Thực hành
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 54,2% đối
tượng có thói quen điều trị bệnh trứng cá tại bệnh
viện, 37,5% điều trị tại bác sỹ tư, 2,4% điều trị tại
thẩm mỹ viện và không điều trị chiếm 1,2%. Từ tỷ lệ
quan tâm tới bệnh trứng cá của các đối tượng chiếm
tỷ lệ cao (31,9% quan tâm rất nhiều tới bệnh trứng
cá, 43,8% quan tâm nhiều) nên thói quen điều trị
tại bệnh viện cũng như bác sỹ tư. Kết quả này có sự
khác biệt so với nghiên cứu của Trần Thị Hạnh và
Nguyễn Thị Giao Hạ trên đối tượng là học sinh THPT
với tỷ lệ không điều trị là 53%, tự điều trị là 37,4%,
tới bác sỹ là 6% và 2,7% tới bệnh viện da liễu [6]. Sở
dĩ có sự khác biệt này có thể là do đối tượng nghiên
cứu và địa điểm nghiên cứu khác nhau dẫn đến thói
quen điều trị có sự khác nhau.
Số đối tượng có thói quen tuân thủ tốt và đủ liệu
trình của bác sỹ chiếm tỷ lệ cao 90,8% tuy nhiên vẫn
còn 9,2% đối tượng không tuân thủ.
Tỷ lệ đối tượng có thói quen sờ nặn mụn chiếm
78,9%, có thói quen chích lễ mụn chiếm 31,9%,
45,8% có thói quen đắp mặt nạ, 29,9% có thói quen
dùng mỹ phẩm và 26,3% có thói quen dùng các chất
kích thích như cà phê, thuốc lá. Kết quả này tương
tự kết quả của Trần Thị Hạnh và Nguyễn Thị Giao Hạ,
học sinh có thói quen không tốt là nặn mụn chiếm tỷ
lệ 57,3%, massage 11,1%, thói quen dùng mỹ phẩm
48,9%, 25,7% dùng chất kích thích và 5,9% sử dụng
rượu bia [6]. Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của
Lê Thị Diệu Anh tỷ lệ đối tượng có hành vi nặn mụn
chiếm 87%, chích lễ là 40% [1].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 71,3% đối
tượng nghiên cứu có thói quen ăn đầy đủ chất dinh
dưỡng và 67,7% có thói quen uống nước nhiều
(>2lít/ngày). Kết quả này tương tự với kết quả của
tác giả Trần Thị Hạnh và Nguyễn Thị Giao Hạ là
85,4% học sinh có thói quen uống nước nhiều (>2lít/
ngày) [6].
Phân loại thực hành chung thì có 53,4% đối
tượng có thực hành tốt về bệnh trứng cá và 46,6%
thực hành chưa tốt.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh trứng cá ở bệnh nhân trứng cá tại phòng khám da liễu bệnh viện trường Đại học Y dược Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
73
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
Địa chỉ liên hệ: Trương Văn Trí, email: drtruongtri@gmail.com 
Ngày nhận bài: 5/10/2018, Ngày đồng ý đăng: 22/10/2018; Ngày xuất bản: 8/11/2018
KHẢO SÁT KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ BỆNH TRỨNG CÁ 
Ở BỆNH NHÂN TRỨNG CÁ TẠI PHÒNG KHÁM DA LIỄU 
BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
Trần Ngọc Khánh Nam, Võ Thị Bửu, Mai Bá Hoàng Anh, 
Nguyễn Thị Trà My, Nguyễn Thị Thanh Phương, Lê Thị Thuý Nga
Bộ môn Da liễu, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Trứng cá thông thường là bệnh da thường gặp ở lứa tuổi thanh thiếu niên, trong đó kiến thức, 
thái độ hành vi của bệnh nhân trứng cá ảnh hưởng nhiều đến kết quả của bệnh. Mục tiêu: Mô tả kiến thức, 
thái độ, thực hành về bệnh trứng cá ở bệnh nhân mắc bệnh này tại phòng khám Da liễu Bệnh viện Trường 
Đại học Y Dược Huế. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh trứng cá 
ở bệnh nhân mắc bệnh này. Phương pháp: Chúng tôi nghiên cứu trên 251 bệnh nhân được chẩn đoán mắc 
trứng cá thông thường từ tháng 6/2016 - 5/2017, được tiến hành phỏng vấn thu thập đầy đủ thông tin cần 
thiết. Thang điểm Likert được dùng để đánh giá thái độ của bệnh nhân. Kết quả: Có mối liên quan giữa nghề 
nghiệp với kiến thức, giữa trình độ học vấn với kiến thức về bệnh trứng cá (p < 0,05). Không có mối liên quan 
giữa tuổi với kiến thức về bệnh trứng cá (p > 0,05). Có mối liên quan giữa giới tính với thái độ, giữa kiến thức 
và thái độ của đối tượng về bệnh trứng cá (p < 0,05). Không có liên quan giữa trình độ học vấn với thái độ 
của bệnh nhân trứng cá. Có mối liên quan giữa giới tính với thực hành, giữa kiến thức với thực hành của các 
đối tượng về bệnh trứng cá (p < 0,05). Không có mối liên quan giữa độ tuổi với thực hành, giữa thành phần 
kinh tế với thực hành về bệnh trứng cá. Có mối liên quan giữa thái độ với thực hành của đối tượng về bệnh 
trứng cá (p < 0,05). Kết luận: Nghề nghiệp, học vấn có liên quan tới kiến thức, giới liên quan tới kiến thức và 
thái độ của bệnh nhân trứng cá. Kiến thức - thái độ - thực hành cũng có mối liên quan với nhau
Từ khoá: Kiến thức, thái độ, hành vi, trứng cá thông thường
Abstract 
KNOWLEDGE-ATTITUDE-PRACTICE 
ABOUT ACNE VULGARIS AND ITS ASSOCIATIONS
 AMONG ACNE PATIENTS AT DERMATOLOGY CLINIC 
OF HUE UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY HOSPITAL
 Tran Ngoc Khanh Nam, Vo Thi Buu, Mai Ba Hoang Anh, 
Nguyen Thi Tra My, Nguyen Thi Thanh Phuong, Le Thi Thuy Nga
Dept. of Dermatology and Venereal Diseases, Hue University of Medicine and Pharmacy Hospital, Hue University
Background: Acne vulgaris is a common disease of teenager which is affected by the knowledge, attitude 
and practice of acne patients. Aims: To describe knowledge, attitude, practice features about acne vulgaris and 
its associations among acne patients. Material and Method: From June/2017 to May/2018, 251 acne patients 
satisfying selective criteria were enrolled in our study and interviewed for all needed information. Likert scale 
were used to measure patients’ attitude. Results: There were associations between career and knowledge, 
educational background and knowledge (p < 0.05), but no association between age and knowledge about acne 
vulgaris. There were an association between sex and attitude as well as knowledge and attitude (p < 0.05), but 
no association between educational background and attitude. There were associations between sex and 
practice, knowledge and practice (p < 0.05) but no associations between age and practice as well as class 
and practice. There were an association between attitude and practice about acne vulgaris among acne 
patients (p < 0.05). Conclusions: Career and educational background have associations to knowledge; sex 
has associations to both attitude and practice. Knowledge, attitude and practice are associated to each other.
Key words: knowledge, attitude, practice, acne vulgaris
ần Ngọc Khánh N m, email: knam265@gmail.com DOI: 10.34071/jmp.2019.1.12
22/12/2018, Ngày đồng ý đăng: 5/1 9 25/2 9
74
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh trứng cá là một bệnh lý mạn tính của đơn 
vị nang lông tuyến bã. Tại Việt Nam, theo số liệu 
thống kê của bệnh viện Da liễu Trung Ương năm 
2014, số bệnh nhân trứng cá chiếm 12,9% tổng số 
bệnh nhân đến khám [9] , bệnh viện Da Liễu thành 
phố Hồ Chí Minh năm 2015, số lượng bệnh nhân 
trứng cá đến khám và điều trị chiếm 13,4% trong 
tổng số lượt bệnh nhân đến khám tại bệnh viện, 
chỉ sau bệnh nhân viêm da cơ địa[3]. Bệnh thường 
gặp chủ yếu ở thanh thiếu niên từ 13-25 tuổi, khởi 
đầu ở tuổi dậy thì, tăng dần theo tuổi và giảm dần 
từ lứa tuổi 25 trở đi [6]. Bệnh trứng cá thường là 
tự khỏi, khoảng 10% người bị trứng cá thật sự cần 
được điều trị, khoảng 1% gặp khó khăn trong điều 
trị [7]. Bệnh thường tiến triển từng đợt, dai dẳng, 
giảm dần theo tuổi nhưng cũng có trường hợp bệnh 
kéo dài đến tuổi 30, 40, thậm chí 50 [5]. Tuy không 
gây biến chứng nguy hiểm, nhưng bệnh trứng cá 
có thể kéo dài, đặc biệt có sẹo lõm, sẹo lồi làm ảnh 
hưởng nhiều đến thẩm mỹ khiến người bệnh mất tự 
tin, mặc cảm, hoang mang lo lắng, ảnh hưởng đến 
năng suất làm việc, thậm chí chất lượng cuộc sống 
của người bệnh [2, 8]. Ngoài ra, do sự thiếu hiểu biết 
về bệnh trứng cá, điều trị không tuân theo hướng 
dẫn của bác sỹ chuyên khoa và các yếu tố tác động 
bên ngoài như: khí hậu, môi trường đã làm nặng 
thêm bệnh trứng cá ban đầu cũng như góp phần gây 
ra các biến chứng.
Bệnh trứng cá là bệnh da có quá trình sinh bệnh 
phức tạp, chịu nhiều tác động của các yếu tố, bên 
cạnh đó vấn đề điều trị chưa được người bệnh quan 
tâm, đánh giá đúng mức để lại nhiều biến chứng. Để 
làm rõ thêm về vấn đề này chúng tôi thực hiện đề 
tài: “Khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh 
trứng cá ở bệnh nhân trứng cá tại phòng khám Da 
liễu bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế”.
Với 2 mục tiêu:
1. Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh 
trứng cá ở bệnh nhân mắc bệnh này tại phòng khám 
Da liễu bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế.
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến kiến 
thức, thái độ, thực hành về bệnh trứng cá ở bệnh 
nhân mắc bệnh này tại địa điểm nghiên cứu.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG 
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tất cả bệnh nhân đến 
khám tại phòng khám Da liễu bệnh viện Trường 
Đại học Y Dược Huế từ tháng 09/2016 đến tháng 
02/2017.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
-	 Được bác sỹ chẩn đoán mắc trứng cá thông 
thường.
-	 Bệnh nhân có khả năng nghe, đọc và trả lời 
khi phỏng vấn.
-	 Đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 06/2016 
đến tháng 05/2017.
2.1.3. Địa điểm nghiên cứu
Phòng khám Da liễu - Bệnh viện Trường Đại học 
Y Dược Huế.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt 
ngang
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu: Mẫu thuận tiện
2.2.3. Phương pháp thu thập thông tin
Người nghiên cứu sử dụng bộ câu hỏi để phỏng 
vấn trực tiếp đối tượng nghiên cứu, thu thập các 
thông tin về kiến thức, thái độ, thực hành của đối 
tượng về bệnh trứng cá. Bộ câu hỏi được điều tra 
thử nghiệm trước khi được áp dụng chính thức
2.2.4. Các biến số nghiên cứu và cách đo lường
Các thông tin chung về các nhân: tuổi, giới, nơi 
cư trú học vấn, nghề nghiệp, thành phần kinh tế. Các 
biến số về kiến thức - thái độ - hành vi của bệnh 
nhân về bệnh trứng cá dựa trên bệnh nhân khai báo. 
Thang điểm Likert được sử dụng để đánh giá thái độ 
của bệnh nhân.
2.3. Xử lý và phân tích số liệu
Nhập số liệu bằng phần mềm Epi-data kiểm soát 
sai số và phân tích bằng phần mềm thống kê SPSS 
phiên bản 16.0. 
Đối với thống kê mô tả thì tỷ lệ phần trăm các 
biến số nghiên cứu được tính toán. Đối với thống kê 
phân tích, dùng kiểm định Chi-square và Fisher exact 
test. Mức ý nghĩa thống kê p < 0,05 sẽ được sử dụng 
trong thống kê phân tích.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm của các đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm Số lượng Tỷ lệ (%)
Giới
Nam 75 29,9
Nữ 176 70,1
75
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
Tuổi
13-25 243 96,8
26-45 8 3,2
Nơi cư trú
Thành phố 114 45,4
Nông thôn 137 54,6
Nghề nghiệp
Công nhân 32 12,8
Nội trợ 15 5,9
HS, SV 192 76,5
Khác 12 4,8
Trình độ học 
vấn
Chưa tốt nghiệp THCS 19 7,5
Chưa tốt nghiệp THPT 29 11,6
THPT trở lên 203 80,9
Thành phần 
kinh tế
Nghèo 18 7,2
Cận nghèo 52 20,7
Không nghèo 181 72,1
Giới tính của các đối tượng được điều tra chủ 
yếu là nữ giới (70,1%) hầu hết nằm trong độ tuổi 
từ 13-25 chiếm 96,8%, Nghề nghiệp đa số là HS, SV 
chiếm 76,5%. Trình độ học vấn của các đối tượng 
từ THPT trở lên chiếm 80,9%. Thành phần kinh tế ở 
mức không nghèo chiếm tỷ lệ cao nhất 48,6%.
3.2. Kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh 
trứng cá
3.2.1. Kiến thức về bệnh trứng cá
Nguồn cung cấp thông tin về bệnh trứng cá cho 
các đối tượng cao nhất là từ báo, tạp chí, facebook, 
internet chiếm tỷ lệ 77,3%. Hầu hết các đối tượng 
nghiên cứu được biết hoặc nghe đến bệnh trứng cá 
chiếm 97,2%.
78,1% đối tượng cho rằng nội tiết tố là nguyên 
nhân chính của bệnh trứng cá, Hầu hết có đối 
tượng cho rằng vị trí hay bị bệnh trứng cá nhất là ở 
mặt chiếm 97,2%, thấp nhất là ở đầu trên cánh tay 
chiếm 4,4%.
51,8% đối tượng cho rằng thời gian bắt đầu bị 
bệnh trứng cá là từ cấp II, 16,3% là từ đại học.
Đa số đối tượng nghiên cứu cho rằng biến chứng 
của bệnh trứng cá là sẹo vết thâm (90,4%).
89,2% đối tượng nghiên cứu cho rằng yếu tố môi 
trường liên quan đến bệnh trứng cá là bụi, Các thói 
quen xấu ảnh hưởng tới bệnh trứng cá theo các đối 
tượng cao nhất là thức khuya (80,5%), Theo các đối 
tượng thì thức ăn liên quan đến bệnh trứng cá cao 
nhất là thức ăn nóng cay chiếm 70,1%, Trạng thái tinh 
thần liên quan đến bệnh trứng cá theo đối tượng thì 
căng thẳng, lo âu chiếm tỷ lệ cao nhất 80,1%.
3.2.2. Thái độ về bệnh trứng cá
81,7% đối tượng nghiên cứu có thái độ quan tâm 
về bệnh trứng cá. 45% đối tượng có thái độ đồng 
ý với việc mất tập trung trong làm việc và học tập 
khi mắc bệnh trứng cá, 72,1% đồng ý với việc ngại 
tiếp xúc với bạn bè và mọi người xung quanh, 51% 
đối tượng đồng ý với việc cảm thấy xấu hổ và 72,1% 
đối tượng đồng ý có cảm thấy mất tự tin. 69,3% đối 
tượng có thái độ đồng ý là buồn chán khi mắc bệnh 
trứng cá, 83,3% đồng ý có thái độ khó chịu, 66,9% 
mất ngủ và 78,1% đối tượng đồng ý cảm thấy lo lắng. 
3.2.3. Thực hành về bệnh trứng cá
54,2% đối tượng nghiên cứu có thói quen điều 
trị bệnh trứng cá tại bệnh viện, không điều trị chiếm 
1,2%. Tỷ lệ đối tượng có thói quen tuân thủ đúng và 
đủ liệu trình của bác sỹ chiếm 90,8%. Tỷ lệ đối tượng 
có thói quen sờ nặn mụn chiếm 78,9%, 71,3% đối 
tượng nghiên cứu có thói quen ăn đầy đủ chất dinh 
dưỡng và 67,7% có thói quen uống nước nhiều (> 2 
lít/ngày).
3.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức thái 
độ thực hành của bệnh nhân bệnh trứng cá
3.3.1. Mối liên quan giữa đặc điểm đối tượng 
và kiến thức về bệnh trứng cá
Có mối liên quan giữa nghề nghiệp và trình độ 
học vấn với kiến thức về bệnh trứng cá của các đối 
tượng nghiên cứu (p<0,05)
3.3.2. Mối liên quan giữa đặc điểm đối tượng 
và thái độ về bệnh trứng cá
Có mối liên quan giữa giới tính với thái độ của 
đối tượng nghiên cứu về bệnh trứng cá (p < 0,05) nữ 
giới có thái độ tốt hơn nam giới.
3.3.3. Mối liên quan giữa đặc điểm đối tượng 
và thực hành về bệnh trứng cá
Có mối liên quan giữa giới tính và thực hành của 
đối tượng về bệnh trứng cá (p < 0,05) nữ giới có 
thực hành tốt cao hơn nam giới.
76
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
3.3.4. Mối liên quan giữa kiến thức và thái độ
Bảng 3.2. Mối liên quan giữa kiến thức và thái độ
 Thái độ
Kiến thức
Tốt Chưa tốt Tổng
p
n % n %
Tốt 90 60,4 59 39,6 149
p<0,05Chưa tốt 47 46,1 55 53,9 102
Tổng 137 59,4 114 40,6 251
Mối liên quan giữa kiến thức và thái độ của bệnh nhân bệnh trứng cá với p < 0,05.
3.3.5. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành
Bảng 3.3. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành
 Thực hành
Kiến thức
Tốt Chưa tốt Tổng
p
n % n %
Tốt 79 53 70 47 149
p<0,05Chưa tốt 38 37,3 64 62,7 102
Tổng 117 53,4 134 46,6 251
Có mối liên quan giữa thực hành và kiến thức của bệnh nhân bệnh trứng cá với p < 0,05.
3.3.6. Mối liên quan giữa thái độ và thực hành 
Bảng 3.4. Mối liên quan giữa thái độ và thực hành
 Thực hành
Thái độ
Tốt Chưa tốt Tổng p
n % n %
Tốt 69 51,5 65 48,5 134
p<0,05Chưa tốt 45 38,5 72 61,5 117
Tổng 114 53,4 137 46,6 251
Có mối liên quan giữa thái độ và thực hành của bệnh nhân bệnh trứng cá với p < 0,05.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm của đối tượng 
Trong 251 đối tượng được điều tra, nữ giới 
chiếm tỷ lệ 70,1% cao gấp hơn 2 lần so với nam giới 
29,9%. Điều này có ý nghĩa trong nghiên cứu vì nữ 
giới thường quan tâm đến thẩm mỹ hơn, việc đến 
khám và điều trị bệnh trứng cá nhiều hơn so với 
nam giới. 
Kết quả này tương đương với nghiên cứu kiến 
thức, thái độ, thực hành của học sinh trung học phổ 
thông của Đoàn Thị Ngọc Tuyết năm 2011 cho thấy 
tỷ lệ 63,97% học sinh nữ và 30,07% học sinh nam 
mắc bệnh trứng cá [11]. 
Kết quả này cũng tương đương với kết quả của 
Nguyễn Thị Thanh Nhàn thực hiện trên 203 bệnh 
nhân đến khám bệnh trứng cá tại bệnh viện Bạch 
Mai nữ giới hay gặp hơn nam (nữ: 63,77%, nam: 
36,23%) [10].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy nhóm tuổi 
chiếm tỷ lệ cao nhất là 13-25 chiếm 96,8%, đây là 
nhóm tuổi thường mắc bệnh trứng cá nên số bệnh 
nhân đến khám thuộc nhóm tuổi này cao hơn rất 
nhiều so với những nhóm tuổi khác. 
Kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu của 
của Nguyễn Thị Thanh Nhàn thực hiện ghi nhận 
được tuổi thường gặp 13 đến 21 chiếm 89,91% [10]. 
Không có đối tượng nào thuộc nhóm tuổi <13 tuổi 
và nhóm >45 tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi.
Nghề nghiệp chủ yếu của các đối tượng chủ yếu 
là HS, SV chiếm tỷ lệ 76,5% phù hợp với đặc điểm 
dịch tễ học của bệnh. 
Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Đoàn 
Thị Ngọc Tuyết, tỷ lệ mắc mụn trứng cá ở học sinh 
rất cao chiếm 80,53% [11].
Đối tượng nghiên cứu có trình độ học vấn chủ 
yếu là tốt nghiệp THPT chiếm tỷ lệ 80,9%. Tiếp theo 
là chưa tốt nghiệp THPT chiếm 11,6%, trình độ chưa 
tốt nghiệp THCS 7,5%, không có đối tượng nào trình 
độ chưa tốt nghiệp tiểu học và không biết đọc biết 
viết.
Số đối tượng nghiên cứu phân bố ở thành thị và 
nông thôn tương đương nhau, thành thị chiếm tỷ lệ 
45,5% và nông thôn chiếm tỷ lệ 54,6%. 
Mức kinh tế gia đình trong mẫu nghiên cứu của 
chúng tôi chủ yếu là không nghèo chiếm tỷ lệ 72,1%, 
cận nghèo (20,7%) và nghèo (7,2%). 
77
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
4.2. Kiến thức thái độ thực hành của bệnh nhân 
trứng cá
4.2.1. Kiến thức
Khi được hỏi về có từng nghe hoặc biết về bệnh 
trứng cá không thì có 7 đối tượng chiếm 2,8% không 
biết đến thuật ngữ này. Đây là một tỷ lệ không cao, 
tuy nhiên phản ánh kiến thức của bệnh nhân còn 
hạn chế hoặc cũng có thể do cỡ mẫu của chúng tôi 
còn chưa đủ lớn nên chưa đại diện được cho quần 
thể. Đa số đối tượng nghiên cứu cho rằng vị trí hay 
bị bệnh trứng cá là ở mặt chiếm tỷ lệ 97,2%. Tiếp 
theo là ở lưng (29,5%), ngực (15,9%), cổ (10,8%) và 
thấp nhất là ở đầu trên cánh tay (4,4%). Kết quả này 
tương tự với nghiên cứu của Lê Thị Diệu Anh trong 
thể trứng cá thông thường tổn thương ở mặt chiếm 
tỷ lệ 99,7%, ở lưng 2,7%, ở ngực 0,2% và phối hợp 
là 2,7%[1].
Tỷ lệ đối tượng cho rằng thời gian bắt đầu bị 
bệnh trứng cá khi học cấp II chiếm 51,8%, cấp III 
28,3%, và học đại học là 16,3%. 
78,1% đối tượng nghiên cứu cho rằng nguyên 
nhân chính gây nên bệnh trứng cá là do nội tiết, 
tiếp đến là môi trường chiếm 57%, lối sống chiếm 
46,2%, do nhiễm khuẩn chiếm 45,8%, bít lỗ chân 
lông chiếm 44,2%, di truyền chiếm 23,5% và thấp 
nhất là nguyên nhân từ các nguồn khác như do ăn 
uống, cơ địachiếm 3,6%. Kết quả này tương tự so 
với kết quả nghiên cứu của Đoàn Thị Ngọc Tuyết. Đa 
số đối tượng nghiên cứu nghĩ nguyên nhân gây bệnh 
là do nội tiết (58,13%), lối sống (32,8%), nhiễm trùng 
(42,13%); thực phẩm (41,87%); di truyền (13,07%) 
[11]. Cũng như nghiên cứu của Ribogoulus ở học 
sinh cấp hai Hy Lạp, 55,1% nguyên nhân là do nội 
tiết, 31,9% là do stress, 14,9% là do nhiễm trùng và 
5,7% là do di truyền [4].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 89,2% đối 
tượng cho rằng yếu tố môi trường liên quan đến 
bệnh trứng cá là bụi, 47,4% cho rằng khí hậu nóng 
ẩm, 12,4% cho rằng khí hậu hanh khô, 25,1% do ánh 
nắng và yếu tố khác như thay đổi thời tiết, hóa chất 
độc là 2,4%. 
80,5% các đối tượng cho rằng các thói quen xấu 
ảnh hưởng tới bệnh trứng cá là thức khuya, tiếp đến 
là vệ sinh da kém (66,8%), dùng mỹ phẩm (39,4%) 
và thấp nhất là yếu tố khác như hút thuốc lá, không 
đeo khẩu trang chiếm 8,8%.
Cũng theo các đối tượng thì thức ăn liên quan 
đến bệnh trứng cá cao nhất là thức ăn nóng cay 
(70,1%), tiếp theo là thức ăn có nhiều dầu mỡ 
(60,6%), thức ăn có chứa chất kích thích (58,2%) và 
thức ăn ngọt (40,6%).
Trạng thái tinh thần liên quan đến bệnh trứng 
cá theo đối tượng thì căng thẳng, lo âu chiếm tỷ lệ 
cao nhất 80,1%, mất ngủ chiếm 66,2% và thấp nhất 
là trạng thái khác như tức giận, nóng nảy... chiếm 
4,8%.
Kết quả nghiên cứu trên tương tự với nghiên cứu 
của Đoàn Thị Ngọc Tuyết. Đa số học sinh nghĩ bụi là 
yếu tố quan trọng nhất của môi trường liên quan 
đến bệnh trứng cá (90,4%); kế đến là kém vệ sinh 
(65,33%), chế độ ăn (58,67%), stress (54,67%), cà 
phê (40,8%), mỹ phẩm (37,33%), rượu bia (30,67%), 
thuốc lá (26,67%), sữa rửa mặt (21,6%), dược phẩm 
(13,07%), tập thể dục đổ mồ hôi nhiều (8%), ánh 
sáng (7,73%) [11].
Các đối tượng nghiên cứu cho rằng biến chứng 
hay gặp nhất trong bệnh trứng cá là sẹo và vết thâm 
(90,4%), tiếp theo là nhiễm trùng (41,0%), hình 
thành nốt ruồi (15,9%), ung thư (3,6%) và thấp nhất 
là biến chứng khác như nám da, dễ bị lão hóa 
(0,8%).
Nguồn cung cấp thông tin về bệnh trứng cá cho 
các đối tượng chủ yếu là từ báo, tạp chí, facebook, 
internet chiếm tỷ lệ 77,3%. Tiếp đến là từ đi khám 
bác sỹ chiếm 59%, từ người thân bạn bè chiếm 
23,1%, tư vấn quầy thuốc 9,2% và thấp nhất là từ 
các nguồn khác như trường học, cán bộ y tế địa 
phương(2%). So kết quả nghiên cứu với đối tượng 
là học sinh THPT của Đoàn Thị Ngọc Tuyết thì kết quả 
có phần khác hơn. Nguồn thông tin về bệnh trứng 
cá cho các đối tượng chủ yếu là internet 64,53%, 
tiếp đến là ti vi 59,73%, người thân 56,27% và radio 
12,8% [11]. Tuy nhiên sự khác biệt này không lớn, 
có thể do đối tượng nghiên cứu khác nhau nên cách 
tiếp cận thông tin khác nhau.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 59,4% đối 
tượng có kiến thức về bệnh trứng cá là tốt và 40,6% 
có kiến thức chưa tốt.
4.2.2. Thái độ
Trong 251 đối tượng nghiên cứu có 81,7% quan 
tâm tới bệnh trứng cá trong đó 31,9% đối tượng 
quan tâm rất nhiều, 43,8% quan tâm nhiều. Kết 
quả này tương tự nghiên cứu của Trần Thị Hạnh và 
Nguyễn Thị Giao Hạ trên đối tượng là học sinh THPT 
với tỷ lệ quan tâm tới bệnh là 84,4% [6] và nghiên 
cứu của Đoàn Thị Ngọc Tuyết trên cùng đối tượng là 
70,13% [11]. Tuy nhiên vẫn còn 19,9% đối tượng có 
thái độ bình thường, 3,6% đối tượng quan tâm ít và 
0,8% rất ít quan tâm tới bệnh.
Thái độ của đối tượng về tác động của bệnh 
trứng cá với bạn bè và mọi người xung quanh có 
53,4% tốt và 46,6% có thái độ chưa tốt. Có 45% đối 
tượng có thái độ đồng ý với việc mất tập trung trong 
làm việc và học tập khi mắc bệnh trứng cá, 72,1% 
đồng ý với việc ngại tiếp xúc với bạn bè và mọi người 
xung quanh, 51% đối tượng đồng ý với việc cảm 
78
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
thấy xấu hổ và 72,1% đối tượng đồng ý có cảm thấy 
mất tự tin. Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với 
nghiên cứu của Đoàn Thị Ngọc Tuyết mất tập trung 
trong học tập của học sinh khi mắc mụn trứng cá 
chiếm 31,1%, xấu hổ 19,47%, 76,8% đối tượng ng-
hiên cứu có thái độ thiếu tự tin [11]. Kết quả này 
cũng cao hơn so với nghiên cứu của Lê thị Diệu Anh 
thực hiện trên 1800 học sinh cấp II, III thì: mất tập 
trung (4,2%), sợ người khác nhìn (9,4%), không tự 
nhiên khi giao tiếp (29,5%), xấu hổ (14,8%). Nguyên 
nhân dẫn tới sự khác biệt này có thể là do đối tượng 
nghiên cứu khác nhau [1].
Thái độ của đối tượng về tác động của bệnh 
trứng cá với bản thân có 56,6% đối tượng tốt và 
43,4% chưa tốt. Trong đó có 69,3% đối tượng có 
thái độ đồng ý là buồn chán khi mắc bệnh trứng cá, 
83,3% đồng ý có thái độ khó chịu, 66,9% mất ngủ 
và 78,1% đối tượng đồng ý cảm thấy lo lắng. Kết 
quả này cao hơn so với nghiên cứu của Lê Thị Diệu 
Anh thay đổi tâm lý khi bị mắc bệnh trứng cá buồn 
chán (6,6%), khó chịu (51%), mất ngủ (2,4%), lo lắng 
(27,6%) [1]. 
Thái độ chung 54,6% đối tượng có thái độ tốt với 
bệnh trứng cá và 45,4% có thái độ chưa tốt.
4.2.3. Thực hành
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 54,2% đối 
tượng có thói quen điều trị bệnh trứng cá tại bệnh 
viện, 37,5% điều trị tại bác sỹ tư, 2,4% điều trị tại 
thẩm mỹ viện và không điều trị chiếm 1,2%. Từ tỷ lệ 
quan tâm tới bệnh trứng cá của các đối tượng chiếm 
tỷ lệ cao (31,9% quan tâm rất nhiều tới bệnh trứng 
cá, 43,8% quan tâm nhiều) nên thói quen điều trị 
tại bệnh viện cũng như bác sỹ tư. Kết quả này có sự 
khác biệt so với nghiên cứu của Trần Thị Hạnh và 
Nguyễn Thị Giao Hạ trên đối tượng là học sinh THPT 
với tỷ lệ không điều trị là 53%, tự điều trị là 37,4%, 
tới bác sỹ là 6% và 2,7% tới bệnh viện da liễu [6]. Sở 
dĩ có sự khác biệt này có thể là do đối tượng nghiên 
cứu và địa điểm nghiên cứu khác nhau dẫn đến thói 
quen điều trị có sự khác nhau.
Số đối tượng có thói quen tuân thủ tốt và đủ liệu 
trình của bác sỹ chiếm tỷ lệ cao 90,8% tuy nhiên vẫn 
còn 9,2% đối tượng không tuân thủ.
Tỷ lệ đối tượng có thói quen sờ nặn mụn chiếm 
78,9%, có thói quen chích lễ mụn chiếm 31,9%, 
45,8% có thói quen đắp mặt nạ, 29,9% có thói quen 
dùng mỹ phẩm và 26,3% có thói quen dùng các chất 
kích thích như cà phê, thuốc lá. Kết quả này tương 
tự kết quả của Trần Thị Hạnh và Nguyễn Thị Giao Hạ, 
học sinh có thói quen không tốt là nặn mụn chiếm tỷ 
lệ 57,3%, massage 11,1%, thói quen dùng mỹ phẩm 
48,9%, 25,7% dùng chất kích thích và 5,9% sử dụng 
rượu bia [6]. Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của 
Lê Thị Diệu Anh tỷ lệ đối tượng có hành vi nặn mụn 
chiếm 87%, chích lễ là 40% [1].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 71,3% đối 
tượng nghiên cứu có thói quen ăn đầy đủ chất dinh 
dưỡng và 67,7% có thói quen uống nước nhiều 
(>2lít/ngày). Kết quả này tương tự với kết quả của 
tác giả Trần Thị Hạnh và Nguyễn Thị Giao Hạ là 
85,4% học sinh có thói quen uống nước nhiều (>2lít/
ngày) [6].
Phân loại thực hành chung thì có 53,4% đối 
tượng có thực hành tốt về bệnh trứng cá và 46,6% 
thực hành chưa tốt.
4.3. Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ, 
thực hành của bệnh nhân trứng cá
4.3.1. Các yếu tố liên quan đến kiến thức của 
bệnh nhân trứng cá
Có mối liên quan giữa nghề nghiệp với kiến thức 
về bệnh trứng cá (p < 0,05). Các đối tượng HS, SV, 
CBCC có kiến thức tốt về bệnh trứng cá (65,6%) 
cao hơn đối tượng nông dân nội trợ (45,5%) và đối 
tượng công nhân tiểu thương (37,5%). 
Có mối liên quan giữa trình độ học vấn với kiến 
thức về bệnh trứng cá (p < 0,05). Trình độ học vấn 
càng cao thì kiến thức về bệnh trứng cá càng tốt. Đối 
tượng tốt nghiệp THPT trở lên thì có kiến thức tốt về 
bệnh trứng cá (63,5%) cao hơn đối tượng chưa tốt 
nghiệp THPT (37,9%) và cao hơn đối tượng chưa tốt 
nghiệp THCS (47,4%). 
Không có mối liên quan giữa tuổi với kiến thức 
về bệnh trứng cá (p > 0,05). 
4.3.2. Các yếu tố liên quan đến thái độ của bệnh 
nhân trứng cá
Có mối liên quan giữa giới tính với thái độ về 
bệnh trứng cá. Nữ giới có thái độ tốt về bệnh trứng 
cá cao hơn nam giới. 
Không có liên quan giữa trình độ học vấn với thái 
độ của bệnh nhân trứng cá. 
Có mối liên quan giữa kiến thức và thái độ của 
đối tượng về bệnh trứng cá. Đối tượng có kiến thức 
tốt thì thái độ tốt cao (60,4%), ngược lại đối tượng 
có kiến thức chưa tốt thì có thái độ chưa tốt cao 
(53,9%). 
4.3.3. Các yếu tố liên quan đến thực hành của 
bệnh nhân trứng cá
Có mối liên quan giữa giới tính với thực hành về 
bệnh trứng cá (p < 0,05). Nữ giới có thực hành tốt về 
bệnh trứng cá cao hơn nam giới. 
Không có mối liên quan giữa độ tuổi với thực 
hành về bệnh trứng cá cũng như không có mối liên 
quan giữa thành phần kinh tế với thực hành về bệnh 
trứng cá. 
Có mối liên quan giữa kiến thức với thực hành 
của các đối tượng về bệnh trứng cá (p < 0,05). 
79
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 1 - tháng 2/2019
Có mối liên quan giữa thái độ với thực hành của 
đối tượng về bệnh trứng cá (p < 0,05). 
5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu kiến thức, thái độ và hành vi của 
251 bệnh nhân mắc trứng cá đến khám tại phòng 
khám da liễu, Bệnh viện Trường Đại học Y dược Huế, 
chúng tôi kết luận được như sau:
- Nghề nghiệp, học vấn có liên quan tới kiến thức 
về bệnh của bệnh nhân trứng cá
- Giới tính có liên quan tới kiến thức và thái độ 
của bệnh nhân trứng cá
- Kiến thức - thái độ - thực hành của bệnh nhân 
cũng có mối liên quan với nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thị Diệu Anh (2007), Nghiên cứu tình hình bệnh 
trứng cá ở học sinh cấp II-III thành phố Huế, Luận văn 
chuyên khoa II, Trường Đại học Y Dược Huế.
2. Huỳnh Văn Bá (2011). Nghiên cứu tình hình, đặc 
điểm lâm sàng và kết quả điều trị bệnh trứng cá có bôi 
corticoid bằng uống isotretinoin. Luận văn tiến sĩ y học, 
Đại học Y Hà Nội.
3. Bệnh viện Da Liễu Thành Phố Hồ Chí Minh (2015), 
Báo cáo tổng kết năm 2015. 
4. Guy R. Kealey T (1998), Modelling the infundibulum 
in acne, Dermatology, số 1, tr. 32-37
5. Hall B. J., Hall J. C. (2010). Seborrheic dermatitis, 
acne and rosacea. Sauer’s manual of skin diseases (Tenth 
Edidtion), Lippicott Williams & Wilkins, pp. 382-421.
6. Trần Thị Hạnh và Nguyễn Thị Giao Hạ (2012), Tỷ lệ 
mụn trứng cá và đặc điểm lâm sàng, các yếu tố liên quan 
ở sinh viên đại học Y dược Cần Thơ, Tạp chí Da Liễu học 
Việt Nam, số 8, tr. 26.
7. Trần Hậu Khang, Nguyễn Thị Hải Vân và Vũ Nguyệt 
Minh (2012), Ảnh hưởng của sẹo trứng cá đến chất lượng 
cuộc sống, Tạp chí Da liễu học Việt Nam, số 7, tr. 33-39.
8. Hoàng Văn Minh, Nguyễn Thúy Anh (2007). Một số 
vấn đề về mụ trứng cá ở người trưởng thành. Chăm sóc 
da, Nhà Xuất bản Y học, tr. 13-14.
9. Trần Ngọc Khánh Nam, Trần Lan Anh (2015), Đặc 
điểm bệnh Trứng cá do thuốc tại Bệnh viện Da Liễu Trung 
Ương, Tạp chí Da Liễu học Việt Nam, số 22, tr. 30-40
10. Nguyễn Thị Thanh Nhàn (1999), Đặc điểm lâm 
sàng về các yếu tố liên quan đến phát sinh mụn trứng cá 
thông thường, Luận văn y khoa Trường ĐHYK Hà Nội.
11. Đoàn Thị Ngọc Tuyết (2011), Nghiên cứu kiến 
thức, thái độ, thực hành về bệnh trứng cá của học sinh 
THPT huyện Long Thành, Đồng Nai, Tạp chí Da liễu học 
Việt Nam, số 10, tr. 44-49.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 khao_sat_kien_thuc_thai_do_thuc_hanh_ve_benh_trung_ca_o_benh.pdf khao_sat_kien_thuc_thai_do_thuc_hanh_ve_benh_trung_ca_o_benh.pdf