Về điều trị RLC
Trước khi áp dụng các phương pháp điều trị
cho bệnh nhân RLC, việc hướng dẫn bệnh nhân
thay đổi lối sống cũng như những thuốc đang sử
dụng cho các bệnh khác là không thể thiếu(1,2,3).
Trong kết quả nghiên cứu 90% chọn đúng nội
dung này.
Có hai nhóm điều trị chính: điều trị đặc hiệu
theo nguyên nhân và điều trị không đặc hiệu
(hình 2)(3).
Như đã nói đến ở phần chẩn đoán có ba
nguyên nhân RLC có thể điều trị đặc hiệu, các
biện pháp điều trị đặc hiệu là: (1) Tư vấn tâm
lý tình dục (RLC đơn thuần do nguyên nhân
tâm lý chỉ chiếm 10% nên đây không phải là
phương pháp điều trị chủ yếu và quan trọng),
(2) Liệu pháp nội tiết và (3) Phẫu thuật mạch
máu. Tuy nhiên nhiều bác sĩ vẫn còn nhầm lẫn
và cho rằng tâm lý liệu pháp là phương pháp
điều trị chính và quan trọng trong RLC với
80% chọn phát biểu “Điều trị RLC chủ yếu và
quan trọng nhất là tâm lý liệu pháp vì đây là
nguyên nhân chính của RLC” là đúng.
Các biện pháp điều trị không đặc hiệu tỏ ra
có hiệu quả trong đa số trường hợp RLC. Điều
trị không đặc hiệu gồm 3 bước(2,3):
- Trị liệu bước một: Gồm các thuốc uống,
tâm lý liệu pháp và bơm hút chân không. Các
thuốc uống bao gồm các thuốc ức chế men PDE-
5, Apomorphine, yohimbine, trazodone , trong
đó các thuốc ức chế men PDE-5 (gồm sildenafil,
vardenafil và tadalafil) có hiệu quả nhiều nhất
trên lâm sàng (khoảng 80%).
- Trị liệu bước hai: tiêm thuốc thể hang.
- Trị liệu bước ba: phẫu thuật đặt thể hang giả.
Chống chỉ định tuyệt đối của các thuốc ức
chế men PDE-5 là bệnh nhân đang dùng thuốc
có nitrat, vì sự dùng kết hợp 2 nhóm thuốc này
gây ra sự hạ huyết áp nguy hiểm(1,4).
Để đánh giá đúng hiệu quả của các thuốc ức
chế men PDE-5, bệnh nhân cần được hướng dẫn
cách sử dụng thuốc đúng cách và dùng ít nhất 4
liều trước khi đưa ra kết luận về hiệu quả của
thuốc. Nhiều nghiên cứu cho thấy một số bệnh
nhân được cho là không có đáp ứng khi dùng
thuốc ức chế men PDE-5 thực ra là do chưa dùng
tới liều tối đa của thuốc, uống thuốc ngay sau
khi ăn no, hoạt động tình dục ngay sau khi uống
thuốc hoặc không có kích thích tình dục trước đó
để đạt được sự cương đầy đủ(4).
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 29/01/2022 | Lượt xem: 181 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát khuynh hướng hiện nay trong chẩn đoán và điều trị rối loạn cương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa 1
KHẢO SÁT KHUYNH HƯỚNG HIỆN NAY TRONG CHẨN ĐOÁN
VÀ ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN CƯƠNG
Phạm Nam Việt*, Nguyễn Hoàng Đức*, Trần Lê Linh Phương*, Từ Thành Trí Dũng*
TÓM TẮT
Mục đích: Khảo sát khuynh hướng hiện nay trong chẩn đoán và điều trị rối loạn cương (RLC).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 150 bảng câu hỏi được gửi đến các bác sĩ tham gia hội nghị
thường niên Hội Tiết niệu-Thận học TP.HCM năm 2007 (tổ chức tại Kiên Giang). Tỷ lệ tham gia trả lời là 40%.
Kết quả: 100% bác sĩ tham gia trả lời có khám và điều trị RLC, trong đó 60% chưa được tập huấn về nam
khoa, 40% không cập nhật thông tin về RLC và 98,3% cần tham gia các lớp tập huấn về nam khoa. Các trả lời
liên quan đến chẩn đoán và điều trị RLC chưa nhất quán và có nhiều điểm khác biệt với so với hướng dẫn của
Hội Niệu Khoa Châu Âu.
Kết luận: Tại Việt Nam, phác đồ chẩn đoán và điều trị RLC chưa thống nhất, nhiều bác sĩ chưa được tập
huấn và không cập nhật thông tin về RLC. Cần có sự thống nhất về phác đồ chẩn đoán và điều trị RLC cũng như
tổ chức các khóa tập huấn, cập nhật thông tin về RLC cho các bác sĩ có nhu cầu.
ABSTRACT
CURRENT TRENDS IN THE DIAGNOSIC AND TREATMENT OF ERECTILE DYSFUNCTION
Pham Nam Viet, Nguyen Hoang Duc, Tran Le Linh Phuong, Tu Thanh Tri Dung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 276 - 281
Objectives: To evaluate current trends in the diagnosis and treatment of erectile dysfunction (ED) among
doctors who give treatment for this problem in Vietnam.
Material and methods: During the annual meeting of the Society of Urology and Nephrology of HCM city
in 2007 in Kien Giang Province, 150 questionnaires were sent to attendants. Rate of responders was 40%.
Results: 100% of responders have treating ED in their daily practice. 60% of responders never attend any
andrology course. 40% of responders do not update their knowledge in andrology. 98.3% of responders have the
need to study and update in andrology. Answers for diagnosis and treatment of ED are not homogenous,
consistent and so diffirent from the EAU guidelines.
Conclusion: It is necessary to have the guidelines on erectile dysfunction and training courses in andrology
in Vietnam.
MỞ ĐẦU
Rối loạn cương (RLC) là tình trạng người
đàn ông không thể đạt tới hay duy trì được sự
cương dương vật đủ cứng để giao hợp thỏa
mãn(1,2). Vì RLC thường đi kèm với những bệnh
mạn tính như đái tháo đường, bệnh tim mạch,
suy thận mạn và những bệnh lý thần kinhnên
các bác sĩ thuộc nhiều lĩnh vực chuyên khoa
khác nhau đều có thể gặp những bệnh nhân
này(2). RLC có ảnh hưởng xấu trên sự tự tin của
bản thân, chất lượng sống và có thể gây tổn hại
mối quan hệ vợ chồng(1,2).
RLC là một bệnh lý thường gặp. Nghiên
cứu Massachusetts ở nam giới lớn tuổi
(MMAS) được tiến hành trên 1290 đàn ông ở
tuổi từ 40-70 ở Hoa Kỳ, ghi nhận 52% có RLC,
trong đó RLC nhẹ chiếm 17,1%, trung bình
25,2% và RLC hoàn toàn 9,6%(1). Tại Việt Nam
tần suất RLC khoảng 15,7%(2).
Với sự ra đời của các thuốc ức chế men PDE-
* Bệnh Viện Đại Học Y Dược TP.HCM
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa 2
5 năm 1998 cùng với việc mở rộng thông tin
trong xã hội, ngày càng nhiều bệnh nhân được
điều trị bởi các bác sĩ niệu khoa, tổng quát và
nhiều chuyên khoa khác(2). Tuy nhiên phác đồ
chẩn đoán và xử trí RLC tại Việt Nam còn
chưa thống nhất. Để đánh giá được thực trạng
của vấn đề này, chúng tôi tiến hành khảo sát
khuynh hướng hiện nay trong chẩn đoán và
điều trị RLC của một số bác sĩ có tham gia
khám và điều trị RLC.
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi gửi 150 bảng câu hỏi đến các bác sĩ
(BS) tham gia hội nghị thường niên Hội Tiết niệu-
Thận học TP.HCM năm 2007 (tổ chức tại Kiên
Giang). Các câu hỏi tập trung vào ba chủ đề chính:
Trình độ chuyên khoa và thâm niên công tác
của các bác sĩ, bệnh viện nơi các bác sĩ công tác,
tập huấn về nam khoa và nhu cầu được đào tạo
về nam khoa.
Một số vấn đề thường gặp trong chẩn đoán
rối RLC.
Một số vấn đề thường gặp trong điều trị RLC.
Kết quả khảo sát được xử lý bằng phần mềm
thống kê SPSS 12.0
KẾT QUẢ
Các bác sĩ tham gia khảo sát
Có 60 BS tham gia trả lời, 100% BS có khám
và điều trị RLC trong đó 50% BS khám 2-7 bệnh
nhân RLC mỗi tuần.
BS chuyên ngành Tiết niệu 80%, Ngoại tổng
quát 10%, Nội khoa 10%.
BS đa khoa 36,7%, chuyên khoa I 30%, thạc sĩ
23,3%, chuyên khoa II 5% và tiến sĩ 5%.
40% BS có thời gian làm việc trong chuyên
ngành Tiết niệu dưới 5 năm, 30% từ 5-10 năm và
30% đã làm việc trên 10 năm.
95% BS làm việc tại bệnh viện tuyến tỉnh
thành phố, trong đó 15% là các bệnh viện có
tham gia giảng dạy. 5% bệnh viện có phòng
khám nam khoa riêng.
60% BS chưa được tập huấn về nam khoa;
36,7% BS có tham gia khóa tập huấn ngắn 1-7
ngày và 3,3% BS có tham gia khóa tập huấn
hơn 3 tháng.
Cập nhật thông tin về RLC: 40% BS (n=24)
không cập nhật thông tin, 50% BS (n=30) cập
nhật qua các hội nghị trong nước, 10% BS (n=6)
cập nhật qua internet và các hội nghị nước ngoài.
98,3% BS trả lời “cần tham gia các lớp tập huấn
về nam khoa”. Chỉ có 1 trường hợp (1,7%) trả lời
không cần.
Chẩn đoán RLC
Trả lời câu hỏi đúng sai “RLC đồng nghĩa
với bất lực, bao gồm cả rối loạn ham muốn tình
dục, rối loạn xuất tinh và cực khoái”: 60% chọn
phát biểu trên là đúng.
Phát biểu “90% trường hợp RLC là do nguyên
nhân tâm lý”: 60% chọn phát biểu trên là đúng.
Sử dụng bảng câu hỏi trong chẩn đoán RLC
(bảng I.I.E.F, I.I.E.F-5): 30% chọn có sử dụng.
Trả lời câu hỏi “chẩn đoán cơ bản RLC chủ
yếu dựa vào yếu tố nào”: 83,3% chọn hỏi bệnh
sử kỹ lưỡng, 80% chọn khám lâm sàng, 60%
chọn xét nghiệm và 16,7% chọn các khảo sát CLS
chuyên sâu.
81,7% BS cho rằng “ở bệnh nhân có RLC, các
xét nghiệm như định lượng testosterone máu,
lipid máu, chức năng thận, gan và đường huyết
là” cần thiết; 18,3% BS cho rằng không cần thiết.
60% BS cho rằng “các CLS chuyên sâu chỉ
thực hiện cho bệnh nhân có nhiều nghi ngờ
thuộc nhóm RLC tâm lý, suy tuyến sinh dục và
một vài dạng đặc biệt của RLC mạch máu”; 40%
chọn phát biểu trên là sai.
Điều trị RLC
90% BS cho rằng “trước khi áp dụng các biện
pháp điều trị cho bệnh nhân, việc hướng dẫn
bệnh nhân thay đổi lối sống và những thuốc
đang sử dụng cho bệnh khác là” cần thiết; 10%
BS cho rằng không cần thiết.
Trả lời phát biểu “điều trị RLC chủ yếu và
quan trọng nhất là tâm lý liệu pháp vì đây là
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa 3
nguyên nhân chính của RLC”: 80% chọn phát
biểu trên là đúng.
Trả lời câu hỏi: các thuốc ức chế men PDE-5
gồm: Sildenafil (90% chọn, n=54), Tadalafil (80%
chọn, n=48), Verdenafil (60% chọn, n=36),
Đánh giá “hiệu quả trên lâm sàng của các
thuốc ức chế PDE-5”: 80% BS cho rằng hiệu quả
đạt 60%; 10% BS chọn hiệu quản 80% và 10% BS
chọn hiệu quả 95%.
Trả lời câu hỏi “các biện pháp điều trị BS đã
áp dụng cho bệnh nhân RLC”: 90% chọn các
thuốc ức chế men PDE-5.
Trả lời câu hỏi “biện pháp BS áp dụng nhiều
nhất và có hiệu quả nhấ”: 80% chọn các thuốc ức
chế men PDE-5, 10% chọn tiêm thuốc thể hang
và 10% chọn viên nhét niệu đạo.
Đối với “các trường hợp không đáp ứng
điều trị”: 80% BS chuyển tuyến trên, 20% BS sẽ
đổi thuốc khác hoặc biện pháp điều trị khác.
60% BS cho rằng phát biểu “Trong 3 bước
điều trị RLC, các thuốc ức chế men PDE-5 thuộc
trị liệu bước 1, tiêm thuốc thể hang thuộc trị liệu
bước 2, phẫu thuật đặt thể hang giả là trị liệu
bước 3” là đúng.
BÀN LUẬN
Về các bác sĩ tham gia khảo sát
Trước đây, bệnh nhân RLC thường được
điều trị bởi các bác sĩ niệu khoa. Nhưng từ năm
1998, với sự ra đời của thuốc ức chế men PDE-5,
các bệnh nhân RLC còn được điều trị đầu tiên
bởi các bác sĩ đa khoa tổng quát và các bác sĩ
chuyên khoa khác(2). Trong nghiên cứu này, các
bác sĩ tham gia trả lời đều có khám và điều trị
RLC với 10% là bác sĩ ngoại tổng quát và 10% là
bác sĩ nội khoa. 40% không cập nhật thông tin về
RLC. 60% chưa được tập huấn về nam khoa, chỉ
có 3,3 % được tập huấn về nam khoa hơn 3
tháng và 98,3% cần được tập huấn về nam khoa.
Về chẩn đoán RLC
RLC (thay thế cho từ bất lực, liệt dương:
impotence) là tình trạng một người đàn ông
không thể đạt tới hay duy trì được sự cương
dương vật đủ cứng để giao hợp thoả mãn. Định
nghĩa này giúp phân biệt RLC với các thể rối
loạn tình dục khác là rối loạn ham muốn tình
dục, rối loạn cực khoái và rối loạn cảm giác tình
dục. Ngoài ra, tình trạng RLC cần phải kéo dài
hay lặp đi lặp lại trong ít nhất là 3 tháng hay 6
tháng (1,2). Vì vậy phát biểu “RLC đồng nghĩa với
bất lực, bao gồm cả rối loạn ham muốn tình dục, rối
loạn xuất tinh và cực khoái” là sai. Trong kết quả
nghiên cứu, 60% chọn phát biểu này là đúng.
Trả lời cho phát biểu “90% trường hợp RLC là
do nguyên nhân tâm lý”, 60% chọn phát biểu này
đúng. Thật ra, trước đây trong thập niên 50, 90%
những trường hợp RLC được nghĩ là do nguyên
nhân tâm lý. Hiện nay, RLC được biết là do
nguyên nhân thực thể. RLC chỉ do nguyên nhân
tâm lý chiếm khoảng 10%. Dạng phối hợp giữa hai
yếu tố thực thể và tâm lý là hay gặp nhất(1,2).
Vì đa số các biện pháp điều trị RLC hiện nay là
không đặc hiệu, có thể áp dụng cho đại đa số
những trường hợp RLC (chỉ có ba nguyên nhân có
điều trị đặc hiệu là RLC do tâm lý, RLC do suy
tuyến sinh dục và một vài dạng đặc biệt của RLC
do nguyên nhân mạch máu) cho nên vấn đề quan
trọng trong chẩn đoán RLC là nhằm xác định bệnh
nhân có thuộc vào một trong ba nhóm RLC có
điều trị đặc hiệu hay không. Theo hướng dẫn của
Hội Niệu Khoa Châu Âu (hình 1), chẩn đoán cơ
bản RLC chủ yếu dựa vào hỏi bệnh sử kỹ lưỡng
(bệnh sử chung và bệnh sử tình dục), khám lâm
sàng, định lượng testosterone máu, lipid máu,
chức năng thận, gan và đường huyết. Các xét
nghiệm chuyên sâu chỉ thực hiện cho bệnh nhân
có dấu hiệu thuộc ba nhóm RLC do tâm lý, suy
sinh dục và mạch máu có thể điều trị được(2,3).
Có 30% trả lời có sử dụng bảng câu hỏi trong
chẩn đoán RLC. Rất nhiều bảng câu hỏi để đánh
giá mức độ RLC đã được đề ra bởi nhiều tác giả.
Bảng chỉ số quốc tế về chức năng cương dương vật
(International Index Erectile Function- IIEF)
nguyên thủy có 15 câu hỏi, trong đó có 5 câu hỏi
giúp phân biệt rõ giữa người có RLC và không
RLC, 5 câu hỏi này được chọn để tạo ra bảng IIFE-
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Niệu Khoa 4
5 (còn được gọi là bảng sức khỏe tình dục nam
giới: Sexual Health Inventory for Men- SHIM). Các
bảng câu hỏi giúp ích rất nhiều trong nghiên cứu
dịch tễ, thống kê, chia mức độ nặng của RLC và
theo dõi điều trị. Bảng SHIM còn có thể được điền
trước bởi bệnh nhân trước khi gặp bác sĩ giúp bệnh
nhân thấy thoải mái hơn(1,2,3,4).
Hình 1. Chẩn đoán cơ bản RLC (Hội Niệu Khoa Châu Âu 2007) (3):
Bệnh nhân RLC (tự khai)
Bệnh sử y khoa và tâm lý tình dục (sử dụng những phương tiện có giá trị
như bảng IIEF)
Nhận biết
những vấn đề
tình dục khác
RLC
Nhận biết
những nguyên
nhân thường
gặp của RLC
Nhận ra những
yếu tố nguy cơ
của RLC có thể
điều chỉnh được
Đánh giá
tình trạng
tâm lý xã
hội
Khám lâm sàng có trọng tâm
Biến dạng
của dương
vật
Bệnh tiền liệt
tuyến
Dấu hiệu của suy
tuyến sinh dục
Tình trạng
tim mạch-
thần kinh
Xét nghiệm
Đường huyết, bilan lipid
(Nếu chưa được làm trong
vòng 12 tháng)
Testosterone toàn phần (lấy mẫu buổi
sáng)
Nếu được: Testosterone tự do hay khả
dụng sinh học (thay vì toàn phần)
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Niệu Khoa 5
Hình 2. Toán đồ điều trị RLC (Hội Niệu Khoa Châu Âu 2007) (3)
Điều trị RLC
Tìm và điều trị
những nguyên
nhân có thể điều
trị được của RLC
Thay đổi lối sống và
điều chỉnh những
yếu tố nguy cơ
Cung cấp những hướng
dẫn giáo dục và tư vấn
cho bệnh nhân và bạn
tình của họ
Nhận ra những nhu cầu và mong đợi của bệnh nhân
Chia sẻ với bệnh nhân về quyết định lựa chọn điều trị
Đề xuất kết hợp liệu pháp tâm lý và thuốc RLC
Thuốc ức chế men
PDE-5
Apomorphine
Thuốc tiêm thể hang
Thuốc đặt niệu đạo
Dụng cụ bơm chân không
Đánh giá hiệu quả điều trị:
• Đáp ứng cương
• Tác dụng phụ
• Thỏa mãn với điều trị
Chưa đạt hiệu quả điều trị
Sử dụng hết các lựa chọn điều trị
Cung cấp hướng dẫn và tư vấn mới
Điều trị lại
Xem xét các điều trị thay thế hoặc kết hợp
Chưa đạt hiệu quả điều trị
Xem xét đặt thể hang giả
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Niệu Khoa 6
Về điều trị RLC
Trước khi áp dụng các phương pháp điều trị
cho bệnh nhân RLC, việc hướng dẫn bệnh nhân
thay đổi lối sống cũng như những thuốc đang sử
dụng cho các bệnh khác là không thể thiếu(1,2,3).
Trong kết quả nghiên cứu 90% chọn đúng nội
dung này.
Có hai nhóm điều trị chính: điều trị đặc hiệu
theo nguyên nhân và điều trị không đặc hiệu
(hình 2)(3).
Như đã nói đến ở phần chẩn đoán có ba
nguyên nhân RLC có thể điều trị đặc hiệu, các
biện pháp điều trị đặc hiệu là: (1) Tư vấn tâm
lý tình dục (RLC đơn thuần do nguyên nhân
tâm lý chỉ chiếm 10% nên đây không phải là
phương pháp điều trị chủ yếu và quan trọng),
(2) Liệu pháp nội tiết và (3) Phẫu thuật mạch
máu. Tuy nhiên nhiều bác sĩ vẫn còn nhầm lẫn
và cho rằng tâm lý liệu pháp là phương pháp
điều trị chính và quan trọng trong RLC với
80% chọn phát biểu “Điều trị RLC chủ yếu và
quan trọng nhất là tâm lý liệu pháp vì đây là
nguyên nhân chính của RLC” là đúng.
Các biện pháp điều trị không đặc hiệu tỏ ra
có hiệu quả trong đa số trường hợp RLC. Điều
trị không đặc hiệu gồm 3 bước(2,3):
- Trị liệu bước một: Gồm các thuốc uống,
tâm lý liệu pháp và bơm hút chân không. Các
thuốc uống bao gồm các thuốc ức chế men PDE-
5, Apomorphine, yohimbine, trazodone, trong
đó các thuốc ức chế men PDE-5 (gồm sildenafil,
vardenafil và tadalafil) có hiệu quả nhiều nhất
trên lâm sàng (khoảng 80%).
- Trị liệu bước hai: tiêm thuốc thể hang.
- Trị liệu bước ba: phẫu thuật đặt thể hang giả.
Chống chỉ định tuyệt đối của các thuốc ức
chế men PDE-5 là bệnh nhân đang dùng thuốc
có nitrat, vì sự dùng kết hợp 2 nhóm thuốc này
gây ra sự hạ huyết áp nguy hiểm(1,4).
Để đánh giá đúng hiệu quả của các thuốc ức
chế men PDE-5, bệnh nhân cần được hướng dẫn
cách sử dụng thuốc đúng cách và dùng ít nhất 4
liều trước khi đưa ra kết luận về hiệu quả của
thuốc. Nhiều nghiên cứu cho thấy một số bệnh
nhân được cho là không có đáp ứng khi dùng
thuốc ức chế men PDE-5 thực ra là do chưa dùng
tới liều tối đa của thuốc, uống thuốc ngay sau
khi ăn no, hoạt động tình dục ngay sau khi uống
thuốc hoặc không có kích thích tình dục trước đó
để đạt được sự cương đầy đủ(4).
KẾT LUẬN
RLC ảnh hưởng đến hàng triệu nam giới
trên thế giới. Sự ra đời gần đây của các thuốc ức
chế men PDE-5 đã đem lại sự thay đổi đáng kể
trong chẩn đoán và điều trị RLC. Ngày càng có
nhiều bệnh nhân tìm đến các bác sĩ chuyên khoa
cũng như đa khoa vì vấn đề này. Hiện nay tại
Việt Nam, phác đồ chẩn đoán và điều trị RLC
chưa thống nhất, nhiều bác sĩ tham gia khám và
điều trị chưa được tập huấn về RLC cũng như
không cập nhật thông tin về chẩn đoán và điều
trị RLC. Vì vậy rất cần có sự thống nhất về phác
đồ chẩn đoán và điều trị RLC cũng như tổ chức
các khóa tập huấn và cập nhật thông tin về RLC
cho các bác sĩ có nhu cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Lue TF, Broderich GA. Evaluation and nonsurgical
management of erectile dysfunction and premature
ejaculation. In: Campbell’s Urology 9th Ed. 750-787.
2 Nguyễn Thành Như, Vũ Lê Chuyên. Rối loạn cương. Y học
TP. Hồ Chí Minh, phụ bản của tập 10, số 1, 2006. 164-174.
3 Wespes E, Amar E, Hatzichristou D et al. Guidelines on
erectile dysfunction. European Association of Urology 2007.
4 www.sua.org.sg. Singapore Urological Association
Erectile Dysfunction Guidelines 2006.
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Niệu Khoa 7
Y Hoïc TP. Hoà Chí Minh * Taäp 11 * Phụ bản Soá 4 * 2007 Nghieân cöùu Y hoïc
Niệu Khoa 8
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_khuynh_huong_hien_nay_trong_chan_doan_va_dieu_tri_r.pdf