Khảo sát giải phẫu buồng tủy răng cối lớn thứ nhất

Nghiên cứu tiến hành trên hai mẫu: Mẫu răng khô gồm 17 RCL 1 HD và 36 RCL 1 HT, mẫu thứ hai là phim cắn cánh RCL 1 của 64 trẻ 7-9 tuổi và 25 người 50-65 tuổi, có thể rút ra các kết luận sau: 1. Theo chiều nhai nướu, trần buồng tủy nằm ngang mức CEJ chiếm tỷ lệ 54,72% các răng khô được nghiên cứu. Tỷ lệ răng có trần buồng tủy cao hoặc thấp hơn CEJ lần lượt là 18,87% và 26,41% với độ chênh lệch nhỏ hơn 0,5mm. CEJ là điểm mốc đáng tin cậy để xác định vị trí buồng tủy nhất là khi các phương tiện chẩn đoán hình ảnh để khảo sát giải phẫu bên trong buồng tủy không đầy đủ. 2. Khi chụp phim các răng khô theo kỹ thuật song song, đầu cone cách răng một khoảng cố định 10cm, tia X vuông góc với răng và tấm nhận tia, kết quả thu được các số đo trên phim và đo trực tiếp khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Như vậy có thể sử dụng phim cắn cánh để nghiên cứu về số đo hình thái buồng tủy. 3. Khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài gần lần lượt đến trần buồng tủy, CEJ và chẽ hai của RCL 1 HD ở nhóm 50-65 tuổi giảm so với nhóm 7-9 tuổi. Trong khi đó, chiều dày sàn tủy tăng ở nhóm 50-65 tuổi. 4. Trần buồng tủy trùng với CEL chiếm tỷ lệ 33% ở nhóm 7-9 tuổi và 39% ở nhóm 50-65 tuổi, trần buồng tủy cao hoặc thấp hơn CEL trung bình một khoảng nhỏ hơn 0,5mm. 5. Khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài gần đến trần buồng tủy là 6,4mm, điều này đưa ra một chỉ dẫn về chiều dài mũi khoan khi mở tủy trong điều trị nội nha. Đây là nghiên cứu bước đầu về số đo hình thái buồng tủy RCL1 trên người Việt Nam. Điều chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu này là ngoài những đặc điểm mô tả về hình thái được xem là có ích trên lâm sàng, số đo hình thái buồng tủy cũng có vai trò quan trọng, chúng ta có thể dựa vào những diểm mốc trên răng để tiên đoán trước vị trí buồng tủy bên trong. Tuy nhiên việc quan sát và đo đạc đại thể trên một mẫu nhỏ, số đo còn chưa bao quát cho nhiều nhóm tuổi, chưa khảo sát ảnh hưởng của giới tính trên kích thước buồng tủy là một yếu tố được nhiều tác giả quan tâm trong các nghiên cứu trước. Do đó cần tiếp tục thực hiện nghiên cứu không chỉ trên RCL1 mà còn các răng khác ở nhiều nhóm tuổi khác nhau, ở cả hai giới tính.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 83 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát giải phẫu buồng tủy răng cối lớn thứ nhất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 193 KHẢO SÁT GIẢI PHẪU BUỒNG TỦY RĂNG CỐI LỚN THỨ NHẤT Ngô Thị Quỳnh Lan*, Lữ Lam Thiên* TÓM TẮT Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan giữa trần buồng tủy với đường nối men-xê măng theo chiều nhai nướu và số đo giữa các điểm mốc giải phẫu của buồng tủy và của răng trên răng cối lớn thứ nhất ở người trẻ và người lớn tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Khảo sát trên 17 răng 6 hàm dưới và 36 răng 6 hàm trên đã nhổ mối liên quan giữa trần buồng tủy với đường nối men-xê măng theo chiều nhai nướu và các số đo giữa các điểm mốc của buồng tủy với điểm mốc của răng trên răng cối lớn thứ nhất và đối chiếu với phim X-quang của các răng này; so sánh trên phim X-quang mối liên quan giữa trần buồng tủy với đường nối men-cement và các số đo giữa các điểm mốc của buồng tủy với điểm mốc của răng trên răng cối lớn thứ nhất ở 100 phim cắn cánh (7-9 tuổi) và người lớn tuổi 41 phim cắn cánh (50-65 tuổi). Kết quả: Theo chiều nhai nướu, trần buồng tủy nằm ngang mức CEJ chiếm tỷ lệ 54,72% các răng khô được nghiên cứu, kết quả thu được các số đo trên phim và đo trực tiếp khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài gần lần lượt đến trần buồng tủy, CEJ và chẽ hai của RCL 1 HD ở nhóm 50- 65 tuổi giảm so với nhóm 7-9 tuổi. Trong khi đó, chiều dày sàn tủy tăng ở nhóm 50-65 tuổi. Khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài gần đến trần buồng tủy là 6,4mm. Kết luận: CEJ là điểm mốc đáng tin cậy để xác định vị trí buồng tủy nhất là khi các phương tiện chẩn đoán hình ảnh để khảo sát giải phẫu bên trong buồng tủy không đầy đủ. Từ khóa: Hốc tùy, buống tủy, sừng tủy, sàn buồng tủy. ABSTRACT ANATOMY OF PULP CHAMBER OF FIRST MOLARS Ngo Thi Quynh Lan, Lu Lam Thien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 193 - 200 Objectives: The aim of this study was to evaluate the relation between the pulp chamber roof and cemento- enamel junction in occluso-gingival dimension as well as measurements of distances between anatomical landmarks of pulp chamber and of the tooth on first molars on young people and aged adults. Materials and method: The relation between the pulp chamber roof and cemento-enamel junction in occluso-gingival dimension as well as measurements of distances between anatomical landmarks of pulp chamber and of the tooth were studied on 17 extracted lower first molars and 36 upper ones. This relation was then evaluated on 100 bitewing X-rays (7-9-years-old people) and 41 ones (50-65 years-old). Results: The pulp chamber roof was on the same level with the CEJ occluso-gingivally in 54.72% of studied teeth. There was no significant difference between measurements on X-rays and on teeth. The distances between mesio-buccal cusp tip and the pulp chamber roof, CEJ, bi-furcation of lower first molars were smaller in 50-65 years-old people and vice versa for the height of pulp chamber floor. The average distance from the mesio-buccal cusp tip to the pulp chamber roof was 6.4mm. Conclusions: CEJ was concluded to be a reliable landmark to help locate the pulp chamber, especially with insufficient diagnostic imaging of its internal anatomy. *: Khoa RHM, Đại học Y Dược TP HCM Tác giả liên lạc: PGS.TS. Ngô Thị Quỳnh Lan ĐT: 0903125864; Email: ngothiquynhlan@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 194 Key words: Pulp cavity, Pulp chamber, Pulp horn, pulp chamber floor, pulp chamber roof. ĐẶT VẤN ĐỀ Trên thế giới cũng như trong nước, hình dạng hốc tủy đã được nhiều tác giả nghiên cứu bằng nhiều phương pháp khác nhau như: khử khoáng và bơm celluloid lỏng vào hốc tủy; nhuộm màu tủy bằng Eosin Alcool và xem mẫu mài dưới kính hiển vi; khử khoáng và bơm mực vào hốc tủy và Tạ Tố Trân (2003)(12) nghiên cứu trên răng khô được làm trong suốt. Tuy nhiên, các tác giả chỉ nghiên cứu định tính về hình dạng của buồng tủy, số lượng và chiều hướng ống tủy. Trong khi đó nghiên cứu liên quan về số đo hình thái và những điểm mốc giải phẫu trong buồng tủy thì khá ít, do những số đo về hình thái buồng tủy được cho là không có ích trên lâm sàng, vì sự khác biệt lớn trong kích thước toàn bộ của răng cối lớn, hơn nữa kích thước buồng tủy giảm dần theo sự tích tuổi dẫn đến việc cho rằng hình thể của buồng tủy cũng rất khác nhau. Quan điểm trên đang dần thay đổi qua những nghiên cứu gần đây của các tác giả Deutsch (2004)(2), Paul (2004)(7), Natanasabapathy (2008)(6). Các nghiên cứu này đã chỉ ra rằng: mặc dù mỗi răng là duy nhất, một số đặc điểm trong buồng tủy răng cối lớn được xác định là giống nhau cho hầu hết răng như đường nối men-xê măng là mốc hướng dẫn đáng tin cậy để mở tủy, những điểm mốc giải phẫu xác định vị trí buồng tủy, số đo về hình thái buồng tủy...Điều này có vẻ mâu thuẫn so với quan niệm trước. Chính vì vậy với mong muốn có được những số liệu hình thái học cơ bản đầu tiên tại Việt Nam về buồng tủy răng cối lớn vĩnh viễn thứ nhất hàm trên và hàm dưới, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu tổng quát: “Khảo sát mối liên quan giữa trần buồng tủy với đường nối men-xê măng theo chiều nhai nướu và số đo giữa các điểm mốc giải phẫu của buồng tủy và của răng trên răng cối lớn thứ nhất ở người trẻ và người lớn tuổi” . PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu cắt ngang mô tả, gồm hai phần: - Khảo sát trên răng đã nhổ mối liên quan giữa trần buồng tủy với đường nối men-xê măng theo chiều nhai nướu và các số đo giữa các điểm mốc của buồng tủy với điểm mốc của răng trên răng cối lớn thứ nhất và đối chiếu với phim X-quang của các răng này. Mẫu này gồm 17 răng 6 hàm dưới và 36 răng 6 hàm trên (thân răng còn nguyên vẹn hoặc có lỗ sâu nhỏ chưa ảnh hưởng tới tủy; răng chưa điều trị; răng không bị nứt gãy). - So sánh trên phim X-quang mối liên quan giữa trần buồng tủy với đường nối men-cement và các số đo giữa các điểm mốc của buồng tủy với điểm mốc của răng trên răng cối lớn thứ nhất ở người trẻ (7-9 tuổi) và người lớn tuổi (50- 65 tuổi). Nhóm trẻ gồm 100 phim cắn cánh của 64 trẻ em 7-9 tuổi; nhóm lớn tuổi gồm 41 phim cắn cánh của răng cối lớn thứ nhất (không phân biệt phải trái) của 25 người từ 50 đến 65 tuổi. - Phần mềm VixWin- 2000. - Phần mềm xử lý ảnh SIDEXIS của Dentsply (Mỹ). - Phần mềm Máy vi tính: PC Intel 440 BX/2X, Pentium III-MMX 550 MHz, RAM 64 MB, monitor Samsung Syncmaster 450 Nb, display adapter Trio 3D/2X. Quy trình thực hiện Trên răng khô Bước 1: Thu thập và bảo quản răng. Bước 2: Chụp phim các răng, cố định răng trên mẫu hàm bằng nhựa theo chiều gần xa, mặt nhai răng song song với sàn nhà. Tiến hành chụp phim tia X kỹ thuật số các răng theo kỹ thuật song song. Bước 3: Cắt răng, vẽ đường vòng quanh răng: xác định mặt phẳng đi qua giữa răng theo chiều gần xa. Cắt răng theo đường đã vẽ. Sử dụng mảnh răng phía ngoài. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 195 Bước 4 : Tiến hành quan sát và đo đạc Quan sát vị trí CEJ và trần buồng tủy với ghi nhận: - CEJ trùng trần buồng tủy: 0 - CEJ cao hơn: (-) - CEJ thấp hơn: (+) Dùng thước trượt điện tử với độ chính xác 0,01mm để đo răng khô, phần mềm Vix Win- 2000 để đo trên phim. Lần lượt đo và ghi nhận các số đo sau (Hình 1): - A (mm): Khoảng cách từ đỉnh múi ngoài gần-đường nối men- xê măng. - B (mm): Khoảng cách từ đỉnh múi ngoài gần-điểm thấp nhất của trần buồng tủy. - C (mm): Khoảng cách từ đỉnh múi ngoài gần - điểm thấp nhất của chẽ hai/chẽ ba. - D (mm): Khoảng cách từ sàn buồng tủy - điểm thấp nhất của chẽ 2/chẽ 3. So sánh kết quả trên răng khô và trên phim (Hình 2). Trên phim X quang Bước 1: Thu thập mẫu - Nhóm 7-9 tuổi: chọn 100 phim cắn cánh đạt chuẩn. - Nhóm 50-65 tuổi: Chụp phim cắn cánh theo kỹ thuật song song RCL 1 cho 25 người. Bước 2: Tiến hành đo đạc. Do kỹ thuật chụp phim, răng cối lớn thứ nhất hàm trên thường không thấy rõ chẽ ba nên chúng tôi chỉ đo đạc trên răng cối lớn thứ nhất hàm dưới trên mẫu này. Sử dụng phần mềm VixWin- 2000 đo đạc các số đo A, B, C, D như trên (Hình 3 và 4). Sử dụng phần mềm Excel để nhập số liệu và phần mềm SPSS để xử lý thống kê. Hình 3: Phim cắn cánh a. Người 50 tuổi; b. Trẻ 9 tuổi. a b a b Hình 2: Khoảng cách từ đỉnh múi ngoài đến trần buồng tủy: a. Đo trực tiếp b. Đo trên phim. Hình 1: Các kích thước đo trên răng. A B D C Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 196 KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Mối liên quan giữa trần buồng tủy và đường nối men-xê măng Dùng thước trượt điện tử đo các khoảng cách A, B, C, D trên 17 RCL1HD và 36 RCL1HT cắt theo chiều gần xa và Phần mềm VixWin- 2000 đo các khoảng cách A1, B1, C1, D1 trên phim của chính các răng đó. Kết quả được trình bày ở Bảng 1. Bảng 1: Khoảng cách trung bình giữa các điểm mốc giải phẫu buồng tủy với điểm mốc RCL1 HT và HD đo trực tiếp trên răng (ABCD) và đo trên phim (A1B1C1D1) (mm). Đo trực tiếp trên răng Đo trên phim P TB ĐLC KTC (95%) TB ĐLC KTC (95%) RCL1 HT (n=36) A B C D 6,66 6,69 11,37 3,27 0,55 0,57 1,18 0,54 6,48-6,85 6,49-6,88 10,97-11,77 3,09-3,45 A1 B1 C1 D1 6,72 6,70 11,32 3,29 0,54 0,56 1,09 0,52 6,47-6,84 6,50-6,88 10,95-11,69 3,12-3,47 0,551 0,952 0,422 0,180 RCL1 HD (n=17) A B C D 5,66 5,70 9,81 2,91 0,60 0,36 0,65 0,61 5,35-5,97 5,51-5,88 9,48-10,14 2,60-3,22 A1 B1 C1 D1 5,67 5,69 9,79 2,96 0,56 0,34 0,60 0,56 5,38-5,96 5,51-5,86 9,50-10,11 2,60-3,27 0,535 0,894 0,937 0,260 Phép kiểm định t-test bắt cặp để so sánh kết quả khi đo trực tiếp và đo trên phim. Kết quả cho thấy khoảng cách từ đỉnh múi ngoài gần đến trần tủy ở RCL1HT cao hơn RCL1HD gần 1mm, các khoảng cách A, B, C, D và A1, B1, C1, D1 khác biệt không có ý nghĩa thống kê khi đo trực tiếp và đo trên phim với p > 0,05. Để tìm ra những điểm mốc giải phẫu giúp định vị buồng tủy răng cối lớn thứ nhất tốt hơn, chúng tôi so sánh vị trí trần buồng tủy với đường nối men-xê măng (CEJ), là điểm mốc không thay đổi trong suốt đời sống. So sánh giá trị trung bình của A và B, đồng thời lấy A trừ B để xác định chính xác mức độ chênh lệch nếu có giữa CEJ và trần buồng tủy. Sử dụng phép kiểm định t-test bắt cặp để so sánh khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài đến CEJ với khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài đến trần buồng tủy ở RCL1 HT và RCL1 HD (Bảng 2). Bảng 2: So sánh mối tương quan giữa khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài đến CEJ với khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài đến trần buồng tủy ở RCL 1 HT và RCL 1 HD. RCL 1 HT (n=36) p 1 RCL 1 HD (n=17) p 2 TB ĐLC TB ĐLC A B 6,66 6,69 0,55 0,57 0,652 5,66 5,70 0,60 0,36 0,613 Khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài đến CEJ với khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài đến trần buồng tủy khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p1, p2 > 0,05 ở cả RCL1HT và RCL1HD, điều này có nghĩa nếu xét trên số trung bình thì trần buồng tủy nằm ngang mức CEJ trong các răng nghiên cứu. Trong các nghiên cứu trước đây, các tác giả đã tìm ra những qui luật đặc thù giúp nhà lâm sàng hình dung được hình ảnh buồng tủy ở bất kỳ răng nào bằng cách dựa vào hình dạng CEJ. Trong nghiên cứu của chúng tôi CEJ được dùng như một điểm mốc để xác định vị trí của buồng tủy ở RCL1. Trên mẫu răng khô, khi so sánh khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài gần lần lượt đến CEJ và trần buồng tủy, nhận thấy rằng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa hai khoảng Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 197 cách này thể hiện có thể xem trần buồng tủy nằm ngang mức CEJ ở cả RCL1HT và RCL1HD. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Deutsch(2), CEJ nằm ngang mức trần buồng tủy chiếm tỷ lệ 98% ở răng cối lớn HT, 97% ở răng cối lớn HD; Natanasabapathy(6) trần buồng tủy nằm ngang CEJ ở 96% các RCL1HT được nghiên cứu. Tuy nhiên, nếu chỉ xét trên số trung bình thì không cho thấy chính xác mức độ trần buồng tủy cao hoặc thấp hơn CEJ bao nhiêu ở những răng có trần buồng tủy không trùng với CEJ. Vì vậy, chúng tôi còn tiến hành so sánh một cách chi tiết hơn bằng cách lấy A trừ B bắt cặp từng răng để xác định độ chênh lệch giữa CEJ và trần buồng tủy. Kết quả cho thấy độ chênh lệch này rất ít dưới 0,5mm, và tỷ lệ các nhóm có trần buồng tủy cao hơn CEJ và thấp hơn CEJ gần như tương đương nhau (mỗi nhóm chiếm khoảng 33%). Nghiên cứu của Deutsch(2) tiến hành trên RCL ở người Mỹ, Natanasabapathy(6) tiến hành trên RCL ở người Ấn Độ, và nghiên cứu này tiến hành trên RCL ở người Việt Nam, kết quả thu được gần như giống nhau. Điều này có nghĩa là trần buồng tủy nằm ngang mức CEJ ở các cộng đồng người khác nhau. So sánh kết quả khảo sát trên phim cắn cánh ở hai nhóm 7-9 tuổi và 50-65 tuổi Bảng 3: Khoảng cách trung bình giữa các điểm mốc giải phẫu buồng tủy với điểm mốc của RCL1 HD ở nhóm 7- 9 tuổi và 50-65 tuổi (mm). 7-9 tuổi (n=100) p 50-65 tuổi (n=41) TB ĐLC KTC (95%) TB ĐLC KTC (95%) A B C D 6,47 6,41 10,11 1,94 0,43 0,47 0,63 0,33 6,38-6,55 6,31-6,50 9,98-10,23 1,88-2,01 0,000 0,000 0,001 0,000 5,71 5,94 9,53 3,12 0,58 0,66 0,98 0,40 5,53-5,90 5,73-6,15 9,22-9,84 3,00-3,25 Cũng giống như nghiên cứu của Leila(4) chúng tôi tìm thấy khoảng cách từ đỉnh múi ngoài đến chẽ hai hay chẽ ba ở RCL1HT lớn hơn RCL1HD khoảng 1mm, ngoài ra chiều dài sàn tủy ở RCL1HT lớn hơn RCL1HD 1 mm. Khoảng cách trung bình từ đỉnh núi ngoài gần lần lượt đến trần buồng tủy, đến CEJ, đến chẽ hai ở nhóm 50-65 tuổi thấp hơn nhóm 7-9 tuổi, riêng độ dày của sàn tủy (D) ở 50-65 tuổi cao hơn nhiều nhóm 7-9 tuổi, có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê ở hai nhóm nghiên cứu với p  0,05. Khi so sánh khoảng cách trung bình giữa các điểm mốc giải phẫu buồng tủy với điểm mốc trên răng, các số đo A, B, C giảm ở nhóm 50-65 tuổi so với nhóm 7-9 tuổi. Điều này có thể được lý giải như một quá trình già đi của răng. Trong suốt thời gian răng còn tồn tại trên cung hàm và thực hiện chức năng ăn nhai, quá trình nhai mòn diễn ra chậm, từ từ và liên tục đưa đến giảm chiều cao thân răng càng lớn tuổi răng càng mòn nhiều. Trong khi đó, chiều dày sàn tủy (D) tăng từ 1,94mm ở trẻ 7-9 tuổi lên 3,12mm ở người từ 50- 65 tuổi, khoảng cách từ đỉnh múi đến trần tủy ở nhóm người lớn tuổi thấp hơn nhóm người trẻ một khoảng nhỏ hơn 1mm. Điều này cho thấy, việc bồi đấp ngà thứ cấp sinh lý diễn ra ở sàn Hình 4: Trần buồng tủy trùng CEJ: RCL1 H; b. RCL 1 HD. a b Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 198 tủy nhiều hơn trần tủy phù hợp với nghiên cứu của Philippas(9) và Shaw, Jones(10). Theo Philippas(9) sự lắng đọng ngà ở sàn buồng tủy của răng nhiều chân lớn hơn trần và thành tủy là do giảm tiềm năng tăng trưởng của nguyên bào ngà ở thân răng. Như vậy khi điều trị nội nha RCL1 người trẻ các nhà lâm sàng chỉ có một khoảng an toàn rất nhỏ khoảng 2 mm trước khi các dụng cụ như mũi khoan hoặc trâm quay xuyên qua sàn tủy vào chia chân Nghiên cứu của Deutsch(2) chỉ ra rằng khoảng cách từ bất kì đỉnh múi nào đến trần tủy của RCL ở mức 6,3mm, trong khi đó trong nghiên cứu này khoảng cách này là 6,41mm ở nhóm 7-9 tuổi và giảm còn 5,94mm ở nhóm 50- 65 tuổi. Sự khác biệt có thể do tính đa dạng của các phương pháp nghiên cứu (Deutsch nghiên cứu trên răng khô, chúng tôi nghiên cứu trên phim cắn cánh). Khoảng cách này có liên quan đến chiều dài mũi khoan để mở tủy. Khi mở tủy nếu chúng ta dùng mũi khoan tròn No.4 có chiều dài là 6,5mm, với chiều dài này mũi khoan hầu như nằm ở mức trần buồng tủy. Khi tất cả số đo được tập hợp lại, có thể gợi ý phương pháp tiếp cận bán định lượng đối với kỹ thuật mở tủy. Theo cổ điển, chúng ta dựa vào cảm giác “sụp hầm” để biết được mũi khoan đi qua trần tủy vào trong buồng tủy. Điều này được cảm thấy nhờ đường kính mũi khoan tròn No.4 thường dùng mở tủy là 1,35mm mà chiều cao trung bình của buồng tủy gần 2mm. Khi buồng tủy canxi hóa, đường kính mũi khoan tròn lớn hơn chiều cao buồng tủy, cảm giác “sụp hầm” sẽ không xảy ra. Nếu trông chờ vào cảm giác này, thủng sàn có khả năng xảy ra. Chính vì vậy, thay vì phải dựa vào cảm giác có thể không có, có nên chuyển kỹ thuật định tính trên thành kỹ thuật bán định lượng và dự đoán bằng cách chuẩn hóa chiều dài mũi khoan cho phù hợp với chiều cao từ đỉnh múi đến trần tủy? Nghiên cứu này cho kết quả khoảng cách này ở mức 6,4mm. Để có lời khuyên chính xác, cần nghiên cứu trên mẫu lớn hơn và ở nhiều lứa tuổi khác nhau để cho các số đo đáng tin cậy hơn. Vấn đề được đặt ra là trong suốt đời sống của răng, sự thành lập ngà thứ cấp sinh lý làm thu hẹp dần hốc tủy. Kết quả đo đạc trên răng khô có thật sự đúng cho răng ở các nhóm tuổi khác nhau hay không, nghiên cứu của các tác giả trước không nói lên điều này. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên phim cắn cánh ở hai nhóm tuổi khác nhau để so sánh. Kết quả nghiên cứu cho thấy trần buồng tủy trùng với CEJ là 33% ở nhóm 7-9 tuổi và 39% ở người lớn tuổi, trần buồng tủy cao hoặc thấp hơn CEJ trung bình một khoảng nhỏ hơn 0,5mm. Bảng 4: So sánh vị trí tương đối của trần buồng tủy so với CEJ ở nhóm 7-9 tuổi và 50-65 tuổi. 7-9 tuổi (n=100) 50-65 tuổi (n=41) p n % n % Cao hơn 43 33,33 4 9,76 0,010 Trùng 33 34,75 16 39,00 Thấphơn 24 31,92 21 51,24 Khi tuổi càng cao sự tích tụ của ngà thứ cấp làm buồng tủy hẹp dần và trần buồng tủy sẽ thấp xuống. Chính vì vậy, tỷ lệ trần buồng tủy thấp hơn CEJ tăng từ 24% ở nhóm người trẻ lên 51,24% ở người lớn tuổi. Tuy nhiên, sự chênh lệch này là rất ít nhỏ hơn 0,5mm. Điều này có thể gây ngạc nhiên vì nhiều hình minh họa trong sách giáo khoa cho thấy buồng tủy mở rộng trong thân răng lâm sàng. Nguyên nhân là do sừng tủy nhô cao về phía đỉnh múi làm chúng ta cho rằng trần tủy cũng nhô cao. Nghiên cứu của chúng tôi tìm ra rằng trần buồng tủy nằm ở vị trí rất thấp gần như trùng với CEJ ở người trẻ và người lớn tuổi. Phát hiện này giúp có cái nhìn thấu đáo hơn về giải phẫu bên trong RCL 1 đồng thời cũng giúp ích trong điều trị nội nha mà cụ thể là giai đoạn mở tủy. Công việc mở tủy sẽ giảm thiểu rủi ro nếu chúng ta dùng CEJ như chỉ dẫn về vị trí buồng tủy hơn là tuân theo những tiêu chuẩn được đưa ra dựa trên thân răng còn nguyên vẹn như trong lý thuyết. CEJ thường quan sát được ngay cả khi răng dị dạng, bị phá hủy lớn. Vì vậy, căn cứ vào CEJ việc mở tủy trở nên đáng tin cậy hơn là dựa vào cảm giác tay của bác sĩ bằng cách đặt một nút Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 199 chặn cách đầu tác dụng của mũi khoan cho phù hợp với chiều cao từ múi ngoài đến CEJ. Khi mở tủy chiều dài mũi khoan giữ ở mức này là đã vào được buồng tủy RCL mà không có nguy cơ thủng sàn, miễn là mũi khoan đi đúng hướng trung tâm của buồng tủy. Ở những răng buồng tủy bị caxi hóa, với khoảng cách đó chúng ta đã vào được giữa buồng tủy trước khi sự canxi hóa xảy ra, điều này cho một vị trí bắt đầu chính xác để tìm kiếm các ống tủy nhanh chóng và dễ dàng hơn. KẾT LUẬN Nghiên cứu tiến hành trên hai mẫu: Mẫu răng khô gồm 17 RCL 1 HD và 36 RCL 1 HT, mẫu thứ hai là phim cắn cánh RCL 1 của 64 trẻ 7-9 tuổi và 25 người 50-65 tuổi, có thể rút ra các kết luận sau: 1. Theo chiều nhai nướu, trần buồng tủy nằm ngang mức CEJ chiếm tỷ lệ 54,72% các răng khô được nghiên cứu. Tỷ lệ răng có trần buồng tủy cao hoặc thấp hơn CEJ lần lượt là 18,87% và 26,41% với độ chênh lệch nhỏ hơn 0,5mm. CEJ là điểm mốc đáng tin cậy để xác định vị trí buồng tủy nhất là khi các phương tiện chẩn đoán hình ảnh để khảo sát giải phẫu bên trong buồng tủy không đầy đủ. 2. Khi chụp phim các răng khô theo kỹ thuật song song, đầu cone cách răng một khoảng cố định 10cm, tia X vuông góc với răng và tấm nhận tia, kết quả thu được các số đo trên phim và đo trực tiếp khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Như vậy có thể sử dụng phim cắn cánh để nghiên cứu về số đo hình thái buồng tủy. 3. Khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài gần lần lượt đến trần buồng tủy, CEJ và chẽ hai của RCL 1 HD ở nhóm 50-65 tuổi giảm so với nhóm 7-9 tuổi. Trong khi đó, chiều dày sàn tủy tăng ở nhóm 50-65 tuổi. 4. Trần buồng tủy trùng với CEL chiếm tỷ lệ 33% ở nhóm 7-9 tuổi và 39% ở nhóm 50-65 tuổi, trần buồng tủy cao hoặc thấp hơn CEL trung bình một khoảng nhỏ hơn 0,5mm. 5. Khoảng cách trung bình từ đỉnh múi ngoài gần đến trần buồng tủy là 6,4mm, điều này đưa ra một chỉ dẫn về chiều dài mũi khoan khi mở tủy trong điều trị nội nha. Đây là nghiên cứu bước đầu về số đo hình thái buồng tủy RCL1 trên người Việt Nam. Điều chúng tôi tìm thấy trong nghiên cứu này là ngoài những đặc điểm mô tả về hình thái được xem là có ích trên lâm sàng, số đo hình thái buồng tủy cũng có vai trò quan trọng, chúng ta có thể dựa vào những diểm mốc trên răng để tiên đoán trước vị trí buồng tủy bên trong. Tuy nhiên việc quan sát và đo đạc đại thể trên một mẫu nhỏ, số đo còn chưa bao quát cho nhiều nhóm tuổi, chưa khảo sát ảnh hưởng của giới tính trên kích thước buồng tủy là một yếu tố được nhiều tác giả quan tâm trong các nghiên cứu trước. Do đó cần tiếp tục thực hiện nghiên cứu không chỉ trên RCL1 mà còn các răng khác ở nhiều nhóm tuổi khác nhau, ở cả hai giới tính. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Deutsch A.S., Musikant B.L. (2005). “ Morphological measurements of Anatomic Landmarks in pulp chamber of human maxilalry and furcated bicuspids”. Journal Endodontic. 31. pp. 570-573. 2. Deutsch A.S., Musikant B.L., Gus, Isidro M. (2004). “ Morphological measurements of Anatomic Landmarks in human maxillary and mandibular molar pulp chamber”. Journal Endodontic. 30. pp. 388-390. 3. Joseph R., Natanasabapathy V., Dei V. (2008). “The evaluation of root canal Morphology of the Mandibular first molar in an Indian population using Spiral Computed tomography Scan: An In vitro in front of Study”. Journal of Endodontics. 34(2). pp. 212-215. 4. Leila K., Naser R., A Kbar K. (2008). “ Morphologic measurements of anatomic landmarks in pulp chambers of human first molars: a study of bite wing radiographs”. Iranian Endodontic Journal. 1. pp. 147-151. 5. Majzoub Z., Kon (1992). “Footh morphology following root resection procedures in malaxillary first molars”. Jounal of Clinical Peridontal. 63. pp. 290-296. 6. Natanasabapathy V., Nagendrabadu V., Mohan A., Deivanayagam K. (2008). “Evaluation of the pulp chamber size of human maxillary first molars: An instituation based in vitro Study”. Indian Journal Dent Res. 19(2). 7. Paul K., Rankow H. (2004). “Anantomy of the pulp-chamber floor”. JEndod. 30. pp. 5-16. 8. Piyush R., Girija S. (2000). “ Unravelling the mysteries of pulp chamber”. Journal Endodontic. 32. pp. 70-73. 9. Philippas GG (1961). “Influence of occlusal wear and age on formation of dentin and size of pulp chamber”. J Dent Res. 40. pp. 1186-1196. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Chuyên Đề Răng Hàm Mặt 200 10. Shaw L., Jones A.D. (1984). “Morphological consideration of the dental pulp chamber from radiographs of molar and premolar teeth”. Jounal Dentistry. 12. pp. 139-145. 11. Somporn P., S.Brent D., James A., Cottone (1992). “Morphometric analysis of the dental pulp chamber as a method of age determination in humans”. The American Jounal of Forensic Medicine and Pathology. 13(1). pp. 50-55. 12. Sterrett J.B, Pelletier H., Russel C.M. (1996). “Tooth thickness at the Furcation entrance of lower molar”. Journal of Clinical Peridontal. 23. pp. 611-617. 13. Tạ Tố Trân (2003). “Hình thái hốc tủy răng cửa giữa và răng nanh hàm trên nghiên cứu trên răng thật được làm trong suốt”. Tiểu luận tốt nghiệp Bác Sĩ Răng Hàm Mặt. 14. Zilberman V., Smith P. (2000). “Sex and age – related differences in primary and secondary dentin formation”. Adv Dent Res. August; 15. pp. 42-45.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_giai_phau_buong_tuy_rang_coi_lon_thu_nhat.pdf
Tài liệu liên quan