Năng suất thực thu trung bình của các tổ hợp
lai tại Hà Nội là 84,9 tạ/ha, cao hơn tại Hòa Bình
(81,2 tạ/ha). Tại điểm thí nghiệm Hà Nội, 17/23 tổ
hợp lai có năng suất tương đương 2 giống đối chứng,
trong đó, 9 tổ hợp lai (gồm THL3, THL6, THL9,
THL15, THL16, THL18, THL19, THL20, THL21)
có năng suất đạt trên 90 tạ/ha. Tổ hợp lai THL15
có năng suất đạt cao nhất là 97,5 tạ/ha, cao hơn cả
2 đối chứng CP511 (83,2 tạ/ha) và NK7328 (92,8 tạ/ha)
có ý nghĩa ở mức tin cậy 95%. Tại Hòa Bình có
9/23 tổ hợp lai đạt năng suất trên 85 tạ/ha là THL3,
THL4, THL9, THL14, THL15, THL16, THL19,
THL21, THL22, trong đó, tổ hợp lai THL9 có năng
suất cao nhất là 101,4 tạ/ha, cao hơn 2 giống đối
chứng CP511 (84,3 tạ/ha) và NK7328 (90,1 tạ/ha)
có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95% (hình 3).
Năng suất của các tổ hợp lai triển vọng dao động
62,2 - 97,5 tạ/ha (Hà Nội), 62,5 - 101,4 tạ/ha (Hòa
Bình) cao hơn so với các tổ hợp lai đỉnh (năng suất
59,6 - 96,3 tạ/ha) trong nghiên cứu của Lương Thái
Hà và cộng tác viên (2019) và tương đương với các
tổ hợp lai trong nghiên cứu của Ngô Thị Minh Tâm
và cộng tác viên (2017).
Như vậy, qua kết quả khảo sát, đánh giá tại
2 vùng sinh thái đã xác định được 7 tổ hợp lai ưu
tú là THL3, THL9, THL15, THL16, THL19, THL21,
THL22. Các tổ hợp lai ưu tú này cần tiếp tục đánh
giá ở các vùng sinh thái khác nhau trong vụ tiếp theo
để đánh giá tính thích ứng của giống. Trong đó, đặc
biệt quan tâm THL9 và THL15 là 2 tổ hợp có năng
suất cao hơn 2 đối chứng có ý nghĩa ít nhất ở 1 điểm
thí nghiệm. Bên cạnh đó 2 tổ hợp lai này còn có các
đặc tính nông học nổi trội hơn các tổ hợp lai khác
như có dạng bắp to dài, khả năng chống chịu đổ và
bệnh hại tốt. Đây là 2 tổ hợp triển vọng phù hợp cho
mục tiêu phát triển giống ngô mới năng suất cao,
chống chịu tốt.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát, đánh giá đặc điểm nông học và năng suất của các tổ hợp ngô lai triển vọng tại Hà Nội và Hòa Bình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
70
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ ĐẶC ĐIỂM NÔNG HỌC VÀ NĂNG SUẤT
CỦA CÁC TỔ HỢP NGÔ LAI TRIỂN VỌNG TẠI HÀ NỘI VÀ HÒA BÌNH
Nguyễn Ngọc Diệp1, Nguyễn Văn Trường1,
Ngô Thị Minh Tâm1, Nguyễn Thị Kim Lệ1, Đào Thị Thảo2,
Bùi Đức Hải1, Nguyễn Như Tiền1, Bùi Mạnh Cường1
TÓM TẮT
Thí nghiệm khảo sát và đánh giá tổ hợp lai được thực hiện trong vụ Thu năm 2019 tại Hà Nội (vùng Đồng bằng
sông Hồng) và Hòa Bình (vùng Trung du miền núi phía Bắc) gồm 23 tổ hợp lai triển vọng và 2 giống đối chứng. Thí
nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn toàn với 3 lần nhắc lại. Kết quả thu được là tương đồng giữa
2 địa điểm thí nghiệm, các tổ hợp lai có thời gian sinh trưởng thuộc nhóm trung ngày (108 - 112 ngày), có khả năng
chống chịu tốt với sâu bệnh và điều kiện bất thuận của môi trường. Xác định được 7 tổ hợp lai ưu tú là THL3, THL9,
THL15, THL16, THL19, THL21, THL22 có năng suất đạt trên 85 tạ/ha tại Hòa Bình và trên 90 tạ/ha tại Hà Nội
và tương đương đối chứng, đặc biệt là 2 tổ hợp lai THL9 và THL15 có năng suất cao nhất ở cả 2 điểm thí nghiệm.
Các tổ hợp lai ưu tú này tiếp tục được khảo nghiệm và đánh giá tại các vùng sinh thái trong các vụ tiếp theo để phục
vụ cho công tác chọn tạo giống ngô năng suất cao và chống chịu tốt.
Từ khóa: Năng suất cao, ngô, tổ hợp lai triển vọng.
1 Viện Nghiên cứu Ngô; 2 Trung tâm Nghiên cứu và Sản xuất giống ngô Sông Bôi
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển
của ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm thì nhu cầu
về ngô của nước ta ngày càng lớn. Sản lượng ngô
trong nước chỉ đáp ứng được 50 - 55% nhu cầu sản
xuất chế biến thức ăn chăn nuôi (Bộ Công thương,
2019). Theo số liệu thống kê thì năm 2018 diện tích
sản xuất ngô của Việt Nam là 1,032 triệu ha, năng
suất trung bình đạt 47,2 tạ/ha và sản lượng đạt
4,87 triệu tấn (FAOSTAT, 2020). Trong khi đó, lượng
ngô nhập khẩu năm 2018 là 10,18 triệu tấn, trị giá
2,12 tỷ USD, tăng 40,9% so với năm 2017 (Bộ Công
thương, 2019). Do đó, việc thúc đẩy trồng ngô ở
những vùng khó khăn, giảm giá thành ngô sản xuất
trong nước là việc làm cần thiết trong điều kiện diện
tích canh tác ngô đang có xu hướng giảm ở các vùng
chuyển đổi trồng cây ăn quả.
Ở Việt Nam, do đặc điểm sản xuất là ngô trồng
chủ yếu ở những vùng phụ thuộc nước trời nên
khả năng gặp hạn là rất cao. Vì vậy, phát triển các
giống ngô năng suất cao, chống chịu tốt và giá thành
thấp sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất ngô trong nước.
Nghiên cứu, đánh giá tổ hợp lai triển vọng tại Hà
Nội và Hòa Bình là một nội dung quan trọng nhằm
tìm ra tổ hợp lai tốt, phục vụ cho công tác phát triển
giống mới.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
23 tổ hợp ngô lai đơn triển vọng của Viện Nghiên
cứu Ngô được ký hiệu từ THL1-THL23 và 2 giống
đối chứng là CP511 (Công ty TNHH Hạt giống C.P
Việt Nam) và NK7328 (Công ty TNHH Syngenta
Việt Nam).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối đầy đủ
hoàn toàn ngẫu nhiên (RCBD) 25 công thức (gồm
23 tổ hợp lai và 2 giống đối chứng), 3 lần nhắc lại.
Mỗi công thức gieo 4 hàng, hàng dài 5 m, đường lô
lớn là 1,2 m, đường lô nhỏ là 0,6 m. Khoảng cách
gieo: hàng - hàng: 70 cm, cây - cây: 25 cm (mật độ
5,7 vạn cây/ha).
Các chỉ tiêu theo dõi tiến hành theo Quy chuẩn kỹ
thuật Quốc gia về khảo nghiệm giá trị canh tác và sử
dụng của giống ngô QCVN 01-56:2011/BNNPTNT.
Số liệu được tổng hợp trên phần mềm Excel 2010 và
xử lý bằng chương trình IRRISTAT 5.0.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian thực hiện: Vụ Thu 2019.
- Địa điểm nghiên cứu: Viện Nghiên cứu Ngô,
Đan Phượng, Hà Nội và Trung tâm Nghiên cứu và
sản xuất giống ngô Sông Bôi, Lạc Thủy, Hòa Bình.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Thời gian sinh trưởng và đặc điểm hình thái
của các tổ hợp lai
Kết quả đánh giá về thời gian sinh trưởng (TGST)
và một số đặc điểm hính thái của 23 tổ hợp lai tại
2 địa điểm Hà Nội và Hòa Bình trong vụ Thu 2019
được trình bày ở hình 1 cho thấy: Các tổ hợp lai và
2 giống đối chứng có thời gian sinh trưởng dao động
71
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
từ 110 - 115 ngày, trung bình là 112 ngày tại Hà Nội
và từ 106 - 111 ngày, trung bình là 108 ngày tại Hòa
Bình. Như vậy, các tổ hợp lai nghiên cứu và 2 giống
đối chứng đều thuộc nhóm trung ngày, tuy nhiên
khi trồng trong cùng mùa vụ ở Hòa Bình thì TGST
ngắn hơn trồng ở Hà Nội trung bình là 4 ngày.
Hình 1. Biểu đồ thời gian sinh trưởng (TGST) của các tổ hợp lai
tại Hà Nội và Hòa Bình trong vụ Thu năm 2019
Biểu đồ hình 2 cho thấy: Trong 2 địa điểm thí
nghiệm thì điều kiện sinh thái ở Hà Nội thuận lợi
hơn cho cây ngô sinh trưởng phát triển, cụ thể các tổ
hợp lai đạt chiều cao cây cao hơn so với trong điều
kiện gieo trồng tại Hòa Bình. Tại Hà Nội chiều cao
cây của các tổ hợp lai dao động 210 - 250 cm (ngoại
trừ giống đối chứng CP511 là 195 cm), trong khi tại
Hòa Bình chỉ đạt 190 - 225 cm. Đánh giá về tình
hình sinh trưởng của từng tổ hợp lai nhìn chung
khá tương đồng ở 2 vùng sinh thái. Các tổ hợp lai có
chiều cao cây cao hơn ở Hà Nội cũng biểu hiện đặc
tính tương tự ở Hòa Bình và ngược lại. Tương ứng
với chỉ tiêu chiều cao đóng bắp của các tổ hợp lai dao
động 95 - 125 cm ở Hà Nội và 85 - 95 cm ở Hòa Bình.
Hình 2. Biểu đồ một số đặc điểm hình thái của các tổ hợp lai
tại Hà Nội và Hòa Bình trong vụ Thu năm 2019
72
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
3.2. Khả năng chống chịu của các tổ hợp lai
Kết quả đánh giá khả năng chống chịu bất thuận
của các tổ hợp lai được trình bày ở bảng 1 cho thấy:
Trong vụ Thu 2019 đổ rễ xuất hiện ở tất cả các tổ hợp
lai nghiên cứu và giống đối chứng tại 2 địa điểm thí
nghiệm, tuy nhiên với mức độ nhẹ, ít gây ảnh hưởng
đến năng suất cuối cùng. Tổ hợp lai THL7 bị đổ rễ
>10% ở cả 2 vùng sinh thái tương tự giống đối chứng
CP511, ngoài ra một số tổ hợp có tỷ lệ đổ >10% tại
1 trong 2 địa điểm nghiên cứu như THL2, THL10,
THL11, THL16, THL17. 4 tổ hợp có khả năng chống
chịu đổ rễ tốt nhất là THL5, THL15, THL19, THL22,
mức độ đổ rễ thấp hơn NK7328 ở 2 vùng sinh thái.
Bảng 1. Một số đặc điểm chống chịu bất thuận của các tổ hợp lai
tại Hà Nội và Hòa Bình trong vụ Thu năm 2019
STT Tổ hợp lai
Tỷ lệ đổ rễ (%) Đốm lá nhỏ (điểm) Khô vằn (%) Chịu hạn (điểm)
HN HB HN HB HN HB HN HB
1 THL 1 8,3 5 1 0 0 0 1 1
2 THL 2 8,3 13,3 1 1 0 0 1 1
3 THL 3 5,0 6,7 0 0 0 0 1 1,5
4 THL 4 6,7 6,7 1 0 0 0 1,5 1,5
5 THL 5 5,0 5,0 0 1 0 2,9 1,5 1
6 THL 6 3,3 6,7 0 0 0 0 1,5 1
7 THL 7 13,3 11,7 1 1 0 0 1 1,5
8 THL 8 5,0 6,7 0 0 0 0 1 1,5
9 THL 9 8,3 3,3 1 0 2,8 0 1,5 1
10 THL 10 6,7 11,7 1 1 0 0 2 1,5
11 THL 11 11,7 6,7 0,5 0 0 0 1 1,5
12 THL 12 13,3 5,0 0 1 0 2,8 1 1
13 THL 13 6,7 1,7 1 0 0 0 1,5 1,5
14 THL 14 6,7 3,3 0 1 2,8 0 1 1
15 THL 15 3,3 1,7 0 1 0 0 1,5 1
16 THL 16 8,3 11,7 1 0,5 2,8 0 1,5 1,5
17 THL 17 11,7 6,7 1 0,5 2,6 0 1,5 1
18 THL 18 6,7 5,0 1 0 4,8 2,8 1 1,5
19 THL 19 5,0 3,3 1 1 0 0 1 1
20 THL 20 5,0 6,7 0 0 0 0 1 1
21 THL 21 1,7 6,7 0 0 0 0 1 1
22 THL 22 3,3 3,3 1 1 0 0 1 1
23 THL 23 1,7 8,3 1 1 2,7 0 1,5 1
24 CP511 (ĐC 1) 11,7 11,7 0 1 5,2 3,0 2 1,5
25 NK7328 (ĐC 2) 6,7 6,7 0 1,5 0 0 1 1
Khả năng chống chịu bệnh: Ở cả 2 địa điểm thí
nghiệm các tổ hợp lai không bị nhiễm hoặc bị nhiễm
rất nhẹ đến nhẹ bệnh lá. Kết quả đánh giá mức độ
nhiễm bệnh đốm lá nhỏ ở điểm 0 - 1, tỷ lệ nhiễm
bệnh khô vằn ở mức thấp 2,6 - 5,2%.
Khả năng chịu hạn của các tổ hợp lai ở 2 địa điểm
thí nghiệm tương đối tốt (đạt điểm 1 đến 1,5). Ba tổ
hợp lai chịu hạn kém hơn các tổ hợp còn lại là THL4,
THL10, THL13 và tương đương với giống CP511.
3.3. Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất
hạt của các tổ hợp lai
Số liệu các yếu tố cấu thành năng suất ở 2 địa
điểm trình bày ở bảng 2 cho thấy: Chiều dài bắp
trung bình của các tổ hợp lai trồng tại Hà Nội lớn
hơn chiều dài bắp trung bình tại Hòa Bình. Tại Hà
Nội, 2 tổ hợp lai có chiều dài bắp lớn hơn 2 đối chứng
chắc chắn ở độ tin cậy 95% là THL3 (20,2 cm) và
THL9 (20,5 cm), tuy nhiên tại Hòa Bình, chiều dài
bắp của các tổ hợp lai chỉ tương đương 2 đối chứng.
73
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
Bảng 2. Các yếu tố cấu thành năng suất của các tổ hợp lai
tại Hà Nội và Hòa Bình trong vụ Thu 2019
TT Tổ hợp lai
Dài bắp (cm) ĐK bắp (cm) Số hàng hạt Số hạt/ hàng P1000 hạt(g)
HN HB HN HB HN HB HN HB HN HB
1 THL 1 17,9 15,7 4,6 4,7 13,0 12,3 34,9 29,9 402,1 392,9
2 THL 2 17,5 14,0 4,7 4,7 14,3 13,5 36,9 28,5 330,9 297,4
3 THL 3 20,2 17,4 4,7 5,0 13,1 14,4 44,3 36,1 387,8 314,7
4 THL 4 17,2 15,4 4,8 5,1 15,6 14,8 35,9 31,4 317,4 309,1
5 THL 5 16,7 14,3 4,8 5,2 15,1 13,9 35,3 30,6 333,4 347,7
6 THL 6 18,7 16,8 4,5 4,7 13,9 13,9 37,8 34,6 274,3 311,2
7 THL 7 18,1 14,8 4,8 4,9 13,2 14,0 36,3 31,7 335,4 314,4
8 THL 8 17,4 15,8 4,7 4,6 13,9 13,5 38,0 34,8 300,8 306,1
9 THL 9 20,5 16,3 5,0 4,9 15,1 13,9 37,6 32,7 370,7 385,1
10 THL 10 15,9 14,9 4,6 4,8 12,7 11,7 31,7 26,9 379,2 362,8
11 THL 11 17,0 14,5 4,5 4,7 12,6 12,8 36,7 31,4 334,7 317,4
12 THL 12 19,1 16,3 4,8 4,7 12,8 12,8 36,0 30,6 380,1 351,5
13 THL 13 16,2 13,9 5,2 5,2 15,0 14,4 33,0 27,1 365,8 381,6
14 THL 14 17,7 15,2 4,7 4,7 14,5 15,1 35,9 30,7 353,1 295,4
15 THL 15 18,0 15,4 5,3 5,6 16,1 16,4 34,9 30,5 350,9 354,3
16 THL 16 15,7 13,6 5,2 5,3 14,1 15,3 35,3 28,6 374,1 353,2
17 THL 17 16,0 13,0 4,7 4,6 13,7 13,7 34,2 29,3 333,3 311,3
18 THL 18 15,5 13,8 4,7 4,8 14,0 12,8 36,6 31,7 371,7 316,6
19 THL 19 18,4 15,9 4,8 4,9 14,4 14,1 38,8 34,3 343,7 319,1
20 THL 20 16,9 13,3 5,0 4,8 14,4 14,4 37,2 30,5 319,8 291,0
21 THL 21 17,1 17,0 4,6 5,2 13,2 12,1 37,3 33,7 339,3 359,6
22 THL 22 17,7 16,0 4,7 4,7 13,1 12,1 38,8 33,5 335,3 335,5
23 THL 23 14,5 15,1 4,6 4,8 13,6 14,0 36,7 33,6 286,2 297,6
24 CP511 15,9 13,5 5,2 5,1 14,8 14,9 35,6 29,9 354,4 320,9
25 NK7328 17,3 16,3 4,9 5,1 13,7 14,3 37,4 31,2 338,8 345,8
Trung bình 17,3 15,1 4,8 4,9 14,0 13,8 36,5 31,3 344,5 331,7
CV (%) 8,2 9,7 5,3 6,2 6,5 5,5 7,3 9,7 9,3 10,9
LSD0,05 1,9 1,6 0,2 0,3 1,3 1,2 3,4 4,9 31,2 26,6
Về độ lớn đường kính bắp, THL15 nổi trội nhất
khi đạt giá trị cao ở cả 2 điểm thí nghiệm (5,3 - 5,6
cm), cao hơn có ý nghĩa 2 giống đối chứng. Bên cạnh
đó một số tổ hợp lai cũng có đường kính bắp lớn hơn
2 giống đối chứng ở 1 trong 2 địa điểm nghiên cứu
là THL13, THL16 (Hà Nội) và THL17 (Hòa Bình).
Số hàng hạt trung bình của các tổ hợp lai ở hai
địa điểm Hà Nội và Hòa Bình là tương đương nhau,
lần lượt là 14,0 và 13,8 hàng hạt. Với chỉ tiêu này đạt
giá trị cao nhất là THL15 (16,1 - 16,4 hàng), cao hơn
2 đối chứng có ý nghĩa ở mức tin cậy 95% ở cả
2 điểm, các tổ hợp lai THL9, THL13 có số hàng hạt
nhiều hơn 2 đối chứng có ý nghĩa tại điểm Hà Nội.
Số hạt/hàng trung bình của các tổ hợp lai tại Hà Nội
(36,5 hạt/hàng) lớn hơn tại Hòa Bình (31,3 hạt/hàng).
Chỉ có duy nhất THL3 tại Hà Nội có số hạt/hàng cao
hơn hai giống đối chứng ở độ tin cậy 95%. Các tổ
hợp lai còn lại đều có số hạt/hàng tương đương 2 đối
chứng ngoại trừ THL10.
Nhìn chung, các tổ hợp lai trong thí nghiệm có
khối lượng (P) 1000 hạt cao ở cả 2 vùng sinh thái.
Kết quả khảo sát đánh giá tại 2 điểm thí nghiệm xác
định được 2 tổ hợp THL1, THL9 có P1000 hạt cao
nhất và cao hơn 2 đối chứng có ý nghĩa (p > 0,95).
Ngoài ra còn có 6 tổ hợp lai có P1000 hạt cao hơn
2 đối chứng tại 1 trong 2 địa điểm là THL3, THL10,
THL12, THL16, THL18 (Hà Nội) và THL13 (Hòa
Bình) (Bảng 2).
74
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
Hình 3. Biểu đồ năng suất của các tổ hợp lai tại Hà Nội và Hòa Bình trong vụ Thu 2019
Năng suất thực thu trung bình của các tổ hợp
lai tại Hà Nội là 84,9 tạ/ha, cao hơn tại Hòa Bình
(81,2 tạ/ha). Tại điểm thí nghiệm Hà Nội, 17/23 tổ
hợp lai có năng suất tương đương 2 giống đối chứng,
trong đó, 9 tổ hợp lai (gồm THL3, THL6, THL9,
THL15, THL16, THL18, THL19, THL20, THL21)
có năng suất đạt trên 90 tạ/ha. Tổ hợp lai THL15
có năng suất đạt cao nhất là 97,5 tạ/ha, cao hơn cả
2 đối chứng CP511 (83,2 tạ/ha) và NK7328 (92,8 tạ/ha)
có ý nghĩa ở mức tin cậy 95%. Tại Hòa Bình có
9/23 tổ hợp lai đạt năng suất trên 85 tạ/ha là THL3,
THL4, THL9, THL14, THL15, THL16, THL19,
THL21, THL22, trong đó, tổ hợp lai THL9 có năng
suất cao nhất là 101,4 tạ/ha, cao hơn 2 giống đối
chứng CP511 (84,3 tạ/ha) và NK7328 (90,1 tạ/ha)
có ý nghĩa thống kê ở độ tin cậy 95% (hình 3).
Năng suất của các tổ hợp lai triển vọng dao động
62,2 - 97,5 tạ/ha (Hà Nội), 62,5 - 101,4 tạ/ha (Hòa
Bình) cao hơn so với các tổ hợp lai đỉnh (năng suất
59,6 - 96,3 tạ/ha) trong nghiên cứu của Lương Thái
Hà và cộng tác viên (2019) và tương đương với các
tổ hợp lai trong nghiên cứu của Ngô Thị Minh Tâm
và cộng tác viên (2017).
Như vậy, qua kết quả khảo sát, đánh giá tại
2 vùng sinh thái đã xác định được 7 tổ hợp lai ưu
tú là THL3, THL9, THL15, THL16, THL19, THL21,
THL22. Các tổ hợp lai ưu tú này cần tiếp tục đánh
giá ở các vùng sinh thái khác nhau trong vụ tiếp theo
để đánh giá tính thích ứng của giống. Trong đó, đặc
biệt quan tâm THL9 và THL15 là 2 tổ hợp có năng
suất cao hơn 2 đối chứng có ý nghĩa ít nhất ở 1 điểm
thí nghiệm. Bên cạnh đó 2 tổ hợp lai này còn có các
đặc tính nông học nổi trội hơn các tổ hợp lai khác
như có dạng bắp to dài, khả năng chống chịu đổ và
bệnh hại tốt. Đây là 2 tổ hợp triển vọng phù hợp cho
mục tiêu phát triển giống ngô mới năng suất cao,
chống chịu tốt.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Đánh giá, xác định được 7 tổ hợp lai ưu tú là
THL3, THL9, THL15, THL16, THL19, THL21,
THL22 có đặc điểm nông sinh học tốt, chống chịu
với sâu bệnh, điều kiện bất thuận của môi trường
tốt và năng suất hạt tương đương đối chứng. Trong
đó, hai tổ hợp lai có năng suất cao nhất ở cả 2 điểm
thí nghiệm Hà Nội và Hòa Bình là THL9 (90,5 và
101,4 tạ/ha) và THL15 (97,5 và 88,6 tạ/ha). Các tổ
hợp lai ưu tú này tiếp tục được khảo nghiệm và đánh
giá tại các vùng sinh thái trong các vụ tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Công Thương, 2019. Báo cáo Xuất nhập khẩu Việt
Nam năm 2018. NXB Công thương. 217tr.
Lương Thái Hà, Trần Quang Diệu, Nguyễn Xuân
Thắng, 2019. Đánh giá khả năng kết hợp của một số
dòng ngô ngắn ngày triển vọng bằng phương pháp
lai đỉnh. Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp
Việt Nam, 100 (3): 48-53.
75
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(113)/2020
Ngô Thị Minh Tâm, Bùi Mạnh Cường, Nguyễn Văn
Trường, Ngụy Thị Hương Lan, Nguyễn Phúc
Quyết, Nguyễn Thị Ánh Thu, 2017. Đánh giá khả
năng kết hợp về năng suất chất xanh của một số
dòng ngô thuần. Tạp chí Nông nghiệp và PTNT, số
21/2017: 48-55.
QCVN 01-56:2011/BNNPTNT. Quy chuẩn kỹ thuật
Quốc gia về Khảo nghiệm giá trị canh tác và sử dụng
của giống ngô.
FAOSTAT, 2020. Data/production/crops, access on
30/3/2020. Available from: www.fao.org/faostat.
Evaluation of agronomic characteristics and yield performance
of potential maize crosses in Hanoi and Hoa Binh provinces
Nguyen Ngoc Diep, Nguyen Van Truong,
Ngo Thi Minh Tam, Nguyen Thi Kim Le, Dao Thi Thao,
Bui Duc Hai, Nguyen Nhu Tien, Bui Manh Cuong
Abstract
The evaluation experiment of potential maize crosses was conducted in the Autumn crop season in 2019 in Hanoi
and Hoa Binh for 23 promising hybrid combinations and 2 control varieties. The experiment was arranged in a
randomized complete block design (RCBD) with 3 replications. The results showed that the prospective hybrid
combinations in the experiment had a medium growth duration (108 - 112 days), good resistance to biotic and
abiotic stress. Seven excellent hybrid combinations were identified as: THL3, THL9, THL15, THL16, THL19, THL21,
THL22 with good agronomic characteristics, good resistance, adaptable to environmental conditions and grain yield
of over 85 quintals/ha in Hoa Binh and over 90 quintals/ha in Hanoi, especially the two combinations THL9 and
THL15 had the highest yield in both experimental sites. These hybrid combinations will continue to be tested and
evaluated in different regions and seasons to support for breeding program of high grain yield and good tolerance
maize variety.
Keywords: Grain yield, maize, potential crosses
Ngày nhận bài: 10/4/2020
Ngày phản biện: 20/4/2020
Người phản biện: TS. Phan Xuân Hào
Ngày duyệt đăng: 29/4/2020
1 Viện Nghiên cứu Ngô; 2 Khoa Nông học, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CÁC GIỐNG NGÔ LAI MỚI TẠI TỈNH THANH HÓA
Kiều Quang Luận1, Kiều Xuân Đàm1, Nguyễn Xuân Sinh1,
Hoàng Thị Thanh Hoa1, Nguyễn Thanh Tuấn2
TÓM TẮT
Trong vụ Thu Đông 2018 và Xuân 2019 tại tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành đánh giá khả năng sinh trưởng, phát
triển của một số giốngngô lai mới. Các thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối ngẫu nhiên hoàn toàn (RBCD) với
4 lần nhắc lại. Mật độ trồng 57.000 cây/ha; mức phân bón là 2.500 kg phân hữu cơ khoáng + 450 kg đạm Urê +
700 kg Lân Super + 200 kg Kaliclorua/ha. Kết quả cho thấy thời gian sinh trưởng của các giống ngô lai thí nghiệm ở
vụ Thu Đông 2018 biến động từ 97 - 99 ngày, ở vụ Xuân 2019 biến động từ 115 - 119 ngày, thuộc nhóm trung ngày,
phù hợp với điều kiện sinh thái và tập quán canh tác của người dân. Trong vụ Thu Đông 2018, giống TM18-3 có
năng suấtđạt 75,41 tạ/ha; Trong vụ Xuân 2019, giống TM18-3 có năng suất đạt 74,05 tạ/ha; giống VS201 có năng suất
đạt 74,53 tạ/ha. Đây là hai giống có năng suất cao, khá ổn định và tương đối thích nghi tại tỉnh Thanh Hóa.
Từkhóa: Giống ngô lai, năng suất, ổn định, sinh trưởng và phát triển
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Khảo nghiệm giống ngô lai mới tại các vùng sinh
thái là việc làm cần thiết trong quy trình chọn tạo
giống ngô lai. Giống mới được coi là tốt phải có năng
suất cao, các đặc tính nông học tốt, có tính ổn định,
tính thích nghi cao với các điều kiện môi trường
khác nhau để gia tăng độ tin cậy về giống (Kiều
Xuân Đàm, Trần Trung Kiên, 2017; Trần Trung Kiên
và ctv., 2017; Tsige, 2002; Freeman, 1990). Cơ cấu
giống ngô phù hợp cho năng suất cao và sinh trưởng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_danh_gia_dac_diem_nong_hoc_va_nang_suat_cua_cac_to.pdf