Khảo sát các đặc điểm của bệnh nhân Peyronie

Biểu đồ trên chúng tôi so sánh chiều dài dương vật của nghiên cứu này với nhóm CDV bẩm sinh và trên nam giới trưởng thành đều được tiến hành tại Việt Nam. Khác với CDV bẩm sinh có chiều dài dương vật khi cương 12,69 ± 0,69 cm có phần trội hơn so với dân số bình thường là 11,2 ± 1,7 cm, đối với nhóm Peyronie chúng tôi nhận thấy chiều dài dương vật khi cương là 11,21 ± 2,08 cm tương đương với dân số Việt Nam trưởng thành. Điều này là một bất lợi cho nhóm bệnh lý Peyronie khi tiến hành phẫu thuật vì khả năng làm ngắn dương vật hơn so với dân số bình thường. Phân tích tần suất RLC theo EHS và theo IIEF-5 trên nhóm nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 58,31 ± 8,50 chúng tôi ghi nhận kết quả lần lượt là 57,89% và 50%. Tần suất này tương đương với hiệp hội niệu khoa Châu Âu đưa ra vào năm 2012 là > 50%. Tuy nhiên theo một số tác giả như Kadioglu(6) (2004) thì tần suất RLC trên nhóm bệnh nhân Peyronie có biến dạng dương vật là 31,5% và theo Palese M(12) (2004) thì tần suất này là 30% nếu tính theo thang điểm IIEF. Kết quả của chúng tôi có phần cao hơn nhưng có thể giải thích như đã trình bày ở phần bàn luận về độ tuổi. Các nghiên cứu trên thực hiện ở quy mô cộng đồng lớn và phát hiện nhiều bệnh nhân Peyronie có khoảng tuổi thấp hơn của chúng tôi, thậm chí là ở lứa tuổi vị thành niên nên khi tính kết quả chung của RLC đi kèm sẽ thấy giảm tần suất hơn so với lứa tuổi trung niên. Chúng tôi không so sánh với tần suất RLC theo từng nhóm tuổi do ở nhóm nghiên cứu có bệnh lý CDV đi kèm và các yếu tố nguy cơ của bệnh lý như cao huyết áp, đái tháo đường và rối loạn mỡ máu cũng chính là các yếu tố có thể ảnh hưởng đến RLC trên những bệnh nhân này.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 37 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát các đặc điểm của bệnh nhân Peyronie, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 226 KHẢO SÁT CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA BỆNH NHÂN PEYRONIE Mai Bá Tiến Dũng *, Dương Quang Huy * TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng trên nhóm bệnh nhân Peyronie Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu mô tả. Tất cả những bệnh nhân được chẩn đoán Peyronie đã ổn định trên 6 tháng và đồng ý phẫu thuật điều trị tại khoa Nam Học, bệnh viện Bình Dân, từ 01/2011 đến 31/7/2014. Kết quả: Có tất cả 19 bệnh nhân được khảo sát. Độ tuổi trung bình là 58,31 ± 8,50 với các bệnh lý đi kèm thường gặp là RLC (>50%), đái tháo đường (42,1%), rối loạn mỡ máu (36,8%) và tăng huyết áp (26,3%). Bệnh nhân thường than phiền như khó khăn trong việc đưa dương vật vào quan hệ (50%), đau khi cương (47,4%), đau khi quan hệ (38,9%) và làm đau bạn tình (33,3%). Bệnh gây ảnh hưởng tâm lý ít nhiều đến người bệnh (52,6%) và tạo tâm lý e ngại né tránh quan hệ ở bạn tình (16,7%). Kết luận: Peyronie gây ảnh hưởng trực tiếp lên hoạt động tình dục và tâm lý của người bệnh cũng như của bạn tình. Từ khóa: cong dương vật mắc phải, xơ hóa thể hang. ABSTRACT SURVEY OF PEYRONIE’S CHARACTERISTICS Mai Ba Tien Dung, Duong Quang Huy * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 4 - 2015: 226 - 231 Objective: Surveys of clinical and paraclinical characteristics in Peyronie’s disease Patients and Methods: A descriptive prospective study. All patients had been diagnosed with Peyronie’s disease stable over 6 months and agree surgical treatment at the Andrology Department, Binh Dan Hospital, from January 1st 2011 to July 31st 2014. Results: There are 19 patients were examined. The average age 58.31 ± 8.50 with the common comorbidity was ED (> 50%), diabetes mellitus (42.1%), dyslipidemia (36.8%) and hypertension (26.3%). Patients often complain of such difficulty in making love (50%), pain when erection (47.4%), pain during sex (38.9%) and hurting their partners (33.3 %). The disease affects on his psychology (52.6%) and refusing sex from their partners (16.7%). Conclusion: Peyronie direct influence on sexual activity and the psychology of the patient and his partner. Keywords: Acquired penile curvature (APC), Peyronie’s disease. MỞ ĐẦU Bệnh Peyronie được mô tả lần đầu tiên bởi tác giả François Gigot de la Peyronie(1) vào năm 1743. Theo các tác giả Mulhall JP(10), Kumar B(7) và Sommer F(16) thì tần suất bệnh Peyronie được ghi nhận là từ 0,4-9%. Tuy nhiên, nguyên nhân chính xác của tình trạng này vẫn chưa rõ ràng. Bệnh được đặc trưng bởi sự hình thành các mô sẹo cứng và có thể sờ thấy được trên bao trắng thể hang của dương vật, dẫn đến tình trạng cong và đau của dương vật khi cương cứng. Nhóm bệnh này thường xuất hiện ở đàn ông từ 40 đến 70 tuổi (Gelbard(4) và Lindsay(8)) và tác động tâm lý của nó là rất nghiêm trọng. Bệnh gây đau đớn về thể chất cũng như cảm xúc cho cả bệnh nhân lẫn bạn tình và hậu quả là họ sẽ né tránh trong quan hệ tình dục. Tại Việt Nam hiện vẫn chưa có các báo cáo * Khoa Nam học, Bệnh viện Bình Dân Tp.HCM Tác giả liên lạc: BS. Dương Quang Huy ĐT: 0908003685 Email: moiden857@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học 227 đầy đủ về đặc điểm ghi nhận được trên nhóm bệnh nhân này. Do đó chúng tôi quyết định tiến hành khảo sát các đặc điểm của nhóm bệnh nhân này. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Tiền cứu mô tả. Phương pháp thu thập số liệu: phỏng vấn trực tiếp trên bản câu hỏi soạn sẵn. Đối tượng nghiên cứu Bệnh nhân được chẩn đoán Peyronie từ 01/2011 đã ổn định trên 6 tháng và đồng ý phẫu thuật điều trị tại khoa Nam Học bệnh viện Bình Dân. Các bước tiến hành Bệnh nhân được chẩn đoán Peyronie có đủ xét nghiệm (siêu âm, sinh hóa máu, ECG) từ phòng khám và có chỉ định phẫu thuật sẽ được xem xét theo tiêu chuẩn chọn bệnh. Tại phòng hội chẩn duyệt mổ, bệnh nhân sẽ được: - Khai thác bệnh sử: lý do khám bệnh, thời điểm phát hiện và các ảnh hưởng do CDV gây ra cho bệnh nhân và bạn tình, tiền căn có chấn thương vùng dương vật và các yếu tố nguy cơ (Cao huyết áp, đái tháo đường, rối loạn mỡ máu, nghiện rượu hay bệnh tim thiếu máu cục bộ). Tần suất quan hệ hàng tháng hiện tại. - Khám lâm sàng: + Đo chiều dài dương vật + Đánh giá độ cong và xoay của dương vật bằng cách chụp hình lại + Ghi nhận vị trí mảng xơ + Đánh giá khả năng cương theo thang đo EHS và thang điểm IIEF-5 + Ghi nhận kết quả cận lâm sàng: chú ý số lượng và kích thước mảng xơ đo trên siêu âm. KẾT QUẢ Trong thời gian từ tháng 01/2011 đến hết tháng 07/2014, có tất cả 19 bệnh nhân được điều trị Peyronie tại khoa Nam Học bệnh viện Bình Dân. Chúng tôi tiến hành thu thập số liệu và ghi nhận kết quả như sau: Biểu đồ 1. Lý do chính đến khám và điều trị Tuổi trung bình của 19 bệnh nhân là 58,31 ± 8,50 (48-72 tuổi). Phần lớn (17/19) các bệnh nhân đang chung sống với vợ. Trong nhóm này có 1 trường hợp có quan hệ bên ngoài và đang mong con vì con trai lớn mất do tai nạn giao thông trong khi vợ đã mãn kinh và không thể mang thai. Có 1 bệnh nhân mặc dù chung sống với vợ nhưng đã ngừng quan hệ trên 6 năm. Còn lại 2 trường hợp độc thân đều có bạn tình quan hệ thường xuyên. Bên cạnh than phiền chính và cũng là lý do thúc đẩy bệnh nhân đến khám và xin phẫu thuật điều trị, có nhiều trường hợp có 2 đến 3 than phiền do Peyronie gây ra. Chúng tôi đi sâu vào các hoạt động tình dục và ghi nhận các than phiền khác như sau: Biểu đồ 2: Các than phiền khi cương dương vật Trong 10 trường hợp có ảnh hưởng đến tâm lý chúng tôi ghi nhận: Lo sợ ung thư (4/10), mất tự tin khi quan hệ (3/10) và bị nghi ngờ mắc bệnh xã hội (3/10). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 228 Biểu đồ 3. Các than phiền của bệnh nhân khi quan hệ. Về phía vợ và bạn tình, chúng tôi ghi nhận gián tiếp các than phiền như sau: Phần lớn (10/18) bạn tình không có than phiền gì đặc biệt. Các than phiền nếu có của bạn tình chủ yếu là đau khi giao hợp (6/18) và né tránh không muốn giao hợp (3/18) do lo ngại mắc bệnh lây lan qua đường tình dục. Về tiền căn, chiếm nhiều nhất là đái tháo đường (8/19), kế đến là rối loạn mỡ máu (7/19) và tăng huyết áp (5/19). Trong nhóm có chấn thương dương vật thì 2 trường hợp có phẫu thuật trong quá khứ với chẩn đoán là gãy dương vật, 1 trường hợp gãy không đồng ý phẫu thuật và 1 trường hợp có thói quen tự bẻ dương vật cho đến khi nghe âm thanh “cóc” với suy nghĩ sẽ kéo dài thời gian quan hệ. Chúng tôi không nghi nhận các trường hợp co rút Dupuytren. Hầu hết bệnh nhân (15/19) tự sờ thấy nốt xơ ở dương vật với thời gian trung bình từ lúc phát hiện đến lúc phẫu thuật là 13,85 ± 8,34 tháng (ngắn nhất là 6 tháng và lâu nhất là 36 tháng). Thời gian từ lúc xảy ra CDV đến khi đồng ý tiến hành phẫu thuật trung bình là 11,15 ± 4,18 tháng (ngắn nhất là 6 tháng và lâu nhất là 24 tháng). Hầu hết bệnh nhân (18/19) vẫn có hoạt động tình dục đều đặn với tần suất quan hệ của bệnh nhân trung bình là 4,28 ± 2,24 (1-9) lần mỗi tháng. Một bệnh nhân duy nhất không có quan hệ tình dục trên 6 năm xin điều trị vì lý do cương đau mỗi sáng. Chiều dài dương vật khi cương trung bình là 11,21 ± 2,09 cm (9-16cm). Vị trí mảng xơ trên thân dương vật ghi nhận chủ yếu ở 1/3 giữa (9/19) và 1/3 sau (9/19). Còn theo chu vi thì mảng xơ phân bố với tỉ lệ như sau: cạnh trái (8/19), cạnh phải (1/19), mặt lưng (6/19) và mặt bụng (4/19). A B Biểu đồ 4. Phân loại độ cương trước mổ theo thang đo EHS (A) và IIEF-5 (B) Trong 19 trường hợp Peyronie, siêu âm phát hiện mảng xơ được 13 trường hợp, chiếm tỉ lệ 68,42%. Trong 13 trường hợp này thì có 6 trường hợp siêu âm ghi nhận có nhiều hơn một mảng xơ, còn lại 7 trường hợp thì chỉ phát hiện duy nhất một mảng xơ phù hợp với khám lâm sàng. Diện tích mảng xơ lớn nhất đo được trên siêu âm có kích thước trung bình là 72,59 ± 75.78 mm2. Diện tích mảng xơ nhỏ nhất phát hiện được trên siêu âm là 15,51mm2 và lớn nhất được ghi nhận là 207mm2. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học 229 Đa số các trường hợp (13/19) là cong về một hướng đơn thuần chiếm 68,4%, trong khi chỉ có 6/19 trường hợp là cong phức tạp (31,6%). Không có trường hợp nào có biến dạng dương vật kiểu thắt eo, hình chai hay hình chữ “S”. A B Biểu đồ 5. Phân bố hướng cong (A) và độ cong (B) của dương vật Có 1 trường hợp miệng niệu đạo xoay trái 15 độ và 1 trường hợp miệng niệu đạo xoay phải 60 độ. BÀN LUẬN Tuổi trung bình của 19 bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi là 58,31 ± 8,50 (48-72 tuổi). Mặc dù không còn ở độ tuổi hoạt động tình dục mạnh mẻ nhưng hầu hết bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu (18/19) vẫn còn hoạt động tình dục đều đặn. Các báo cáo khác trên thế giới cũng có cùng độ tuổi trung bình tương đương với nghiên cứu của chúng tôi. Theo tác giả Raanan Tal(14) (2012) còn cho thấy nhóm bệnh lý này có thể xuất hiện ở lứa tuổi vị thành niên với tần suất khoảng 2,5% và đôi khi bị chẩn đoán lầm với nhóm CDV bẩm sinh. Bảng 1. So sánh ảnh hưởng trong quan hệ tình dục của CDV bẩm sinh và Peyronie. Yếu tố ảnh hưởng CDV bẩm sinh V. H. Tâm (18) - 2010 Peyronie Chúng tôi - 2014 Đau khi quan hệ - 38,9% Quan hệ khó khăn 63% 50% Không thể quan hệ 14,8% 0% Bạn tình đau 40,7% 33,3% Mặc dù, các yếu tố ảnh hưởng trên đời sống tình dục của CDV gần giống nhau giữa 2 nhóm, tuy nhiên ta có thể nhận thấy tần suất của mỗi nhóm yếu tố ở Peyronie có phần thấp hơn nhóm bẩm sinh. Lý giải cho vấn đề nêu trên, tác giả D. Yachia(19) cho rằng bệnh nhân Peyronie có một cuộc sống tình dục được thành lập với các đối tác ổn định và không cần thiết phải thay đổi. Ngay cả bệnh nhân với độ cong 45 độ vẫn có thể tiếp tục thỏa mãn yêu cầu đời sống tình dục nếu họ không xuất hiện rối loạn chức năng cương đi kèm. Thêm vào đó việc biến dạng của dương vật diễn tiến từ từ theo thời gian nên được bạn tình dễ dàng thông cảm và chấp nhận. Bảng 2. So sánh các yếu tố nguy cơ của Peyronie. Tác giả Năm N Tăng huyết áp Đái tháo đường Rối loạn mỡ máu Co rút Dupuytren Oktar (11) 2003 484 16,7% 28,3% 35,1% - Usta (17) 2004 469 27,3% 17,2% 18,3% 17,2% Shiraishi (15) 2012 12 58% 30% 30% - Lopes (16) 2013 117 48,7% 35,9% 53,8% - Chúng tôi 2014 19 26,3% 42,1% 36,84% 0% Chúng tôi nhận thấy các yếu tố nguy cơ hay bệnh lý đi kèm thường gặp với tần suất không giống nhau giữa các nghiên cứu. Lý giải cho điều này là do bệnh lý tăng huyết áp, đái tháo đường và rối loạn mỡ máu có đặc điểm liên Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 230 quan đến chủng tộc, thói quen sinh hoạt nên tần suất có thể khác nhau giữa các nghiên cứu. Một trong các nguyên nhân gây Peyronie đã được thừa nhận và có thể khảo sát trong tiền căn là chấn thương dương vật thì chúng tôi ghi nhận được 3 trường hợp (15,79%). Tần suất này trong nghiên cứu của Usta(17) là 13,2%, của Perimenis(13) là 13,4% và của Carrieri(2) là 21,6%. Điều đáng chú ý ở đây là trong 3 trường hợp của chúng tôi có 2 trường hợp gãy dương vật có can thiệp phẫu thuật nhưng diễn tiến bệnh sau đó vẫn làm CDV cho thấy phẫu thuật điều trị gãy dương vật chỉ giúp giảm biến chứng cong chứ không ngăn ngừa tình trạng CDV. Đồng quan điểm này có các tác giả Yamaçake(20) (2013) và El-Housseiny(3) (2010) khi khảo sát kết quả lâu dài trên nhóm bệnh nhân gãy dương vật đã điều trị phẫu thuật với tần suất xuất hiện CDV lần lượt là 11,4% và 3,2%. Bảng 4. So sánh hướng cong trong nhóm bẩm sinh và mắc phải. Nghiên cứu Tác giả CDV bẩm sinh Peyronie Hsieh JT (5) 2007 V.H.Tâm 2010 Ivo Lopes 2013 Chúng tôi 2014 N 114 36 117 19 Cong lên 2,6% 0% 43,6% 15,79% Cong xuống 60,5% 27,8% 1,6% 31,58% Cong trái 23,7% 41,7% 27,4% 21,05% Cong phải 3,5% 5,6% 0% Cong phức tạp 9,7% 25% 27,4% 31,58% Từ bảng trên có thể nhận thấy hướng cong lên trên trong nhóm CDV bẩm sinh ít gặp hơn và được lý giải là do không ảnh hưởng đến tư thế khi quan hệ nên các bệnh nhân ít có yêu cầu chỉnh thẳng dương vật. Trái lại, ở nhóm Peyronie chúng tôi lại gặp nhiều hướng cong lên trên và vị trí mảng xơ ở mặt lưng cũng nhiều. Điều này có thể lý giải do các vi chấn thương hình thành trong nhóm Peyronie đến từ tư thế giao hợp truyền thống khi mặt lưng dương vật có sự ma sát nhiều với mặt dưới xương vệ của đối tác. Bên cạnh đó, tình trạng cong phức tạp lại gặp nhiều ở nhóm Peyronie. Điều này được cho là hậu quả của mảng xơ gây co kéo, hướng co kéo và trên dương vật có thể có nhiều mảng xơ xuất hiện cùng lúc ở nhiều vị trí khác nhau tạo ra các góc co kéo khác nhau. Biểu đồ 6. Chiều dài dương vật của nghiên cứu này với nhóm CDV bẩm sinh và trên nam giới trưởng thành đều được tiến hành tại Việt Nam. Biểu đồ trên chúng tôi so sánh chiều dài dương vật của nghiên cứu này với nhóm CDV bẩm sinh và trên nam giới trưởng thành đều được tiến hành tại Việt Nam. Khác với CDV bẩm sinh có chiều dài dương vật khi cương 12,69 ± 0,69 cm có phần trội hơn so với dân số bình thường là 11,2 ± 1,7 cm, đối với nhóm Peyronie chúng tôi nhận thấy chiều dài dương vật khi cương là 11,21 ± 2,08 cm tương đương với dân số Việt Nam trưởng thành. Điều này là một bất lợi cho nhóm bệnh lý Peyronie khi tiến hành phẫu thuật vì khả năng làm ngắn dương vật hơn so với dân số bình thường. Phân tích tần suất RLC theo EHS và theo IIEF-5 trên nhóm nghiên cứu có độ tuổi trung bình là 58,31 ± 8,50 chúng tôi ghi nhận kết quả lần lượt là 57,89% và 50%. Tần suất này tương đương với hiệp hội niệu khoa Châu Âu đưa ra vào năm 2012 là > 50%. Tuy nhiên theo một số tác giả như Kadioglu(6) (2004) thì tần suất RLC trên nhóm bệnh nhân Peyronie có biến dạng dương vật là 31,5% và theo Palese M(12) (2004) thì tần suất này là 30% nếu tính theo thang điểm IIEF. Kết quả của chúng tôi có phần cao hơn nhưng có thể giải thích như đã trình bày ở phần bàn luận về độ tuổi. Các nghiên cứu trên thực hiện ở quy mô cộng đồng lớn và phát hiện nhiều bệnh nhân Peyronie có khoảng tuổi thấp hơn của chúng tôi, thậm chí là ở lứa tuổi vị thành Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 4 * 2015 Nghiên cứu Y học 231 niên nên khi tính kết quả chung của RLC đi kèm sẽ thấy giảm tần suất hơn so với lứa tuổi trung niên. Chúng tôi không so sánh với tần suất RLC theo từng nhóm tuổi do ở nhóm nghiên cứu có bệnh lý CDV đi kèm và các yếu tố nguy cơ của bệnh lý như cao huyết áp, đái tháo đường và rối loạn mỡ máu cũng chính là các yếu tố có thể ảnh hưởng đến RLC trên những bệnh nhân này. KẾT LUẬN Peyronie là một bệnh lý lành tính hiếm gặp xuất hiện ở độ tuổi trung niên và gây ảnh hưởng trực tiếp lên hoạt động tình dục và tâm lý của người bệnh cũng như ảnh hưởng gián tiếp đến bạn tình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Akkus E (2007), Historical review of Peyronie's disease, Peyronie's Disease: A Guide to Clinical Management; Humana Press Inc, Totowa, New Jersey; pp.1-8 2. Carrieri MP, Serraino D, Palmiotto F, Nucci G, Sasso F (1998), A case-control study on risk factors for Pey-ronie’s disease, The Journal of Clinical Epidemiology; 51, pp.511–515. 3. El-Housseiny II, Hossam ST, Mohsen T, Ihab AH, and El- Assmy A (2010), Penile Fracture: Long-term outcome of immediate surgical intervention, Urology; 75, Elsevier Inc, pp.108 –111. 4. Gelbard MK, Dorey F, James K (1990), The natural history of Peyronie's disease, The Journal of Urology; 144 (6), pp.1376- 1379. 5. Hsieh JT, Liu SP (2007), Correction of congenital penile curvature using modified tunical plication with absorbable sutures: the long-term outcome and patient satisfaction, European Urology; 52 (1), pp.261-266 6. Kadioglu A, Oktar T, Kandirali E, Kendirci M, Sanli O, Ozsoy C (2004), Incidentally diagnosed Peyronie’s disease in men presenting with erectile dysfunction, International Journal of Impotence Research; 16, pp.540–543 7. Kumar B, Narang T, Gupta S (2006), A clinico-aetiological and ultrasonographic study of Peyronie’s disease, Sex Health; 3 (2), pp.113-118. 8. Lindsay MB, Schain DM, Grambsch P, Benson RC, Beard CM, Kurland LT (1991), The incidence of Peyronie's disease in Rochester, Minnesota, 1950 through 1984, The Journal of Urology; 146 (4), pp.1007-1009. 9. Lopes I, Tomada N, Vendeira (2013). Penile corporoplasty with Yachia’s technique for Peyronie’s disease: Single center experience with 117 patients, Urology Annals; 5 (3), pp.167- 171. 10. Mulhall JP, Creech SD, Boorjian SA, Ghaly S, Kim ED, Moty A (2004), Subjective and objective analysis of the prevalence of Peyronie's disease in a population of men presenting for prostate cancer screening, The Journal of Urology; 171 (6 Pt 1), pp.2350-2353. 11. Oktar T, Kendirci M, Sanli O, Kadioglu A (2003), The impact of risk factors on the severity of penile deformity in 484 Peyronie’s patients, The Journal of Urology; 169 (4), suppl, pp.274. 12. Palese M, Guhring P, Mulhall JP (2006) Erectile function profiles in men with Peyronie's disease, The Journal of Urology; 175 (5), pp.1807-1811. 13. Perimenis P, Athanasopoulos A, Gyftopoulos K, Katsenis G, Barbalias G (2002), Peyronie’s disease: epidemiology and clinical presentation of 134 cases. International Journal of Urology and Nephrology; 32, pp.691–694. 14. Raanan T, Matthew S. Hall, Byron Alex, Judy Choi và Mulhall JP (2012), Peyronie’s Disease in teenagers. The journal of Sexual Medicine; 9 (1), pp.302-308 15. Shiraishi K, Shimabukuro T, Matsuyama H (2012), The prevalence of Peyronie's disease in Japan: a study in men undergoing maintenance hemodialysis and routine health checks. The journal of Sexual Medicine, 9 (10), pp.2716-2723. 16. Sommer F, Schwarzer U, Wassmer G (2002), Epidemiology of Peyronie’s disease. International Journal of Impotence Research; 14 (5), pp.379-383. 17. Usta MF, Bivalacqua TJ, Jabren GW, Myers L, Sanabria J, Sikka SC (2004), Relationship between the severity of penile curvature and the presence of comorbidities in men with Peyronie's disease, The Journal of Urology; 171 (2 Pt 1), pp.775- 779. 18. Võ Hoàng Tâm (2010), Điều trị CDV bẩm sinh bằng kỹ thuật khâu gấp bao trắng, Luận văn Thạc sĩ y học, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. 19. Yachia D (2007), Acquired penile curvatures: Peyronie’s disease, Text atlas of penile surgery; pp.113 – 124 20. Yamaçake KGR, Tavares A, Padovani GP, Guglielmetti GB, Cury J, Srougi M (2003), Long-term treatment outcomes between surgical correction and conservative management for penile fracture: Retrospective analysis, Korean Journal of Urology; 54, pp.472-476 Ngày nhận bài báo: 10/05/2015 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 01/06/2015 Ngày bài báo được đăng: 05/08/2015

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_cac_dac_diem_cua_benh_nhan_peyronie.pdf
Tài liệu liên quan