Khảo sát kiến thức và kỹ năng của chủ hộ tham gia mô hình homestay ở thành phố Cần Thơ

Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số các chủ nhà tham gia mô hình du lịch homestay một cách tự phát và chủ yếu là vì mục đích kinh tế, tăng thêm thu nhập. Các hộ kinh doanh mô hình này vẫn chưa ý thức rõ về lợi ích cộng đồng, về bản sắc văn hoá dân tộc mà mô hình mang lại. Đặc biệt là họ vẫn chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cũng như kỹ năng cần thiết để mô hình hoạt động đạt hiệu quả tốt. Trên thực tế đây là mô hình du lịch có tiềm năng nhưng hiệu quả khai thác còn rất thấp. Nguyên nhân chính có lẽ vì là hoạt động tự phát, phục vụ còn đơn giản, dịch vụ bổ sung cho khách chưa nhiều, đội ngũ lao động chưa được đào tạo qua trường lớp, yếu về trình độ ngoại ngữ. Nhà quản lý chưa có chiến lược phát triển lâu dài, vì vậy việc định hướng và công tác quản lý loại hình du lịch này còn gặp nhiều khó khăn. Qua khảo sát thực tế, cần có những giải pháp để mô hình du lịch homestay phát triển toàn diện. Cần có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực homestay; Ban hành tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở lưu trú nghỉ tại nhà dân để các hộ dân luôn phấn đấu giúp mô hình du lịch này phát triển bền vững ở các vùng ven hay nông thôn ở Cần Thơ.

pdf12 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 370 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát kiến thức và kỹ năng của chủ hộ tham gia mô hình homestay ở thành phố Cần Thơ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 1 KHẢO SÁT KIẾN THỨC VÀ KỸ NĂNG CỦA CHỦ HỘ THAM GIA MÔ HÌNH HOMESTAY Ở THÀNH PHỐ CẦN THƠ Nguyễn Lâm Điền1, Đặng Thị Bảo Dung2, Phan Thị Minh Uyên2, Hứa Như Ngọc2 1Khoa Đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Tây Đô 2Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tây Đô (Email: nldien@tdu.edu.vn) Ngày nhận: 18/12/2018 Ngày phản biện: 05/01/2019 Ngày duyệt đăng: 20/01/2019 TÓM TẮT Du lịch nghỉ tại nhà dân (homestay) khá phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng, hình thức này cũng đang nhận được sự quan tâm của du khách trong nước và du khách quốc tế. Một trong những yếu tố giúp cho mô hình này phát triển bền vững là sự hiểu biết và kỹ năng của chủ hộ đang trực tiếp quản lí hoạt động này. Mục tiêu của nghiên cứu nhằm tìm hiểu quan điểm, kiến thức và kỹ năng của các chủ hộ tại Cần Thơ đang tham gia mô hình homestay. Số liệu thu được từ bảng khảo sát và thảo luận trực tiếp với 18 homestay được phân tích thống kê mô tả. Ngoài ra, thang đo Cronbach Alpha được sử dụng để xác định độ tin cậy của các chuỗi câu hỏi. Kết quả cho thấy đa số người dân tham gia mô hình chủ yếu vì mục đích kinh tế, tăng thu nhập cho gia đình, chưa ý thức rõ về lợi ích cộng đồng của mô hình, về ý nghĩa của bản sắc văn hoá dân tộc, chưa được trang bị về những kiến thức và kỹ năng cần có khi tham gia mô hình du lịch này. Từ khóa: Chủ hộ, du lịch homestay, kiến thức, kỹ năng. Trích dẫn: Nguyễn Lâm Điền, Đặng Thị Bảo Dung, Phan Thị Minh Uyên và Hứa Như Ngọc, 2019. Khảo sát kiến thức và kỹ năng của chủ hộ tham gia mô hình homestay ở thành phố Cần Thơ. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế, Trường Đại học Tây Đô. Số Chuyên đề: 01-12. *Tiến sĩ Nguyễn Lâm Điền – Phó Trưởng Khoa Đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Tây Đô Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 2 1. GIỚI THIỆU Du lịch Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng trong những năm qua đang dần dần tạo nên những nét rất riêng, để lại ấn tượng tốt đẹp đối với du khách nội địa lẫn quốc tế. Nhiều mô hình du lịch đã xuất hiện tùy đặc điểm từng vùng miền, và một trong những mô hình đang được du khách rất ưa chuộng là dịch vụ homestay (nghỉ tại nhà dân). Du lịch homestay là mô hình du lịch đang phát triển tại Việt Nam, nhất là khu vực Tây Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long. Nét riêng của mô hình du lịch cộng đồng này chính là những điều mới lạ, nét văn hoá đặc sắc, độc đáo, đặc biệt hơn là ở những vùng có yếu tố thiên nhiên tươi đẹp, còn hoang sơ như miền núi hay vùng sông nước hoặc nơi có khí hậu đặc thù... Sự tham gia của cộng đồng vào phát triển du lịch quyết định sự phát triển du lịch bền vững, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch. Để loại hình homestay phát triển bền vững góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương, thì loại hình du lịch đặc trưng này cần có sự quan tâm và nhận thức sâu sắc của cộng đồng, đặc biệt là những người trực tiếp quản lý, kinh doanh loại hình du lịch này. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về những kiến thức và kỹ năng mà những nhà kinh doạnh và quản lý trực tiếp được trang bị đóng vai trò quan trọng cho sự thành công của loại hình này ở ĐBSCL nói chung và Cần Thơ nói riêng. 2. MÔ HÌNH HOMESTAY Ở VIỆT NAM VÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Homestay ở Việt Nam được khởi nguồn từ nhu cầu của những vị khách "Tây ba lô". Đây là loại hình du lịch dành cho các du khách thích khám phá, trải nghiệm và tìm hiểu phong tục, tập quán của nhiều nền văn hoá khác nhau. Nghỉ tại nhà dân giúp họ hiểu rõ hơn về cuộc sống và con người vùng đất đó bởi họ “được cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với gia đình chủ nhà trong không khí ấm cúng và thân thiện. Hơn nữa, hình thức lưu trú này cũng khá hợp lý về giá cả. Thông qua các lễ hội hay các hình thức du lịch sinh thái, du lịch homestay càng có điều kiện phát triển nhanh chóng. Việc phát triển loại hình này có tác động hai chiều, người đi du lịch thì thoả mãn mục đích của mình còn người bản địa có cơ hội giao lưu, tiếp cận với những nền văn hoá khác nhau trên thế giới. Trong những năm gần đây, các sản phẩm du lịch với mô hình nghỉ tại nhà dân không chỉ thu hút khách quốc tế mà còn thu hút cả khách nội địa. Một vài điểm đến nổi bật ở nước ta là SaPa (Lào Cai), Ba Bể (Bắc Cạn), Mai Châu (Hoà Bình)... và các tỉnh thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long. Tuỳ theo đặc điểm vùng miền, loại hình này khai thác thế mạnh dựa trên những đặc điểm vốn có để xây dựng một mô hình thích hợp. Như ở miền Tây, kết hợp với du lịch miệt vườn về quê bắt cá, tắm sông, đi chợ nổi, hái trái cây, nghe cải lương Hoặc ở miền núi khai thác cảnh quan thiên nhiên núi rừng, hang động, nhà sàn với nhiều hoạt động náo nhiệt như đốt lửa trại, nhảy sạp Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 3 Vùng đồng bằng sông Cửu Long với khí hậu ôn hoà, mát mẻ, ĐBSCL là vựa lúa của cả nước với những cánh đồng lúa mênh mông bát ngát, ngút ngàn tận chân trời. Nhờ con nước trong và đất phù sa màu mỡ nên gạo Cần Thơ luôn giữ được tinh chất ngọt của đất trời, và nguồn trái cây nhiệt đới quanh năm và những dòng sông uốn quanh chứa vô vàn tôm cá. Dựa vào những lợi thế đáng quý ấy, những nhà vườn tại ĐBSCL đang khai thác rất hiệu quả các loại hình du lịch sinh thái, đặc biệt là mô hình nghỉ tại nhà dân. Nói đến du lịch nghỉ tại nhà dân tại ĐBSCL, các đơn vị lữ hành và du khách thường biết đến “thương hiệu” homestay vườn nhà ông Tám Lộc (Vĩnh Long), Cái Sơn (Cần Thơ), Hai Hoàng, Ba Hùng, Sáu Giáo, Mười Hưởng, Mười Đầy, Hưng Homestay Khi tham gia loại hình này tại ĐBSCL, du khách được hoà vào không gian sống của người dân miền sông nước như đi chợ nổi, tát ao bắt cá, thu hoạch nông sản, cùng nấu và thưởng thức những món ăn dân dã, thưởng thức “đờn ca tài tử” theo đúng phương châm 3 cùng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm”. Một số chương trình du lịch thành công theo hình thức này là chương trình “Về quê tát mương bắt cá” tại Cồn Phụng (Bến Tre), “Một ngày làm nông dân”, Cái Bè (Vĩnh Long) hay Cần Thơ với “Bike Tour” đã rất thành công trong việc tạo ra sự mới lạ và thu hút mạnh đối với du khách. Hiện có nhiều đơn vị lữ hành tiến hành khai thác loại hình đầy tiềm năng này như Công ty Việt Phong MeKong, Vietravel, Fiditour, Bến Thành được đông đảo du khách trong nước và quốc tế lựa chọn Tuy đạt được những kết quả đáng kể nhưng các hoạt động vẫn còn rất nhỏ lẻ, theo kiểu tự phát, thiếu chuyên nghiệp, đầu tư chưa bài bản, trình độ nhân lực chưa được đảm bảo. Do đó, để loại hình du lịch này phát triển tương xứng với tiềm năng cần có những biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện, hỗ trợ cho các nhà vườn làm du lịch tại ĐBSCL nói chung, và ở Cần Thơ nói riêng, cần xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cho lực lượng lao động chuyên nghiệp làm việc trong du dịch vụ du lịch homestay. 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Câu hỏi nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành để tìm câu trả lời cho hai câu hỏi sau: 1. Quan điểm của chủ nhà về lợi ích của mô hình du lịch nghỉ tại nhà dân đối với cá nhân và cộng đồng là gì? 2. Các chủ nhà trang bị những kiến thức và kỹ năng gì khi tham gia mô hình du lịch này? 3.2. Đối tượng nghiên cứu và công cụ nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là những hộ gia đình kinh doanh và trực tiếp quản lí các cơ sở homestay tại Cần Thơ. Hiện nay ở Thành phố Cần Thơ có rất nhiều hộ kinh doanh theo mô hình này, nhưng trong nghiên cứu này chỉ tìm hiểu về những homestay ở những vùng ven và vùng quê, nơi có thể giúp cho du khách trãi Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 4 nghiệm cuộc sống đặc trưng của miền sông nước. Để thu thập thông tin, bảng câu hỏi khảo sát về động cơ, lợi ích kinh tế mà các ‘chủ nhà’ nhận được và những kiến thức và kỹ năng mà họ trang bị khi tham gia hoạt động kinh tế này được xem là công cụ chính. Các câu hỏi được thiết kế với 5 sự lựa chọn của Linkert từ 1-5 tương ứng với “rất đồng ý” – “rất không đồng ý”. Như vậy nếu kết quả càng gần 1 thì mức độ “đồng ý” càng cao. Ngoài ra, phỏng vấn trực tiếp cũng được áp dụng ngay sau khi thực hiện bảng khảo sát để làm phong phú thêm nguồn thông tin của nghiên cứu. Nội dung phỏng vấn cũng xoáy sâu vào các yếu tố đã được nêu trên. 3.3. Công cụ phân tích dữ liệu Phương pháp phân tích được sử dụng phần mềm SPSS. Dữ liệu thu thập được từ câu hỏi khảo sát được phân tích theo thống kê mô tả. Trong nghiên cứu này, việc xác định độ tin cậy của bảng câu hỏi là rất cần thiết. Vì thế, thang đo Cronbach alpha được sử dụng để phục vụ mục đích này. Theo qui định thì tất cả các chuỗi câu hỏi đều đáp ứng yêu cầu về độ tin cậy vì kết quả thấp nhất là 0,911. Bảng 1 dưới đây thể hiện độ tin cậy của các chuỗi câu hỏi qua thang đo Cronbach Alpha. Bảng 1. Độ tin cậy của các chuỗi câu hỏi Chuỗi câu hỏi Nội dung Cronchbach’s Alpha Số câu hỏi phụ 1 Anh chị có động cơ gì khi tham gia kinh doanh mô hình “homestay”? 0.911 5 2 Cảm nhận của anh chị về lợi ích kinh tế mà mô hình homestay mang lại cho cộng đồng 0.968 7 3 Kiến thức mà anh chị trang bị khi tham gia mô hình này 0.970 6 4 Những kỹ năng mà anh chị trang bị khi tham gia mô hình này 0.967 8 Tổng cộng 0.954 26 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1. Thông tin chung về các chủ hộ homestay Kết quả khảo sát cho thấy 66,67% chủ kinh doanh là nam và 33,33% là nữ. Điều này cho thấy nam giới chiếm đa số trong những người đứng ra quản lí trực tiếp và đưa ra những quyết định quan trọng trong kinh doanh ở vùng ven và vùng quê. Đa số các chủ kinh doanh ở độ tuổi 40-49, là độ tuổi đã có nhiều trãi nghiệm cuộc sống cũng như hiểu biết về văn hoá và con người địa phương tương đối phong phú. Dưới đây là bảng thông tin chung về các chủ nhà (Bảng 2). Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 5 Bảng 2. Thông tin về chủ nhà của các homestay Giới tính Số lượng Phần trăm Nam 12 66,67 Nữ 06 33,33 Tổng cộng 18 100.00 Tuổi 25-35 3 16.67 35-39 5 27,78 40-44 9 50.00 45-49 1 5,55 Trên 50 0 0.00 Tổng cộng 18 100.00 4.2. Quan điểm của chủ nhà kinh doanh mô hình homestay Để tìm hiểu quan điểm của chủ nhà khi tham gia mô hình này, hai chuỗi câu hỏi về động cơ tham gia và lợi ích cộng đồng của mô hình homestay được đưa ra để thu thập ý kiến. Động cơ tham gia Động cơ tham gia mô hình Du lịch này được thể hiện ở Bảng 3. Bảng 3. Động cơ tham gia mô hình homestay của các chủ nhà N Minimum Maximum Mean Std. Deviation CH1 Anh chị có động cơ gì khi tham gia kinh doanh mô hình homestay? 18 1.20 3.00 1.90 .509 CH1.1 Tôi muốn tìm nguồn thu nhập cho gia đình 18 1 2 1.17 .383 CH1.2 Tôi muốn tìm hiểu và tiếp xúc với những nên văn hoá khác nhau 18 2 4 2.78 .647 CH1.3 Tôi muốn bảo tồn di sản văn hoá địa phương 18 1 3 2.22 .647 CH1.4 Tôi muốn cung cấp nơi lưu trú cho du khách vì họ mang đến lợi ích cho địa phương 18 1 3 1.94 .539 CH1.5 Tôi muốn đa dạng hoá nguồn thu nhập của gia đình 18 1 3 1.39 .698 Nhìn chung, động cơ của chủ nhà khi tham gia mô hình này tương đối cao với M= 1.9. Trong đó ta có thể thấy động cơ kinh tế chiếm tỉ lệ cao nhất với M= 1.17 Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 6 trong khi đó động cơ “tìm hiểu và tiếp xúc với các nền văn hoá khác” lại thấp nhất với M= 2.78. Độ lệch giữa các động cơ cũng rất đáng lưu ý. Nói chung, động cơ chủ yếu của các chủ nhà khi tham gia mô hình này chính là nguồn thu nhập của gia đình. Lợi ích của mô hình đối với cộng đồng Bảng 3. Lợi ích của mô hình đối với cộng đồng N Minimum Maximum Mean Std. Deviation CH2 Cảm nhận của anh/chị về lợi ích mà mô hình homestay mang lại cho cộng đồng 18 1.43 3.71 2.16 .708 CH2.1 Mô hình homestay mang đến thu nhập cho người dân địa phương 18 1 3 1.39 .698 CH2.2 Mô hình homestay tạo cơ hội việc làm cho người dân địa phương 18 1 4 1.72 .895 CH2.3 Mô hình homestay có thể giúp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương 18 1 4 1.72 .895 CH2.4 Mô hình homestay rất hữu ích trong việc bảo tồn văn hoá truyền thống 18 2 4 2.67 .594 CH2.5 Mô hình homestay rất hữu ích trong việc tăng cường tính bình đẳng xã hội đối với người dân địa phương 18 2 4 2.94 .725 CH2.6 Mô hình homestay giúp ổn định lối sống của người dân địa phương 18 2 4 2.94 .802 CH2.7 Mô hình homestay giúp dân địa phương có cơ hội giao lưu, học hỏi các nền văn hoá khác nhau từ khắp nơi trên thế giới mà không cần rời khỏi địa phương 18 1 3 1.72 .752 Kết quả khảo sát cho thấy các chủ nhà chỉ cảm nhận tương đối về đóng góp của mô hình này đối với cộng đồng mà thôi (M= 2.15). Kết quả cụ thể được thể hiện ở bảng 3. Dựa vào bảng kết quả, ta thấy mô hình homestay mang đến nguồn thu nhập cho người dân địa phương chiếm sự đồng tình cao nhất. Tiếp theo là cả ba Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 7 yếu tố cơ hội việc làm, phát triển kinh tế-xã hội và giao lưu, học hỏi các nền văn hoá khác đều chiếm vị trí thứ hai. Trong khi đó, tính bình đẳng trong xã hội và ổn định lối sống của người dân lại ít được quan tâm nhất. Kết quả trên cho thấy mối quan tâm chủ yếu của người dân khi tham gia mô hình này là kinh tế của cộng đồng và thu nhập của gia đình mình. Kiến thức của chủ nhà tham gia mô hình homestay. Để tham gia hiệu quả thì chủ nhà nên có những kiến thức cần thiết giúp mình quản lí, điều hành homestay. Tuy nhiên, kết quả lại cho thấy chủ nhà đã không đáp ứng được các yêu cầu trên với M= 3.46. Dưới đây là bảng kết quả về những kiến thức mà chủ nhà có khi tham gia mô hình này. Kết quả cho thấy “những hiểu biết về đặc sản và những điểm du lịch ở địa phương” được các chủ nhà quan tâm nhiều nhất. Đáng ngạc nhiên là “kiến thức về kinh tế và doanh nghiệp” đứng vị trí thứ hai. Trong khi đó “kiến thức về quản lí và điều hành” là kiến thức rất cần thiết lại đứng ở vị trí cuối cùng. Kết quả trên cho thấy kiến thức mà các chủ nhà trang bị cho bản thân vẫn chưa thể đáp ứng đầy đủ được yêu cầu so với thực tế của việc kinh doanh mô hình này. Bảng 4. Kiến thức mà chủ nhà trang bị khi tham gia mô hình homestay N Minimum Maximum Mean Std. Deviation CH3 Kiến thức mà anh/ chị trang bị khi tham gia mô hình này 18 2.00 4.83 3.46 .782 CH3.1 Tôi có kiến thức về quản lí và điều hành mô hình homestay 18 2 5 3.89 .832 CH3.2 Tôi có kiến thức về ngành Du lịch 2 5 3.83 .985 CH3.3 Tôi có kiến thức về đặc sản và những điểm thu hút Du lịch ở địa phương 18 2 5 2.94 .938 CH3.4 Tôi có kiến thức về kinh tế và doanh nghiệp 18 2 4 3.11 .676 CH3.5 Tôi có kiến thức về dịch vụ khách hàng 18 2 5 3.50 .786 CH3.6 Tôi biết những kỳ vọng của ngành Du lịch đối với mô hình homestay và tôi đang hoạt động vì những điều đó 18 2 5 3.50 .786 Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 8 Kỹ năng của chủ nhà tham gia mô hình homestay Song song với kiến thức thì kỹ năng cũng đóng vai trò quan trọng không kém trong việc thực hiện mô hình homestay. Nhìn chung thì các kỹ năng được các chủ nhà trang bị là dưới mức trung bình với M= 3.04. Kết quả cho thấy không có kỹ năng nào của các chủ nhà đáp ứng được yêu cầu khi tham gia mô hình này, vì kỹ năng nhận được sự công nhận cao nhất là “phục vụ khách hàng” cũng chỉ ở mức 2.78 trong khi 2.5 là mức trung bình. Đáng ngạc nhiên là “kỹ năng cân đối tài chánh” lại nhận được sự công nhận thấp nhất. Nếu như vậy thì việc phát triển mô hình này theo đúng xu hướng kinh tế và mang lại hiệu quả kinh tế là một điều khá khó khăn đối với các hộ gia đình. Bảng 5. Kỹ năng của chủ nhà khi tham gia mô hình homestay N Minimum Maximum Mean Std. Deviation CH4 Những kỹ năng mà bạn trang bị khi tham gia mô hình này 18 2.00 4.13 3.042 .6063 CH4.1 Tôi có kỹ năng về phục vụ khách hàng 18 2 4 2.78 .647 CH4.2 Tôi có kỹ năng về giao tiếp tốt 18 2 4 3.11 .758 CH4.3 Tôi có kỹ năng giới thiệu về những sản phẩm Du lịch ở địa phương 18 2 4 3.00 .767 CH4.4 Tôi có kỹ năng chuẩn bị các gói Du lịch 18 2 4 2.94 .725 CH4.5 Tôi có kỹ năng cân đối tài chánh 18 2 5 3.50 .707 CH4.6 Tôi có kỹ năng duy trì và phát triển các mối quan hệ trong xã hội 18 2 4 3.11 .583 CH4.7 Tôi có thể sử dụng máy tính và Internet 18 2 4 2.83 .618 CH4.8 Tôi có thể giao tiếp với du khách quốc tế bằng ngoại ngữ 18 2 4 3.06 .539 Thảo luận kết quả từ phỏng vấn Qua thảo luận trực tiếp với chủ hộ về động cơ tham gia mô hình và lợi ích mà mô hình mang đến cho cộng đồng thì hầu hết các chủ hộ đều nhấn mạnh về nguồn thu nhập của cá nhân và địa phương. Trong khi đó, yếu tố tìm hiểu và tiếp xúc với những nên văn hoá khác nhau không nhận được sự quan tâm. Điều này cho thấy các hộ dân chỉ mới dừng lại ở việc quan tâm đến giá trị kinh tế trước mắt mà chưa nghĩ nhiều đến các Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 9 yếu tố văn hoá, là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch đến với mô hình thú vị này. Đáng lưu ý là trong số 18 cơ sở thì chỉ có 16,6% chủ hộ là có tham gia khoá học chính quy, còn lại chỉ tìm hiểu qua Internet, thậm chí có 1 hộ gia đình chỉ vận dụng những hiểu biết và kinh nghiệm bản thân mà thôi. Theo các hộ gia đình này thì đặc sản và những điểm thu hút khách du lịch là quan trọng nhất. Về kỹ năng thì họ lại cho rằng kỹ năng phục vụ khách hàng là quan trọng nhất. Theo họ thì những kiến thức và kỹ năng này giúp họ kinh doanh tốt hơn, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng tốt hơn. Như vậy có 16,6% chủ nhà có cái nhìn tương đối sâu rộng hơn những người còn lại. Có thể do họ có tham gia khoá học chính quy, có tìm hiểu sâu về kinh tế nên họ có cái nhìn tương đối toàn diện hơn những hộ còn lại. Tất cả các hộ kinh doanh đều hài lòng với những gì họ đang có được từ mô hình này. Tuy nhiên, để mô hình hoạt động được hiệu quả hơn thì họ mong sẽ nhận được tập huấn cụ thể giúp họ có những cải tiến phù hợp. Ngoài ra, việc liên kết giữa các homestay cũng rất cần thiết để nhận được sự hỗ trợ hiệu quả lẫn nhau. Nhìn chung, người dân tham gia mô hình homestay chủ yếu là vì mục đích kinh tế. Do tự phát nên đa số vẫn chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cũng như các kỹ năng cần thiết để tham gia hiệu quả vào mô hình này. 5. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số các chủ nhà tham gia mô hình du lịch homestay một cách tự phát và chủ yếu là vì mục đích kinh tế, tăng thêm thu nhập. Các hộ kinh doanh mô hình này vẫn chưa ý thức rõ về lợi ích cộng đồng, về bản sắc văn hoá dân tộc mà mô hình mang lại. Đặc biệt là họ vẫn chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cũng như kỹ năng cần thiết để mô hình hoạt động đạt hiệu quả tốt. Trên thực tế đây là mô hình du lịch có tiềm năng nhưng hiệu quả khai thác còn rất thấp. Nguyên nhân chính có lẽ vì là hoạt động tự phát, phục vụ còn đơn giản, dịch vụ bổ sung cho khách chưa nhiều, đội ngũ lao động chưa được đào tạo qua trường lớp, yếu về trình độ ngoại ngữ... Nhà quản lý chưa có chiến lược phát triển lâu dài, vì vậy việc định hướng và công tác quản lý loại hình du lịch này còn gặp nhiều khó khăn. Qua khảo sát thực tế, cần có những giải pháp để mô hình du lịch homestay phát triển toàn diện. Cần có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực homestay; Ban hành tiêu chuẩn xếp hạng cơ sở lưu trú nghỉ tại nhà dân để các hộ dân luôn phấn đấu giúp mô hình du lịch này phát triển bền vững ở các vùng ven hay nông thôn ở Cần Thơ. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Akama, J.S. & Kieti, D., 2007. Tourism and Socio-economic Development in Developing Countries; A case of Mombasa Resort in Kenya: Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 10 Journal of Sustainable Tourism, 15(6), 735-748. 2. Ary, D., Jacobs, L., Razavieh, A., & Sorensen, C., 2006. Introduction to Research in Education. Belmont, CA: Wadsworth-Thompson Learning 3. Butcher, R., 2003. The moralisation of tourism: Sun, sand and saving the world? London, UK: Routledge. 4. Brunner-Sperdin, A. & Peters, M., 2009. What Influences guests‟ emotions? The Case of high-quality hotels: International Journal of Tourism Research, 11(2), 171 -183. 5. Bryman, A. & Bell, E., 2007. Business Research Methods (2nd.ed). New York, USA: Oxford University Press. 6. Colton, J.W. & Whitney-Squire, K., 2010. Exploring the Relationship between Aboriginal Tourism and Community Development. Journal of Leisure Studies, 34(3), 261-278 7. Chaiyatorn, S., Kaoses, P., & Thitphat, P., 2010. The developmental model of cultural tourism homestay of the Lao Vieng and Lao song ethnic groups in the central region of Thailand. Journal of Social Sciences, 6, 130-132. 8. Crompton, J. L., & McKay, S. L., 1997. Motives of visitors attending festival events. Annals of Tourism Research, 24(2), 425–439. 9. Cromie, S., 2000. Assessing Entrepreneurship inclinations: some approaches and empirical evidence. European Journal of work and organizational Psychology. 9(1), 7-30 10. Cronbach, L.J. & Shavelson R.J., 2004. My Current Thoughts on Coefficient Alpha And Successor Procedures. Educational and Psychological Measurement, 64(3), 391- 418. 11. Dahles, H., 2000. Tourism, Small Enterprises and Community Development. In Tourism and Sustainable Community Development. G. Richards and D. Hall (Eds). London: Routledge. 12. David, M. & Sutton, D. C., 2004. Social Research: The basics. London: Sage Publications Ltd. Decrop, M.K.A. (2009). Handbook of tourist behavior: Theory & Practice. New York: 13. Dobni, D. & Zinkhan, G., 1990. “In Search of Brand Image: A Foundation Analysis”; Advances in Consumer Research, 17: Marvin E.G; Gerald, G and Richard (eds.), W.P: Association of Consumer Research, 110- 119. 14. Donnelley, R.R., 2007. Building Community Capacity: Resources for Community Learning & Development Practice. Scotland: Scottish Government Retrieved October 23, 2013, from 15. DoT., 2013. Homestays Directory per County. Retrieved June 17, 2013, from www.tourism.go.ke. 16. DoT., 2012. Kenya to Learn from the New Tourism Concept- Homestays. Retrieved January 14, 2013, from Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 11 www.tourism.go.ke DoT. (2011). Approved Criteria for Homestays, Nairobi: Directorate of Tourism. 17. DoT., 2010. Tourism Performance Overview. Retrieved January 15, 2014, from www.tourism.go.ke Fecto. (2013). Federation for Community Based Tourism Organizations. Retrieved January 14, 2014, from www.fectokenya.org 18. Fodness, D., 1994. Measuring tourism motivation. Annals of Tourism Research, 21(3), 555-581. 19. Getty, J.M., Tas, R.F., & Getty, R.L., 1991. Quality assessment of Hotel and Restaurant Management graduates: Are we meeting our mission? Hospitality Research Journal. 14 (2), 393-404. 20. Goodman, R.J. & Sprague, L.G., 2001.The future of hospitality education; meeting the industry‟s needs. The Cornell Hotel and restaurant Administration Quarterly. 32 (2), 66-69. 21. Goodwin, H., 2009. Community- Based Tourism: a success? ICRT Occasional Paper 11. Retrieved June 2, 2013, from ss/pressharold-goodwin. 22. Taylor and Francis Decrop, M.K.A., 2006. Vacation Decision Making. New York: CABI Publishing. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô Số Chuyên đề - 2019 12 OPERATORS’ CONCEPTION, KNOWLEDGE AND SKILLS IN HOMESTAY PROGRAM IN CANTHO CITY Nguyen Lam Dien1, Dang Thi Bao Dung2, Phan Thi Minh Uyen2, Hua Nhu Ngoc2 1School of Graduate, Tay Do University 2Faculty of Linguistics and Literature, Tay Do University (Email: nldien@tdu.edu.vn) ABSTRACT Homestay is quite popular in a lot of countries in the world. In Vietnam and in the Mekong Delta in particular, this type of tourism has attracted a remarkable interest from domestic tourists and international tourists, as well. One of the factors contributing to substainable development for this type of tourism is studying the operators who are directly managing this business. This research aimed to find out operators’ conception, knowledge and skills in participating in homestay program. Data collected from 20 questionnaires was analysed using SPSS program. In addition, Cronbach alpha (α) was used to determine the reliability of the clusters. The results indicated that most operators took part in this program for their finance and income increase. They did not learn deeply about cultural elements yet. Besides, they did not obtain a comprehensive view of necessary knowledge and skills for this program. Keywords: Homestay, knowledge, operators’ skill.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_kien_thuc_va_ky_nang_cua_chu_ho_tham_gia_mo_hinh_ho.pdf