanacci V (2012). Medical treatment of colonic diverticular disease: are we sure the aim is right? Intern Emerg Med. 2012 Apr, 7(2): 97-98. 6. Faucheron JL, Roblin X, Bichard P, et al (2013). The prevalence of right-sided colonic diverticulosis and diverticular haemorrhage. Colorectal Dis, 15(5): e266-270. 7. Hussain A, Mahmood H, Subhas G et al (2008). Complicated diverticular disease of the colon, do we need to change the classical approach, a retrospective study of 110 patients in southeast England. World J Emerg Surg. 3: 5. 8. Kruis W, Morgenstern J, Schanz S (2013). Appendicitis/Diverticulitis: Diagnostics and Conservative Treatment. Dig Dis, 31(1): 69-75. 9. Krukowski ZH, Matheson NA (1984). Emergency surgery for diverticular disease complicated by generalized and faecal peritonitis: a review. Br J Surg, 71(12): 921-927. 10. Lê Huy Lưu, Nguyễn Văn Hải (2010). Kết quả của phẫu thuật nội soi cắt túi thừa trong điều trị viêm túi thừa đại tràng phải. Y Học TP Hồ Chí Minh, 14(4): 12-15. 11. Lewis M (2008). Bleeding colonic diverticula. J Clin Gastroenterol, 42(10): 1156-1158. 12. Marion Y, Lebreton G, Le Pennec V, et al (2014). The management of lower gastrointestinal bleeding. J Visc Surg, 151(3): 191-201 13. Nagata N, Niikura R, Aoki T, et al (2014). Increase in colonic diverticulosis and diverticular hemorrhage in an aging society: lessons from a 9-year colonoscopic study of 28,192 patients in Japan. Int J Colorectal Dis, 29(3): 379-385. 14. Vennix S, Morton DG, Hahnloser D (2014). Systematic review of evidence and consensus on diverticulitis: an analysis of national and international guidelines. Colorectal Dis, 16(11): 866-78. 15. Wilkins T, Embry K, George R (2013). Diagnosis and Management of Acute Diverticulitis. Am Fam Physician, 87(9): 612-620. Ngày nhận bài báo: 07/11/2014 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/11/2014 Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_cac_bien_chung_cua_benh_tui_thua_dai_trang.pdf
Tài liệu liên quan