Khảo sát chất lượng bữa ăn dặm cho trẻ từ 6 -24 tháng tuổi đến khám dinh dưỡng tại bệnh viện Nhi đồng 2

Thời điểm trẻ từ 6 – 9 tháng tuổi, tỉ lệ các bé không được cho ăn chất đạm là cao nhất 26,2% vì bà mẹ cho rằng bé lúc này còn rất nhỏ nếu ăn nhiều chất đạm sẽ khó tiêu hoá. Thời điểm trẻ từ 18 – 24 tháng tuổi đã được bổ sung đạm nhưng không đủ chiếm tỉ lệ nhiều nhất 20,5%. Đây là tuổi có thể ăn cơm nát với gia đình, đồng thời trẻ hay ham chơi bỏ ăn, do đó nguy cơ thiếu đạm cũng khá cao. Thời điểm trẻ từ 9 – 12 tháng tuổi được bổ sung chất đạm đầy đủ nhất chiếm tỉ lệ 66,6%, có thể trẻ bắt đầu mọc răng, được cho ăn cháo nên được bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng theo hướng dẫn. So với trước đây, khi điều kiện kinh tế khó khăn, ngày nay các bà mẹ đã chú trọng việc cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho trẻ, tuy nhiên một số người có quan niệm sai khi cho rằng ăn càng nhiều đạm càng bổ. Do đó, trong NC, tỉ lệ bổ sung chất đạm thừa chiếm tỉ lệ từ 15,8%-26,4%. Đây cũng là 1 lý do làm trẻ lâu tiêu hóa và biếng ăn. Rau rất cần thiết cho trẻ trong việc cung cấp hàm lượng chất xơ để chống táo bón, béo phì. Ngoài ra rau còn cung cấp nhiều vitamin, khoáng chất thiết yếu cho cơ thể. Nhìn chung các trẻ từ 6 – 24 tháng đều được bổ sung rau tương đối đầy đủ, riêng nhóm trẻ từ 6 – 9 tháng thì hơi thấp hơn vì bà mẹ nghĩ ở độ tuổi mới bắt đầu ăn dặm, trẻ không thích mùi vị của rau khi cho vào khẩu phần ăn hoặc lo sợ trẻ dễ bị tiêu chảy.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 195 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát chất lượng bữa ăn dặm cho trẻ từ 6 -24 tháng tuổi đến khám dinh dưỡng tại bệnh viện Nhi đồng 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 1 KHẢO SÁT CHẤT LƯỢNG BỮA ĂN DẶM CHO TRẺ TỪ 6 -24 THÁNG TUỔI ĐẾN KHÁM DINH DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 2 Nguyễn Thị Thu Hậu*,Trần Thị Hoài Phương*, Nguyễn Hoàng Nhựt Hoa*, Trần Hồng Nhân** TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát chất lượng bữa ăn dặm cho trẻ từ 6 -24 tháng tuổi khám dinh dưỡng tại bệnh viện Nhi Đồng 2. Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả. Kết quả: từ tháng 6-8/2010, nghiên cứu trên 252 bệnh nhân từ 6-24 tháng tuổi đến khám dinh dưỡng tại bệnh viện Nhi Đồng 2, trong đó 36,9% ở thành phố Hồ Chí Minh và 63,1% ở tỉnh khác. Tỉ lệ trẻ được ăn đủ 4 nhóm thực phẩm chỉ chiếm 77%. Không cho ăn chất béo ở nhóm tuổi 6 – 9 tháng chiếm tỉ lệ cao nhất( 35,7%), thiếu béo trong khẩu phần còn cao: 9-12 tháng: 31,6%, 12-18 tháng: 44,4%, 18-24 tháng: 48,7%. Cung cấp đủ chất đạm: cao nhất ở tuổi 9 – 12 tháng ( 66,6%), không cho ăn chất đạm: chiếm tỉ lệ cao nhất ở nhóm tuổi 6 – 9 tháng (26, 2%). Tuy nhiên, tỉ lệ ăn thừa đạm của các lứa tuổi: từ 15,6%-20,5%. 28,2-43,9% còn thiếu rau trong bữa ăn. Kết luận: Việc hướng dẫn chế biến thức ăn dặm thích hợp theo lứa tuổi cho phụ huynh cần được tiến hành thường xuyên và tích cực hơn. Ngoài chú trọng về cung cấp đủ chất béo, rau, cần lưu ý cả việc cho trẻ ăn quá thiếu hay quá thừa chất đạm. Từ khóa: suy dinh dưỡng, ăn dặm, ăn bổ sung, bổ sung các chất dinh dưỡng. ABSTRACT QUALITY OF COMPLEMENTARY FOODS FOR CHILDREN AGED 6 - 24 MONTHS AT NUTRITIONAL CONSULTATION UNIT OF CHILDREN’S HOSPITAL 2 Nguyen Thi Thu Hau,Tran Thi Hoai Phuong, Nguyen Hoang Nhut Hoa, Tran Hong Nhan, * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 14 - Supplement of No 4 - 2010: 277 - 280 Objectives: Determine the quality of complementary foods for children aged 6-24 months who come to nutritional consultation unit of Children’s hospital 2. Methods: Descriptive cross-sectional study. Results: From June to August, 2010, 252 patients of Nutritional Consultation Unit of Children’s hospital 2 were enrolled in this study. 36.9% of them lived in Ho Chi Minh city and 63.1% in other provinces. 77% children were provided enough 4 groups of food. The highest non- fat supplement rate was in 6-9 months group (35.7%), rates of fat lacking in foods were high:3.6% in aged 9-12 months, 44.4% in aged 12-18months,48.7% in aged 18-24 months. Enough protein providing were best in aged of 9-12 months (66.6%), protein lacking highest in 6-9 months (26.2%). However, 15.6-20.5% of children were provided too much protein.28.2-43.9% of them were undersupplied of vegetable. Conclusions: Training of appropriate method to introduce complementary food for children should be held more effectively and more regularly. Besides targeting at how to provide enough fat, vegetable, it should be noted at undersupply or oversupply of protein. * Bệnh viện Nhi Đồng 2, ** Trường Cao đẳng Kinh tế công nghệ Tác giả liên lạc: KTV.Trần Thị Hoài Phương, ĐT: 0908435540, Email: phuongdinhduong2000@yahoo.com Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 2 Key words: malnutrition, weaning, complementary feeding, nutrients supply. ĐẶT VẤN ĐỀ Dinh dưỡng hợp lý vô cùng quan trọng trong việc giúp trẻ có thể phát triển được hết tiềm năng của cơ thể(1). Hai năm đầu đời của trẻ là giai đoạn cao điểm của tình trạng chậm tăng trưởng, thiếu vi chất dinh dưỡng, và các bệnh nhiễm khuẩn(2). Chất lượng bữa ăn dặm đóng vai trò quan trọng phòng chống suy dinh dưỡng. Phòng Khám Dinh Dưỡng của bệnh viện Nhi đồng 2 tiếp nhận rất nhiều thân nhân bệnh nhi đến tham vấn về vấn đề nuôi dưỡng trẻ, trong đó có khá nhiều bệnh nhi ở lứa tuổi từ 6 – 24 tháng tuổi. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Khảo sát chất lượng bữa ăn dặm của trẻ từ 6 – 24 tháng tuổi đến khám tại Phòng Khám Dinh Dưỡng Bệnh Viện Nhi Đồng 2”. Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp can thiệp để cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho trẻ nhóm tuổi ăn dặm. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu chung Tìm hiểu về chất lượng trong bữa ăn dặm của trẻ từ 6 – 24 tháng tuổi đến khám tại Phòng Khám Dinh Dưỡng Bệnh Viện Nhi Đồng 2. Mục tiêu chuyên biệt - Xác định các đặc điểm của dân số nghiên cứu - Xác định tỉ lệ trẻ được ăn đủ 4 nhóm thực phẩm. - Xác định tỉ lệ cung cấp chất béo trong thực hành ăn bổ sung theo từng lứa tuổi. - Xác định tỉ lệ cung cấp chất đạm trong thực hành ăn bổ sung theo từng lứa tuổi. - Xác định tỉ lệ cung cấp nhóm rau trong thực hành ăn bổ sung theo từng lứa tuổi. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Trẻ em từ 6 – 24 tháng tuổi và người trực tiếp nuôi dưỡng trẻ đến khám tại Phòng khám dinh dưỡng Bệnh Viện Nhi Đồng 2. Thời gian Tháng 6/2009-8/2010. Tiêu chuẩn chọn mẫu Trẻ 6-24 tháng tuổi đến khám Dinh dưỡng, không mắc các bệnh mạn tính, bẩm sinh, có người chăm sóc trực tiếp đi cùng, đồng ý phỏng vấn. Tiêu chuẩn loại trừ Ngoài lứa tuổi trên, không có người chăm sóc trực tiếp đi cùng, có bệnh lý mạn tính bẩm sinh, không đồng ý tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu Cắt ngang mô tả. Phương pháp lấy mẫu Thuận tiện, theo công thức Z2 1-α/2 P(1-P) N= ------------------------ d2 Với α: xác suất sai lầm loại 1, α =0.05 d: sai số cho phép, d= 0.05 P: trị số mong muốn của tỉ lệ, theo NC tại NĐ1, lấy P=0.224 P= 0.239 (tỉ lệ trẻ cho ăn đủ dầu, đạm), mẫu = 263 và 279 bệnh nhân Thu thập số liệu Phỏng vấn trực tiếp bằng bảng câu hỏi. Xử lý số liệu Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 11.5 for Windows. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Biểu đồ 1. Đặc điểm dân số nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 3 Nhận xét: Có 252 trẻ đủ tiêu chuẩn được nhận vào lô nghiên cứu trong đó: Có 122 trẻ nam (chiếm 48,4%) và 130 trẻ nữ (chiếm 51,6%). Lứa tuổi: 6-9 tháng tuổi: 84 trẻ (33,3%); 10-12 tháng: 57 trẻ (22,6%); 13-18 tháng: 72 trẻ (28,6%), 19- 24 tháng: 39 trẻ (15,5%). Thành phố Hồ Chí Minh: 36,9%. Tỉnh khác là 63,1%. Nguyên nhân đến khám: phần lớn vì dinh dưỡng (biếng ăn, không lên cân, chậm lên cân) hoặc vì các rối loạn ăn uống khi mắc bệnh cấp tính (hô hấp, tiêu hóa, ). Tất cả trẻ đều đã được cho ăn dặm. Biểu đồ 2. Tỉ lệ được ăn đủ bốn nhóm chất * Nhận xét: Qua khảo sát việc ăn bốn nhóm chất trong khẩu phần ăn bổ sung của trẻ nhận thấy: Trong số trẻ đến khám có 77% được cho ăn đủ bốn nhóm chất, 23% trẻ bị cho ăn không đủ bốn nhóm chất vì đa số các bà mẹ cho rằng con còn nhỏ nên không cho ăn. Bảng 1. Xác định tỉ lệ cung cấp chất béo theo từng lứa tuổi Tỉ lệ % 6-9 th 9-12th 12-18th 18-24th Không ăn 35,7 8,8 4,2 12,8 Thiếu 29,8 31,6 44,4 48,7 Đủ 33,3 59,6 45,8 38,5 Thừa 1,2 0 5,6 0 Bảng 2. Xác định tỉ lệ cung cấp chất đạm theo từng lứa tuổi: Tỉ lệ % 6-9 th 9-12th 12-18th 18 -24th Không cho ăn 26,2 1,8 4,2 2,6 Thiếu 17,9 15,8 13,9 20,5 Đủ 35,7 66,6 55,5 56,4 Thừa 20,2 15,8 26,4 20,5 Bảng 3. Xác định tỉ lệ cung cấp nhóm rau theo từng lứa tuổi Tỉ lệ % 6-9 th 9-12th 12-18th 18-24th Không cho ăn 31,0 3,5 9,7 12,8 Thiếu 28,6 43,9 37,5 28,2 Đủ 39,3 50,9 51,4 59,0 Thừa 1,2 1,8 7,4 0 BÀN LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ ở tỉnh có vấn đề về dinh dưỡng cao hơn trẻ ở TPHCM. Điều này phù hợp với báo cáo của Trung tâm Dinh dưỡng TPHCM: tỉ lệ SDD ở trẻ < 5 tuổi tại TPHCM thấp nhất trong cả nước(2). Một số nghiên cứu trong và ngoài nước đã phản ánh thời kì trẻ có nguy cơ cao bị suy sinh dưỡng là thời gian trẻ bắt đầu ăn bổ sung(1). Để đảm bảo thức ăn bổ sung của trẻ đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng thì trẻ cần phải cho ăn đúng thời điểm, ăn đủ bốn nhóm chất (tinh bột, đạm, béo, rau củ) và đủ số lượng mỗi nhóm. Qua đó, việc cung cấp thông tin đầy đủ đến các bà mẹ thông qua việc tuyên truyền và tư vấn dinh dưỡng là rất cần thiết. So với NC trước đây tại Nhi đồng 2 năm 2009, 61,1% bà mẹ không biết chế biến bữa ăn dặm đúng cách và cho ăn không đủ 4 nhóm thức ăn(2) tỉ lệ 77% bữa ăn có hiện diện của 4 nhóm chứng tỏ công tác tuyên truyền đã có kết quả hơn, nhưng vẫn cần nhiều nỗ lực. Tỉ lệ trẻ từ 6- 9 tháng không được cho ăn chất béo là cao nhất (35,7%). Ở độ tuổi này, các bà mẹ nghĩ trẻ sẽ bị khó tiêu khi cho thêm chất béo vào bữa ăn hoặc trẻ dùng bột ăn liền nên không bổ sung. Với trẻ ở lứa tuổi ăn cháo, mẹ đã có ý thức bổ sung dầu ăn nhưng vẫn chưa đủ số lượng, 31,6% trẻ 9-12 tháng, 44,4% trẻ 12-18 tháng bị thiếu béo trong khẩu phần và trẻ ở độ tuổi có thể ăn cơm nát hoặc cháo xen kẻ thì tỉ lệ này càng tăng lên: đến 48,7% trẻ ăn thiếu béo. Kết quả này cũng giống như một nghiên cứu ở tỉnh Phú Thọ: trẻ dưới 12 tháng được bổ sung dầu vào bữa ăn rất ít chỉ chiếm 3,6% trên tổng số nhu cầu cơ thể. Tỉ lệ ăn thiếu béo sẽ làm tăng nguy cơ suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 5 tuổi do đậm độ năng lượng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 4 của bữa ăn thấp và ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của hệ thần kinh cũng như vần đề thể chất về sau. Do đó, cần đẩy mạnh công tác truyền thông về việc bổ sung đầy đủ dưỡng chất, đặc biệt là chất béo cho trẻ < 2 tuổi, nhằm giảm tỉ lệ SDD và thấp còi ở trẻ em Việt Nam(2). Thời điểm trẻ từ 6 – 9 tháng tuổi, tỉ lệ các bé không được cho ăn chất đạm là cao nhất 26,2% vì bà mẹ cho rằng bé lúc này còn rất nhỏ nếu ăn nhiều chất đạm sẽ khó tiêu hoá. Thời điểm trẻ từ 18 – 24 tháng tuổi đã được bổ sung đạm nhưng không đủ chiếm tỉ lệ nhiều nhất 20,5%. Đây là tuổi có thể ăn cơm nát với gia đình, đồng thời trẻ hay ham chơi bỏ ăn, do đó nguy cơ thiếu đạm cũng khá cao. Thời điểm trẻ từ 9 – 12 tháng tuổi được bổ sung chất đạm đầy đủ nhất chiếm tỉ lệ 66,6%, có thể trẻ bắt đầu mọc răng, được cho ăn cháo nên được bổ sung đầy đủ các chất dinh dưỡng theo hướng dẫn. So với trước đây, khi điều kiện kinh tế khó khăn, ngày nay các bà mẹ đã chú trọng việc cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho trẻ, tuy nhiên một số người có quan niệm sai khi cho rằng ăn càng nhiều đạm càng bổ. Do đó, trong NC, tỉ lệ bổ sung chất đạm thừa chiếm tỉ lệ từ 15,8%-26,4%. Đây cũng là 1 lý do làm trẻ lâu tiêu hóa và biếng ăn. Rau rất cần thiết cho trẻ trong việc cung cấp hàm lượng chất xơ để chống táo bón, béo phì. Ngoài ra rau còn cung cấp nhiều vitamin, khoáng chất thiết yếu cho cơ thể. Nhìn chung các trẻ từ 6 – 24 tháng đều được bổ sung rau tương đối đầy đủ, riêng nhóm trẻ từ 6 – 9 tháng thì hơi thấp hơn vì bà mẹ nghĩ ở độ tuổi mới bắt đầu ăn dặm, trẻ không thích mùi vị của rau khi cho vào khẩu phần ăn hoặc lo sợ trẻ dễ bị tiêu chảy. KẾT LUẬN Qua khảo sát trên 252 trẻ chúng tôi nhận thấy: - Có 122 trẻ nam (chiếm 48,4%) và 130 trẻ nữ ( chiếm 51,6%), - Trẻ ở thành phố Hồ Chí Minh: 36,9%. Tỉnh khác là 63,1%. - Tỉ lệ trẻ được ăn đủ 4 nhóm thực phẩm chỉ chiếm 77%. - Không cho ăn chất béo ở nhóm tuổi 6 – 9 tháng chiếm tỉ lệ cao nhất 35,7%. Thiếu béo trong khẩu phần: 9-12 tháng: 31,6%, 12-18 tháng: 44,4%, 18-24 tháng: 48,7% Chất đạm đủ: 9 – 12 tháng: 66,6%. Không cho ăn chất đạm: chiếm tỉ lệ cao nhất ở nhóm tuổi 6 – 9 tháng 26, 2%. Tỉ lệ ăn thừa đạm của các lứa tuổi: từ 15,6%- 20,5%. Nhóm rau trong bữa ăn: 28,2- 43,9% còn thiếu. KIẾN NGHỊ Tăng cường các lớp tập huấn về thực hành ăn bổ sung cho trẻ từ 6 – 24 tháng tuổi: ăn đúng thời điểm khuyến nghị, khẩu phần ăn đủ bốn nhóm chất Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền và tư vấn thực hành dinh dưỡng cho các bà mẹ trên các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt các bà mẹ ở vùng nông thôn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hà Huy Khôi (1999). Bàn về giải pháp giảm Suy dinh dưỡng trẻ em. Y học thực hành số 3/1999, tr8-9. 2. Trần Thị Hoài Phương, Nguyễn Thị Kim Hoàng, Nguyễn Thị Kiều Thu, Mai Quang Huỳnh Mai, Nguyễn Thị Thu Hậu. (2009). Khảo sát thực hành chăm sóc dinh dưỡng ở trẻ dưới 6 tháng tuổi đến khám lần đầu tại Phòng khám dinh dưỡng Bệnh viện Nhi Đồng 2 năm 2008 – 2009. Y học Thành Phố Hồ Chí Minh.13(5): p.98-104. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 5 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 14 * Phụ bản của Số 4 * 2010 Nghiên cứu Y học Hội Nghị Nhi Khoa Mở Rộng BV. Nhi Đồng 2 – Lần XIX - Năm 2010 6

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_chat_luong_bua_an_dam_cho_tre_tu_6_24_thang_tuoi_de.pdf
Tài liệu liên quan