Khảo sát các yếu tố liên quan đến kiến thức về bệnh ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Hậu Giang

Các yếu tố liên quan với kiến thức về bệnh ĐTĐ type 2 Có sự liên quan giữa điểm trả lời câu hỏi và trình độ học vấn của BN (p < 0,001). Kết quả này tương tự với nhiều NC khác về kiến thức về bệnh của BN mắc ĐTĐ, như Garcia (2001), Bukhsh (2017), Menino (2017)(6,9,11). Những NC này đều cho thấy trình độ học vấn của BN càng cao thì điểm kiến thức càng tốt. Nếu kiến thức về bệnh tốt thì có thể giúp BN tuân thủ dùng thuốc cũng như ăn uống/vận động tốt hơn, từ đó giúp cải thiện kết cục lâm sàng(13). Kết quả này gợi ý, trong thực hành lâm sàng cần cân nhắc cung cấp các thông tin về bệnh nhằm nâng cao kiến thức cho BN mắc ĐTĐ type 2, đặc biệt là nhóm BN có trình độ học vấn thấp. Trong NC của chúng tôi, có sự khác biệt về điểm số giữa 2 giới, BN nam có điểm kiến thức cao hơn BN nữ (p = 0,008) (Bảng 1). Kết quả này có sự khác biệt với NC của Bukhsh (2017) (điểm số của 2 nhóm BN không khác biệt có ý nghĩa thống kê, p = 0,11)(11), có thể do sự khác biệt về dân số khảo sát giữa các NC. Đồng thời, kết quả này có thể bị ảnh hưởng bởi trình độ học vấn giữa nhóm BN nam và nữ. Nhìn chung, BN nam trong NC của chúng tôi có trình độ học vấn cao hơn so với BN nữ. Cụ thể là có 66,7% (28/42) BN nam có trình độ học vấn từ THCS trở lên so với 46,7% (21/45) ở BN nữ. Trong khi đó, trình độ học vấn của BN (trong NC của chúng tôi) lại có mối liên quan với điểm kiến thức. Vì vậy, sự khác biệt của điểm số theo giới tính thể bị ảnh hưởng bởi trình độ học vấn. Điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu NC sử dụng bộ câu hỏi về kiến thức bệnh đái tháo đường (DKQ), đã được chúng tôi tiến hành dịch thuật và điều chỉnh sang tiếng Việt, với từ ngữ đơn giản, dễ hiểu và phù hợp với bệnh nhân Việt Nam. NC của chúng tôi đã phần nào tìm hiểu được kiến thức về bệnh ĐTĐ của BN ĐTĐ type 2 và các yếu tố liên quan. Tuy nhiên, NC cũng có mặt hạn chế, chẳng hạn như chưa đánh giá được mối liên quan giữa kiến thức và hiệu quả điều trị của BN (ví dụ: HbA1c mục tiêu, do rất ít BN được chỉ định xét nghiệm này). NC chỉ khảo sát kiến thức về bệnh ĐTĐ của BN tại một cơ sở y tế nên không thể ngoại suy cho tất cả BN ĐTĐ type 2 tại Việt Nam.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát các yếu tố liên quan đến kiến thức về bệnh ở bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Hậu Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 Nghiên cứu B - Khoa học Dược 137 KHẢO SÁT CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC VỀ BỆNH Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH HẬU GIANG Trần Thị Thanh Tâm*, Nguyễn Thắng**, Nguyễn Hương Thảo* TÓM TẮT Mở đầu: Khảo sát kiến thức về bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) là bước đầu tiên quan trọng để đo lường hiệu quả và tối ưu các chương trình giáo dục bệnh nhân (BN) ĐTĐ type 2. Mục tiêu: Khảo sát kiến thức về bệnh và một số yếu tố liên quan đến kiến thức về bệnh ở BN ĐTĐ type 2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên BN ĐTĐ type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang từ 02/01/2020 đến 29/02/2020. Đặc điểm BN và thông tin điều trị được thu thập từ sổ khám bệnh. Kiến thức về bệnh ĐTĐ được đo lường bằng bộ câu hỏi Diabetes Knowledge Questionnaire (DKQ). Hồi quy tuyến tính đa biến được sử dụng để xác định các yếu tố liên quan với kiến thức về bệnh của BN. Kết quả: Có 87 BN tham gia nghiên cứu (tuổi trung bình 66,87±9,93). Điểm trung bình kiến thức về bệnh ĐTĐ là 12,99±5,62. BN có trình độ học vấn THPT trở lên có kiến thức về bệnh tốt hơn (B = 6,695; 95% CI: 5,877 – 7,514; p < 0,001) so với BN có trình độ học vấn thấp hơn. Chúng tôi chưa ghi nhận được mối liên quan giữa giới tính, việc mắc các bệnh mắc kèm hay thời gian mắc bệnh ĐTĐ, việc có hay không sử dụng insulin với kiến thức về bệnh của BN. Kết luận: Điểm trung bình kiến thức về bệnh ĐTĐ của BN ĐTĐ type 2 còn khá thấp. Trình độ học vấn có vai trò quan trọng đối với kiến thức về bệnh của bệnh nhân. Từ khóa: kiến thức về bệnh, đái tháo đường, DKQ ABSTRACT AN INVESTIGATION OF THE DIABETES KNOWLEDGE AND ITS RELATED FACTORS IN OUTPATIENTS WITH TYPE 2 DIABETES AT HAU GIANG GENERAL HOSPITAL Tran Thi Thanh Tam, Nguyen Thang, Nguyen Huong Thao * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 3 - 2020: 137 - 143 Background: Investigating knowledge about diabetes is an important step to evaluate and optimize education programs for type 2 diabetes patients. Objectives: To investigate knowledge about diabetes and its related factors in outpatients with type 2 diabetes. Methods: A cross-sectional study on outpatients with type 2 diabetes was conducted from January 2nd to February 29th, 2020, at Hau Giang General Hospital. Patients’ sociodemographic characteristics and indicated medications were obtained from outpatients’ medical records. Data on diabetes knowledge was evaluated using the Diabetes Knowledge Questionnaire (DKQ). Multiple linear regression was used to identify factors associated with knowledge about diabetes. Results: There were 87 patients included in the study. The mean age of the patients was 66.87±9.93. The *Khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh **Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược Thành phố Cần Thơ Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Hương Thảo ĐT: 0918177254 Email: thao.nh@ump.edu.vn Nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 B - Khoa học Dược 138 average score of the patients’ diabetes knowledge was 12.99±5.62. Education level was positively associated with diabetes knowledge (B = 6.695; 95% CI: 5.877 – 7.514; p < 0.001). We have not found any relationships between patient’s diabetes knowledge and other factors (gender, co-morbidity, duration of diabetes or insulin usage). Conclusions: The average score of knowledge about diabetes of patients with type 2 diabetes was quite low. Education level played a significant role in patient’s knowledge about diabetes. Key words: knowledge about diabetes, diabetes, DKQ ĐẶT VẤN ĐỀ Đái tháo đường (ĐTĐ) là một trong những bệnh mạn tính không lây nhiễm phổ biến nhất trên toàn thế giới(1). Theo Hiệp hội đái tháo đường Thế giới (IDF), năm 2015 toàn thế giới có 415 triệu người chung sống với bệnh ĐTĐ, dự kiến đến năm 2040 con số này sẽ là 642 triệu(2). Trong đó, Việt Nam với 3,53 triệu bệnh nhân (BN) trong độ tuổi từ 20-79 mắc đái tháo đường và ước tính sẽ tăng lên đến 6,3 triệu người mắc bệnh vào năm 2045(3). ĐTĐ là nguyên nhân gây tử vong cao thứ ba tại Việt Nam (sau xơ vữa động mạch và ung thư), chỉ tính riêng trong năm 2017 cả nước có gần 29.000 người trưởng thành tử vong do các nguyên nhân liên quan đến ĐTĐ(4). Bệnh ĐTĐ nếu không được quản lý và kiểm soát tốt sẽ dẫn đến xuất hiện các biến chứng và các nguy cơ tiềm ẩn trên nhiều hệ thống và cơ quan trong cơ thể(5). Kiểm soát đường huyết vẫn là một trọng tâm chính của việc điều trị BN ĐTĐ type 2. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bên cạnh việc kê đơn thuốc hợp lý, thì kiến thức về bệnh ĐTĐ của BN, tuân thủ dùng thuốc, chế độ ăn uống và luyện tập của BN đều đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được hiệu quả điều trị ĐTĐ type 2. Vì thế, việc đánh giá kiến thức về bệnh ĐTĐ là bước đầu tiên quan trọng để đo lường hiệu quả và tối ưu hóa các chương trình giáo dục BN(6). Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu (NC) với mục tiêu khảo sát kiến thức và các yếu tố liên quan đến kiến thức về bệnh ở BN ĐTĐ type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Cắt ngang mô tả. Chúng tôi chọn các BN (≥ 18 tuổi) đến khám tại phòng khám nội của khoa Khám bệnh - Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang trong khoảng thời gian từ 02/01/2020 đến 29/02/2020 có chẩn đoán ĐTĐ type 2 điều trị ngoại trú với ít nhất một thuốc ĐTĐ đường uống từ ít nhất 6 tháng trước. Chúng tôi loại trừ các BN có ít nhất một trong các tiêu chí sau: phụ nữ có thai, không sử dụng tiếng Việt (BN là người nước ngoài), không đồng ý tham gia NC, không sử dụng điện thoại. Cỡ mẫu Chúng tôi muốn ước tính điểm trung bình kiến thức về bệnh ĐTĐ theo bộ câu hỏi DKQ ở người Việt Nam, và chấp nhận sai số trong vòng 2 điểm (d=2) với khoảng tin cậy 0,95 (tức α = 0,05) và power = 0,80 (hay β = 0,20). Trong NC của Hu (2012), độ lệch chuẩn của điểm trung bình của bộ câu hỏi DKQ là 5,86 điểm(7). Như vậy, hệ số ảnh hưởng là: ES = d/s = 0,34 và hằng số C = 7,85. Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cần thiết cho NC: n = C/(ES)2 = 68 BN. Như vậy, cỡ mẫu tối thiểu là 68 BN. Phương pháp tiến hành Các thông tin về đặc điểm BN bao gồm tuổi, giới tính, trình độ học vấn, thời gian mắc bệnh (tính từ lúc phát hiện bệnh đến thời điểm khảo sát) được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp BN tại bệnh viện. Các thông tin về bệnh mạn tính mắc kèm và các thuốc ĐTĐ BN đang sử dụng được ghi nhận từ sổ khám bệnh/đơn thuốc. Kiến thức về bệnh ĐTĐ của BN được đo lường bằng bộ câu hỏi Diabetes Knowledge Questionnaire (DKQ)(6), gồm 24 câu hỏi. Với mỗi câu hỏi, BN có 3 lựa chọn: Đúng, Sai hoặc Không biết. Mỗi câu trả lời chính xác sẽ được tính 1 điểm và không có điểm nào cho lựa chọn không chính xác hoặc Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 Nghiên cứu B - Khoa học Dược 139 không biết. Kiến thức về bệnh ĐTĐ của BN được đánh giá qua tổng điểm của tất cả các câu trả lời chính xác. Điểm cao hơn cho biết BN có kiến thức về bệnh ĐTĐ tốt hơn. Bộ câu hỏi DKQ chưa được dịch và thẩm định trong điều kiện NC tại Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi đã xin phép tác giả bộ câu hỏi DKQ (Garcia và cộng sự) tiến hành chuyển ngữ và đánh giá bộ câu hỏi DKQ (trước khi phỏng vấn bệnh nhân). Quá trình chuyển ngữ bao gồm các bước sau: dịch thuận, tổng hợp và dịch ngược để tạo thành các bản dịch (lần lượt T1, T2, T12, BT1, BT2); các phiên bản dịch trên sẽ được hội đồng chuyên gia (gồm 8 thành viên: 5 dịch giả, 1 chuyên gia về phương pháp NC, 2 bác sĩ có chuyên môn về lĩnh vực NC) so sánh với phiên bản gốc để đạt được sự đồng thuận và tạo thành phiên bản tiếng Việt hoàn chỉnh. Xử lý số liệu Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20 và Excel 2013. Thống kê mô tả được sử dụng để xác định tần số, tỷ lệ % và trung bình ± độ lệch chuẩn. Việc so sánh giá trị trung bình của 2 nhóm độc lập với biến có phân phối không chuẩn được thực hiện bằng phép kiểm Mann - Whitney, so sánh giá trị trung bình của 3 nhóm trở lên với biến có phân phối không chuẩn bằng phép kiểm Kruskal - Wallis. Tính nhất quán được đánh giá qua hệ số Cronbach’s alpha, giá trị Cronbach’s alpha > 0,7 được cho là bộ câu hỏi có tính nhất quán tốt(8). Hồi quy tuyến tính đa biến được sử dụng để đánh giá mối liên quan giữa các yếu tố khảo sát với kiến thức về bệnh của BN. Giá trị p < 0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê. Y Đức Nghiên cứu đã được chấp thuận của hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và hội đồng khoa học Bệnh viện đa khoa tỉnh Hậu Giang. KẾT QUẢ Có 87 bệnh nhân tham gia NC. Các đặc điểm của BN về tuổi, giới tính, bệnh mắc kèm, thời gian mắc bệnh, trình độ học vấn, việc có hay không sử dụng insulin và điểm số trung bình DKQ được trình bày trong Bảng 1. Tuổi trung bình của mẫu NC là 66,87±9,93 tuổi, trong đó số BN trên 65 tuổi chiếm 62,1% mẫu NC. Nữ giới chiếm 51,7%. Số lượng BN có 1 bệnh mắc kèm chiếm tỷ lệ cao (65,5%). Hơn một nửa BN mắc bệnh ĐTĐ trên 10 năm (57,5%). Tỷ lệ BN được sử dụng insulin chiếm 33,3%. Trình độ học vấn chiếm tỷ lệ cao là tiểu học (43,7%). BN có trình độ học vấn THPT trở lên có kiến thức về bệnh tốt hơn so với BN có trình độ học vấn thấp hơn (p<0,001). Có sự khác biệt về điểm kiến thức giữa 2 giới, BN nam có điểm kiến thức cao hơn BN nữ (p=0,008) (Bảng 1). Bảng 1. Đặc điểm chung của bệnh nhân tham gia nghiên cứu và điểm số trung bình DKQ Đặc điểm Số BN (N=87) Tỷ lệ (%) Điểm trung bình DKQ P Tuổi Mean±SD* 66,87±9,93 Nhóm tuổi <65 33 37,9 14,12±5,92 0,105 ≥65 54 62,1 12,30±5,37 Giới tính Nam 42 48,3 14,55±6,03 0,008 Nữ 45 51,7 11,53±4,83 Bệnh mắc kèm 0 11 12,7 14,45±5,20 0,175 1 bệnh 57 65,5 13,39±6,14 ≥2 bệnh 19 21,8 10,95±3,52 Thời gian mắc bệnh <5 năm 13 14,9 11,85±6,07 0,552 5-10 năm 24 27,6 13,42±5,68 >10 năm 50 57,5 13,08±5,55 Trình độ học vấn Tiểu học 38 43,7 7,97±2,98 <0,001 Trung học cơ sở (THCS) 33 37,9 14,76±2,64 Trung học phổ thông (THPT) trở lên 16 18,4 21,25±0,93 Sử dụng insulin Có 29 33,3 14,03±6,15 0,255 Không 58 66,7 12,47±5,31 Chú thích: *Trung bình ± độ lệch chuẩn Kết quả trả lời bộ câu hỏi DKQ phiên bản tiếng Việt của BN được trình bày trong Bảng 2. Nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 B - Khoa học Dược 140 Bảng 2. Kết quả trả lời bộ câu hỏi DKQ (N = 87) Câu hỏi Nội dung Trả lời đúng Số BN Tỷ lệ (%) 1 Ăn quá nhiều đường và các loại thực phẩm ngọt là nguyên nhân của bệnh đái tháo đường 26 29,9 2 Nguyên nhân thường gặp của bệnh đái tháo đường là insulin hoạt động không hiệu quả trong cơ thể 43 49,4 3 Bệnh đái tháo đường là do khả năng giữ lại đường của thận bị giảm (làm cho đường vào nước tiểu) 13 14,9 4 Thận sản xuất ra insulin 16 18,4 5 Khi bệnh đái tháo đường không được điều trị, đường huyết thường tăng 53 60,9 6 Nếu ông/bà mắc bệnh đái tháo đường, các con của ông/bà có nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường cao so với bình thường. 58 66,7 7 Bệnh đái tháo đường có thể được chữa khỏi 19 21,8 8 Mức đường huyết đói bằng 210 mg/dl (= 11,55 mmol/L) là quá cao 54 62,1 9 Cách tốt nhất để kiểm tra bệnh đái tháo đường là xét nghiệm nước tiểu 57 65,5 10 Tập thể dục thường xuyên sẽ làm tăng nhu cầu về insulin hoặc các thuốc điều trị đái tháo đường 24 27,6 11 Bệnh đái tháo đường có 2 type chính: type 1 (phụ thuộc insulin) và type 2 (không phụ thuộc insulin) 77 88,5 12 Insulin được tiết ra sau khi ăn quá nhiều 9 10,3 13 Để kiểm soát bệnh đái tháo đường thì việc dùng thuốc quan trọng hơn chế độ ăn uống và luyện tập 46 52,9 14 Bệnh đái tháo đường thường dẫn đến tuần hoàn máu kém 53 60,9 15 Đối với các bệnh nhân bị đái tháo đường, các vết thương hay trầy xước lâu lành hơn 79 90,8 16 Bệnh nhân đái tháo đường nên cẩn thận hơn khi cắt móng tay chân 73 83,9 17 Người bị đái tháo đường nên rửa sạch vết thương bằng iốt và cồn 71 81,6 18 Cách ông/bà chế biến thức ăn cũng quan trọng như những thực phẩm ông/bà ăn 70 80,5 19 Bệnh đái tháo đường có thể làm hỏng thận của ông/bà 77 88,5 20 Bệnh đái tháo đường có thể gây mất cảm giác ở tay, ngón tay và bàn chân của ông/bà 70 80,5 21 Run và đổ mồ hôi là dấu hiệu của đường huyết cao 40 46,0 22 Đi tiểu thường xuyên và hay khát nước là dấu hiệu của đường huyết thấp 40 46,0 23 Vớ/tất áp lực không gây hại cho bệnh nhân đái tháo đường 13 14,9 24 Một chế độ ăn kiêng cho bệnh nhân đái tháo đường chủ yếu bao gồm các loại thực phẩm đặc biệt 49 56,3 Điểm trung bình cả bộ câu hỏi 12,99±5,62 Điểm trung bình kiến thức về bệnh ĐTĐ của các bệnh nhân trong NC là 12,99±5,62 điểm. Các câu có tỷ lệ % BN trả lời đúng cao nhất lần lượt là câu 11, 15 và 19 (tương ứng với tỷ lệ 88,5%, 90,8% và 88,5%). Các BN mất trung bình 9,43±1,79 phút để hoàn thành bộ câu hỏi (nhanh nhất là 5 phút và lâu nhất là 12 phút). Hệ số Cronbach’s alpha cho cả 24 câu hỏi là 0,898 (Bảng 3). Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính đa biến cho thấy có sự liên quan giữa điểm trả lời câu hỏi và trình độ học vấn của BN (p < 0,001) (Bảng 4). Bảng 3. Giá trị Cronbach’s alpha của bộ câu hỏi (N = 87) Câu hỏi Hệ số Cronbach’s alpha nếu loại bỏ câu hỏi Câu hỏi Hệ số Cronbach’s alpha nếu loại bỏ câu hỏi 1 0,895 13 0,896 2 0,889 14 0,888 3 0,892 15 0,897 4 0,893 16 0,896 5 0,894 17 0,897 6 0,896 18 0,895 7 0,894 19 0,896 8 0,893 20 0,893 9 0,891 21 0,887 10 0,891 22 0,887 11 0,896 23 0,897 12 0,896 24 0,897 Hệ số Cronbach’s alpha của cả bộ câu hỏi 0,898 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 Nghiên cứu B - Khoa học Dược 141 Bảng 4. Kết quả phân tích hồi quy tuyến tính đa biến về mối liên quan giữa các yếu tố khảo sát và kết quả trả lời bộ câu hỏi DKQ (N = 87) Đặc điểm B 95% CI P Nhóm tuổi 0,722 -0,568 – 2,012 0,269 Giới tính 0,527 -0,674 – 1,729 0,385 Bệnh mắc kèm 0,285 -0,752 – 1,321 0,586 Thời gian mắc bệnh 0,014 -0,770 – 0,799 0,971 Trình độ học vấn 6,695 5,877 – 7,514 <0,001 Sử dụng insulin 0,602 -0,615 – 1,819 0,328 BÀN LUẬN Đặc điểm của các bệnh nhân tham gia nghiên cứu Trong NC này, tuổi trung bình của mẫu NC là 66,87±9,93 tuổi, đặc điểm này tương đồng với kết quả NC của Menino (2017) (68,0±9,7)(9). Tỷ lệ BN nam và nữ gần như tương đương nhau (48,3% vs. 51,7%). Số lượng BN có 1 bệnh mắc kèm chiếm tỷ lệ cao (65,5%), có thể là do đa phần BN trong NC là người cao tuổi (BN có tuổi từ 65 trở lên chiếm 62,1%). Tuổi cao là yếu tố nguy cơ của nhiều bệnh, ví dụ BN từ 45 tuổi trở lên là có nguy cơ mắc ĐTĐ type 2(10). Thời gian mắc bệnh ĐTĐ trên 10 năm chiếm tỷ lệ cao (57,5%). Tỷ lệ BN được chỉ định sử dụng insulin chiếm 33,3%. Kết quả này tương đồng với NC của Garcia (2001)(6). Kiến thức của BN về bệnh ĐTĐ type 2 Trong NC của chúng tôi, về điểm tổng của cả bộ câu hỏi, trung bình các bệnh nhân trong NC của chúng tôi đạt 12,99±5,62 điểm, kết quả này tương đồng với NC của Hu (2012) (12,71±5,86 điểm)(7). Có thể do có sự tương đồng về trình độ học vấn giữa NC của chúng tôi với NC của Hu (2012) – trình độ tiểu học chiếm tỷ lệ khá cao (43,7% vs. 36,1%)(7). Điểm trung bình bộ câu hỏi trong NC của chúng tôi lại thấp hơn trong NC của Garcia (2001) (13,66±3,82 điểm)(6). Có thể giải thích điều này bởi 2 nguyên nhân. Thứ nhất, NC của Garcia (2001) tiến hành trên nhóm BN đang tham gia chương trình giáo dục bệnh ĐTĐ của quận Starr, nội dung chương trình này có giáo dục BN những kiến thức về bệnh, như chế độ ăn uống, tự theo dõi glucose huyết, hoạt động thể chất và tuân thủ dùng thuốc(6). Thứ hai, BN trong NC của Garcia (2001) có trình độ học vấn cao hơn NC của chúng tôi. Kết quả từ NC của Garcia (2001) cũng cho thấy trình độ học vấn càng cao thì điểm kiến thức càng tốt. Đồng thời, trình độ dân trí (có thể khác nhau giữa 2 quốc gia, NC của chúng tôi ở Việt Nam còn NC của Garcia (2001) tại Hoa Kỳ) cũng liên quan đến kiến thức về bệnh của BN. Các câu đạt tỷ lệ % BN trả lời đúng cao nhất, lần lượt là câu 11, 15 và 19 (tương ứng 88,5%, 90,8% và 88,5%). Kết quả này khá tương đồng so với NC của Garcia (2001) (lần lượt là 79,0%, 95,0% và 91,0%)(6). Trong đó, câu 11 trong NC của chúng tôi có tỷ lệ BN trả lời đúng cao hơn NC của Garcia (2001). Điều này có thể được giải thích là do thời gian mắc bệnh ĐTĐ của BN trong NC này đa phần là trên 10 năm (57,5%), nên câu hỏi 11 (Bệnh đái tháo đường có 2 type chính: type 1 (phụ thuộc insulin) và type 2 (không phụ thuộc insulin)) là một thông tin khá quen thuộc với BN. Ngược lại, một số câu hỏi trong NC của chúng tôi lại có tỷ lệ % BN trả lời đúng thấp hơn so với NC của Garcia (2001) như câu 3 (Bệnh đái tháo đường là do khả năng giữ lại đường của thận bị giảm (làm cho đường vào nước tiểu)) (14,9% so với 17%) và câu 12 (Insulin được tiết ra sau khi ăn quá nhiều) (10,3% so với 20%). Sự khác biệt này có thể được giải thích là do sự khác nhau về đặc điểm của BN tham gia NC. Đầu tiên, có thể do các bệnh nhân trong NC sống chủ yếu tại nông thôn, các BN này ít quan tâm đến nguyên nhân gây ra bệnh hoặc cơ chế tiết insulin là do ít được tiếp cận thông tin này. Thêm nữa, tỷ lệ BN có trình độ học vấn tiểu học trong NC của chúng tôi khá cao (43,7%), mà điều này lại tương quan thuận với kiến thức của BN. Đặc điểm của bộ câu hỏi DKQ – Phiên bản tiếng Việt Với thời gian trung bình 9,43±1,79 phút để hoàn thành bộ câu hỏi (nhanh nhất là 5 phút và lâu nhất là 12 phút), bộ câu hỏi DKQ - Phiên bản tiếng Việt có thể được xem là công cụ nhanh chóng và khả thi để khảo sát về kiến thức bệnh ĐTĐ của BN. Về tính nhất quán, hệ số Nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 B - Khoa học Dược 142 Cronbach’s alpha cho cả 24 câu hỏi là 0,898, giá trị này nằm trong khoảng 0,70 đến 0,90 cho thấy bộ câu hỏi đạt tính nhất quán tốt, thể hiện được việc đo lường cùng một vấn đề(8). NC gốc của Garcia (2001) có kết quả Cronbach’s alpha thấp hơn NC của chúng tôi (hệ số Cronbach’s alpha cho cả 24 câu hỏi là 0,780)(6). Điều này có thể được giải thích bởi lý do, Cronbach’s alpha là giá trị đặc trưng cho mẫu dân số khảo sát. NC của Garcia (2001) tiến hành trên 502 người Mỹ gốc Mexico tham gia chương trình giáo dục BN mắc bệnh ĐTĐ tại quận Starr ở Hoa Kỳ, còn NC của chúng tôi thực hiện trên 87 BN tại Việt Nam. Do đó, đặc điểm BN như tuổi, trình độ học vấn, tỷ lệ các bệnh kèm có sự khác biệt giữa 2 NC nên có thể ảnh hưởng đến kết quả trả lời câu hỏi của BN. Nhiều NC dịch và điều chỉnh bộ câu hỏi cũng cho kết quả Cronbach’s alpha không giống bản gốc. NC của Bukhsh (2017) dịch và điều chỉnh bộ câu hỏi DKQ sang tiếng Urdu có giá trị Cronbach’s alpha là 0,702 trong khi giá trị Cronbach’s alpha của bộ câu hỏi gốc trong NC của Garcia (2001) là 0,780(6,11). Bên cạnh đó, trong NC dịch thuật và điều chỉnh bộ câu hỏi DKQ của Qamar (2019) sang tiếng Mã lai, của Menino (2017) sang tiếng Bồ Đào Nha kết quả cho thấy giá trị Cronbach’s alpha (0,86) (0,863) tốt hơn bản gốc (0,702)(6,9,12). Các yếu tố liên quan với kiến thức về bệnh ĐTĐ type 2 Có sự liên quan giữa điểm trả lời câu hỏi và trình độ học vấn của BN (p < 0,001). Kết quả này tương tự với nhiều NC khác về kiến thức về bệnh của BN mắc ĐTĐ, như Garcia (2001), Bukhsh (2017), Menino (2017)(6,9,11). Những NC này đều cho thấy trình độ học vấn của BN càng cao thì điểm kiến thức càng tốt. Nếu kiến thức về bệnh tốt thì có thể giúp BN tuân thủ dùng thuốc cũng như ăn uống/vận động tốt hơn, từ đó giúp cải thiện kết cục lâm sàng(13). Kết quả này gợi ý, trong thực hành lâm sàng cần cân nhắc cung cấp các thông tin về bệnh nhằm nâng cao kiến thức cho BN mắc ĐTĐ type 2, đặc biệt là nhóm BN có trình độ học vấn thấp. Trong NC của chúng tôi, có sự khác biệt về điểm số giữa 2 giới, BN nam có điểm kiến thức cao hơn BN nữ (p = 0,008) (Bảng 1). Kết quả này có sự khác biệt với NC của Bukhsh (2017) (điểm số của 2 nhóm BN không khác biệt có ý nghĩa thống kê, p = 0,11)(11), có thể do sự khác biệt về dân số khảo sát giữa các NC. Đồng thời, kết quả này có thể bị ảnh hưởng bởi trình độ học vấn giữa nhóm BN nam và nữ. Nhìn chung, BN nam trong NC của chúng tôi có trình độ học vấn cao hơn so với BN nữ. Cụ thể là có 66,7% (28/42) BN nam có trình độ học vấn từ THCS trở lên so với 46,7% (21/45) ở BN nữ. Trong khi đó, trình độ học vấn của BN (trong NC của chúng tôi) lại có mối liên quan với điểm kiến thức. Vì vậy, sự khác biệt của điểm số theo giới tính thể bị ảnh hưởng bởi trình độ học vấn. Điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu NC sử dụng bộ câu hỏi về kiến thức bệnh đái tháo đường (DKQ), đã được chúng tôi tiến hành dịch thuật và điều chỉnh sang tiếng Việt, với từ ngữ đơn giản, dễ hiểu và phù hợp với bệnh nhân Việt Nam. NC của chúng tôi đã phần nào tìm hiểu được kiến thức về bệnh ĐTĐ của BN ĐTĐ type 2 và các yếu tố liên quan. Tuy nhiên, NC cũng có mặt hạn chế, chẳng hạn như chưa đánh giá được mối liên quan giữa kiến thức và hiệu quả điều trị của BN (ví dụ: HbA1c mục tiêu, do rất ít BN được chỉ định xét nghiệm này). NC chỉ khảo sát kiến thức về bệnh ĐTĐ của BN tại một cơ sở y tế nên không thể ngoại suy cho tất cả BN ĐTĐ type 2 tại Việt Nam. KẾT LUẬN Bộ câu hỏi DKQ phiên bản tiếng Việt có thể được xem như là một công cụ để khảo sát kiến thức của BN về bệnh ĐTĐ type 2 tại Việt Nam. Kiến thức về bệnh ĐTĐ của BN ĐTĐ type 2 còn khá thấp, cơ chế tiết insulin là câu hỏi còn khá xa lạ với hầu hết BN. Trình độ học vấn liên quan có ý nghĩa với kiến thức về bệnh của bệnh nhân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Raaijmakers LG, Martens MK, Bagchus C, et al (2015). Correlates of perceived self-care activities and diabetes control among Dutch type 1 and type 2 diabetics. Journal of Behavioral Medicine, 38(3):450-9. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 Nghiên cứu B - Khoa học Dược 143 2. International Diabetes Federation (2017). IDF Diabetes Atlas. 8th ed, pp.1-150. International Diabetes Federation, United Kingdom UK. 3. Davidson MB, Peters AL (1997). An overview of metformin in the treatment of type 2 diabetes mellitus. The American Journal of Medicine, 102(1):99-110. 4. Bộ Y Tế - Cục Y Tế Dự Phòng (2015). Điều tra quốc gia: Yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm (STEPS). Quyết định số 346/QĐ-BYT ngày 30 tháng 01 năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Y Tế. 5. Inzucchi SE, Bergenstal RM, Buse JB, et al (2015). Management of hyperglycemia in type 2 diabetes, 2015: a patient-centered approach: update to a position statement of the american diabetes association and the european association for the study of diabetes. Diabetes Care. 38(1): 140-149. 6. Garcia AA, Villagomez ET, Brown SA, et al (2001). The starr county diabetes education study development of the Spanish- Language Diabetes Knowledge Questionnaire. Diabetes Care, 24(1):16-21. 7. Hu J, Gruber JK, Liu H, et al (2012). Diebetes knowledge among older adults with diabetes in Beijing, China. Journal of Clinical Nursing, 22(1-2):51-60. 8. Tavakol M, et al (2011). Making sense of Cronbach’s alpha. International journal of medical education, 2:53-55. 9. Menino GE, Dos ADM, Clarisse ALM (2017). Validation of Diabetes Knowledge Questionnaire (DKQ) in the Portuguese Population. Diabetes and Obesity International Journal, 2(S1):000S1-002. 10. American Diabetes Association (2018). Standards of medical care in diabetes - 2018. Diabetes Care 2018, 41(1):850-858. 11. Bukhsh A, Lee HWS, Pusparajah P, Khan AH, et al (2017). Psychometric properties of The Urdu Version of Diabetes Knowledge Questionnaire. Frontiers in public Health, 139(5). DOI: 10.3389. 12. Qamar M, Iqubal RM, Ahmad S (2019). Psychometric Analysis of the newly translated Malaysian version of Diabetes Knowledge Questionnaire by Rasch analysis. Frontiers in Pharmacology. URL: https://www. frontiersin.org/10.3389%2Fconf.fphar.2018.63.00077/event_a bstract (access on 10/5/2020). 13. Sweileh WM, et al (2014). Influence of Patients’ Disease Knowledge and Beliefs about Medicines on Medication Adherence: Findings from a Cross-Sectional Survey Among Patients with type 2 Diabetes Mellitus in Palestine. BMC Public Health, 14:94 DOI: 10.1186/1471-2458-14-94. Ngày nhận bài báo: 25/05/2020 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 02/06/2020 Ngày bài báo được đăng: 20/07/2020

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_cac_yeu_to_lien_quan_den_kien_thuc_ve_benh_o_benh_n.pdf
Tài liệu liên quan