Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành
xác định kiểu gen và tỉ lệ allele của rs12510549
(T>C) bằng phương pháp PCR–RFLP. Kết quả
thu được đã chỉ ra sự phân bố đồng đều của allele
hiếm C ở cả 2 nhóm bệnh chứng, đồng thời xác
định được sự phân bố của đa hình này tuân theo
định luật cân bằng Hardy–Weinberg với giá trị p
> 0,05. Qua đó, khẳng định tính ngẫu nghiên và
đại diện của quần thể người Việt trong nghiên
cứu.
Ngoài ra, chúng tôi cũng tiến hành đánh giá
sự ảnh hưởng của rs12510549 lên nồng độ uric
acid và nguy cơ mắc bệnh gút. Giá trị p thu được
ở tất cả các mô hình, kiểu gen và kiểu allele đều
lớn 0,05; do đó rs12510549 không liên quan đến
nồng độ uric acid cũng như nguy cơ mắc bệnh
gút ở quần thể người Việt trong nghiên cứu.
Như vậy, kết quả này thể hiện sự khác biệt về
ảnh hưởng của rs12510549 lên nồng độ uric
acid ở quần thể người Việt so với các quần thể
khác trên thế giới. Trong khi đó, kết quả đánh
giá ảnh hưởng rs12510549 với nguy cơ mắc
bệnh gút quần thể người Việt lại thể hiện sự
tương đồng với các quần thể có nguồn gốc và vị
trí gần gũi với người Việt (người Maori hay
người gốc đảo Thái Bình Dương hoặc người gốc
Á nói chung). Tuy nhiên, nó trái ngược với kết
quả nhận được từ nghiên cứu trên người da
trắng ở khu vực châu Âu và New Zealand. Như
vậy, có thể thấy ảnh hưởng của đa hình
rs12510549 đến nồng độ uric acid và nguy cơ
mắc gút ở người Việt tồn tại những khác biệt
nhất định đối với các quần thể khác trên thế giới,
đặc biệt là đối với những quần thể da trắng. Điều
này có thể giải thích do những khác biệt căn bản
về di truyền, lối sống hay các yếu tố môi trường
giữa các quần thể.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát mối liên quan của SLC2A9 rs12510549 với nồng độ Uric Acid và bệnh gút ở người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(1): 49-57, 2020
49
KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN CỦA SLC2A9 rs12510549 VỚI NỒNG ĐỘ URIC ACID
VÀ BỆNH GÚT Ở NGƯỜI VIỆT NAM
Nguyễn Trần Minh Thắng1,2,3, Nguyễn Doãn Tình1, Nông Văn Hải1,2, Nguyễn Thùy Dương1,2,*
1Viện Nghiên cứu hệ gen, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Học viện Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
3Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
*Người chịu trách nhiệm liên lạc. E-mail: tdnguyen@igr.ac.vn
Ngày nhận bài: 19.11.2019
Ngày nhận đăng: 29.02.2020
TÓM TẮT
Gút là dạng viêm khớp phổ biến ở Việt Nam và trên thế giới, gây ra bởi sự tăng vượt
ngưỡng nồng độ uric acid trong máu. Sự xuất hiện của gút chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố
nguy cơ như chế độ ăn uống, sinh hoạt và đặc biệt là các yếu tố di truyền. Các nghiên cứu
đã chỉ ra sự liên quan của gút đối với các đa hình nằm trên các gen mã hóa các kênh protein
vận chuyển, trong đó có đa hình SLC2A9 rs12510549. Với mục đích đánh giá sự liên quan
của đa hình rs12510549 với nồng độ uric acid và bệnh gút ở người Việt, chúng tôi đã tiến
hành xác định kiểu gen đa hình của 519 đối tượng (168 bệnh nhân gút và 351 người khỏe
mạnh) bằng phương pháp PCR–RFLP. Sự liên quan giữa phân bố kiểu gen, tần suất allele
đa hình với nồng độ uric acid và bệnh gút được đánh giá thông qua các phương pháp thống
kê sinh học. Kết quả cho thấy sự phân bố của đa hình rs12510549 tuân theo định luật cân
bằng Hardy–Weinberg với giá trị p>0,05, với tỉ lệ các kiểu gen TT/TC/CC tương ứng là
0,73/0,25/0,02, khẳng định tính ngẫu nhiên và đại diện của quần thể nghiên cứu. Phân bố
kiểu gen và tần suất allele rs12510549 được xác định không liên quan đến nồng độ uric acid
và bệnh gút ở quần thể người Việt với giá trị p tương ứng đều lớn hơn 0,05. Để khẳng định
chắc chắn về kết quả này cần thực hiện thêm các nghiên cứu khác với cỡ mẫu lớn hơn ở
người Việt Nam.
Từ khoá: bệnh gút, SLC2A9, Việt Nam, rs12510549, PCR–RFLP
MỞ ĐẦU
Uric acid (C5H4N4O3) là một loại acid yếu
thường tồn tại dưới dạng muối urat hòa tan
trong huyết tương (Ruiz et al., 2018). Trong cơ
thể, nhờ sự cân bằng giữa hai quá trình tổng
hợp và đào thải, nồng độ uric acid luôn được
duy trì ở mức độ ổn định là 5,1 ± 1,0 mg/dL
(420 µmol/L) đối với nam giới khoẻ mạnh và
4,0 ± 1 mg/dL (360 µmol/L) ở nữ giới
(Sorensen 1965, Watts 1966). Tuy nhiên, khi
trạng thái cân bằng bị phá vỡ do tăng tiêu thụ
các thực phẩm giàu purin hay do các bệnh lý
về thận dẫn đến sự rối loạn bài tiết uric acid;
nồng độ uric acid có thể tăng vượt ngưỡng dẫn
đến sự lắng đọng tinh thể urat và gây phản ứng
viêm tại các vị trí ở khớp, sụn, xương và các
mô liên kết. Tình trạng này được xem là
nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh gút ở người
(Neogi et al., 2016). Ngoài ra, một số các
nghiên cứu tương quan trên toàn bộ hệ gen
(Genome Wide Association Studies) và nghiên
Nguyễn Trần Minh Thắng et al.
50
cứu trên số lượng mẫu lớn (Meta-analysis)
cũng đã chỉ ra nguyên nhân liên quan đến di
truyền của bệnh gút. Các nghiên cứu này đã
xác định được sự tương quan mật thiết giữa
hàm lượng uric acid trong máu và nguy cơ mắc
bệnh gút với các đa hình nucleotide đơn (SNP)
ở 28 locus di truyền của 6 gen mã hóa cho các
kênh protein vận chuyển urat nằm trên màng tế
bào, trong đó có gen SLC2A9 (Hollis- Moffatt
et al., 2009).
SLC2A9 nằm trên nhiễm sắc thể số 4 (4p16)
mã hóa cho 2 đồng phân của protein vận
chuyển urat GLUT9. Chúng được biểu hiện
chủ yếu ở gan, thận, ruột và đóng vai trò quan
trọng trong quá trình tái hấp thu và chuyển hóa
uric acid tại đây (Matsuo et al., 2008). Năm
2008, nhóm nghiên cứu của Anita Brandstätter
đã chứng minh sự xuất hiện của 4 đa hình SNP
trên SLC2A9 (rs6855911, rs7442295,
rs6449213 và rs12510549) có tác dụng thúc
đẩy khả năng vận chuyển urat của protein
GLUT9, qua đó làm nồng độ uric acid trung
bình giảm xuống từ 0,30 – 0,35 mg/dL
(Brandstätter et al., 2008) (Brandstätter et al.,
2008b). Trong số chúng, chỉ có ảnh hưởng của
rs12510549 tiếp tục được phân tích và đánh giá
trong nhiều nghiên cứu tiếp theo. Cụ thể, ở 2
nghiên cứu của Brandstatter và Doring, sự xuất
hiện của mỗi một allele hiếm C (minor allele)
của rs12510549 được xác định sẽ làm nồng độ
uric acid giảm xuống khoảng 0,229 – 0,428
mg/dL ở nam giới và 0,352 – 0,416 mg/dL ở
nữ giới (Brandstätter et al., 2008, Döring et al.,
2008). Ngoài ra, nghiên cứu mới nhất năm
2017 của Lee trên 1472 bệnh nhân gút và 3269
người khỏe mạnh da trắng và gốc Á cũng đã
xác định được đa hình rs12510549 có liên quan
đến nguy cơ mắc bệnh gút (Lee et al., 2017).
Với giá trị p = 4,1× 10-7 và OR = 0,64, đa hình
này được chứng minh làm giảm nguy cơ mắc
bệnh gút ở quần thể nghiên cứu. Các kết quả
tương tự cũng đã được quan sát thấy trong
nghiên cứu của Stark trên 2 nhóm quần thể
người Ý và Tây Âu (Stark et al., 2008).
Như vậy, có thể thấy đa hình rs12510549
đã được nghiên cứu nhiều trên thế giới. Tuy
nhiên, ở Việt Nam hiện nay, chưa có nghiên
cứu nào về đa hình này được thực hiện. Do đó,
chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm xác
định sự phân bố của rs12510549 đồng thời xác
định mối tương quan giữa kiểu gen và tần suất
allele của đa hình này với nồng độ uric acid và
nguy cơ mắc bệnh gút ở quần thể người Việt.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Mẫu phân tích
Mẫu máu của 519 cá thể được thu thập tại
Bệnh viện Nguyễn Trãi, thành phố Hồ Chí Minh,
bao gồm 168 bệnh nhân gút và 351 cá thể khỏe
mạnh (đối chứng). Các bệnh nhân gút được chẩn
đoán dựa trên tiêu chuẩn của Hội Thấp khớp học
Hoa Kỳ năm 2015 (Neogi et al., 2016). Các mẫu
máu sau khi thu thập được chống đông bằng
EDTA và bảo quản ở -20oC trước khi được
chuyển đến phòng thí nghiệm.
Tách chiết DNA tổng số
DNA tổng số được tách chiết từ các mẫu máu
bằng Kit GeneJET Whole Blood Genomic DNA
Purification (Thermo Fisher Scientific). Các mẫu
DNA tổng số được kiểm tra chất lượng thông qua
điện di và đo nồng độ. Các mẫu DNA sau đó
được pha loãng về nồng độ 10 ng/µL nhằm thiết
lập bộ mẫu tiêu chuẩn và bảo quản ở nhiệt độ
-20oC.
Xác định kiểu gen của đa hình rs12510549
Trình tự cặp mồi được sử dụng cho phản ứng
PCR khuếch đại vùng trình tự đích mang vị trí đa
hình rs12510549:
SLC2A9-rs12510549F: 5’-
ACTCGCAAGGCTGAAACAGTCA - 3’
SLC2A9-rs12510549R: 5’-
CAGCAGTAGCACAGTCCATA - 3’
Thành phần phản ứng PCR bao gồm: 1 µL
buffer PCR 10X, 0,5 µL dNTP 2,5 mM, 0,15 µL
mồi xuôi và ngược (10 pmol), 0,05 µL Taq
polymerase, 2 µL DNA (10 ng/µL) và H2O, tổng
thể tích 10 µL. Phản ứng được tiến hành với chu
trình nhiệt: 95oC/5 phút, (95oC/30 giây, 54oC/15
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(1): 49-57, 2020
51
giây, 72oC/25 giây) 35 chu kì, 72oC/5 phút. 2 µL
sản phẩm PCR được điện di kiểm tra trên gel
agarose 0,8%.
Sản phẩm PCR được xử lí với enzyme
HindIII (Thermo Fisher Scientific) ở 37oC trong
12 h. Tổng thể tích phản ứng cắt 10 µL bao gồm:
1 µL buffer R, 0,1 µL enzyme HindIII, 3 µL sản
phẩm PCR và H2O. Sản phẩm cắt sau đó được
điện di trên gel agarose 1,5%. Thông qua kích
thước và số lượng các băng DNA quan sát được;
kiểu gen của đa hình rs12510549 được xác định
(Bảng 1).
Phân tích số liệu
Dữ liệu rs12510549 được phân tích bằng
phần mềm SPSS 22. Các kiểm định được coi là
có ý nghĩa thống kê khi giá trị p<0,05. Kiểm định
Chi bình phương (χ2) được sử dụng để kiểm tra
trạng thái cân bằng Hardy–Weinberg (HWE) của
quần thể. Kiểm định này cũng được sử dụng để
đánh giá sự tương quan giữa kiểu gen, kiểu allele
của rs12510549 với nguy cơ mắc bệnh gút cùng
các kiểm định chính xác Fisher và Mann
Whitney U. Cụ thể, mối tương quan giữa kiểu
gen đa hình với chỉ số nồng độ uric acid và gút
sẽ được xem xét ở 4 mô hình (cộng gộp, trội,
đồng trội và lặn) và được ước tính bằng chỉ số
OR (odds ratio) với khoảng tin cậy 95%.
Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được Hội đồng đạo đức trong
nghiên cứu y sinh học của Viện Nghiên cứu hệ
gen thông qua và đồng ý cho phép tiến hành lấy
mẫu, nghiên cứu trên người theo quyết định số
01-2017/NCHG-HDDD. Các đối tượng hoàn
toàn tự nguyện ký vào giấy đồng ý cho mẫu tham
gia nghiên cứu và có thể rút lui ở bất kỳ thời điểm
nào của nghiên cứu.
Bảng 1. Số lượng và kích thước các băng sản phẩm cắt tương ứng với các kiểu gen SLC2A9 rs12510549.
Kiểu gen Số lượng băng DNA Chiều dài băng (bp)
TT 1 351
CC 2 118, 233
TC 3 118, 233, 351
KẾT QUẢ
Xác định kiểu gen đa hình rs12510549
Sau khi tách, DNA tổng số được kiểm tra
bằng cách điện di trên gel agarose 1%. Kết quả
điện di cho thấy các mẫu DNA ít bị đứt gãy với
các băng điện di sáng, rõ nét, đảm bảo cho phản
ứng PCR khuếch đại vùng trình tự mang đa hình
rs12510549. Kết quả điện di sản phẩm PCR thu
được các băng DNA sáng đều, rõ nét và có kích
thước đúng như thiết kế lý thuyết (Hình 1).
Sản phẩm PCR sau đó tiếp tục được xử lí với
enzyme HindIII. Dựa trên kích thước và số lượng
băng DNA thu được khi điện di sản phẩm cắt
(Bảng 1), kiểu gen đa hình sẽ được xác định. Cụ
thể, kết quả điện di sản phẩm cắt một số mẫu đại
diện ở Hình 2 cho thấy: các giếng 1, 2, 4, 5 có
kiểu gen TT (chỉ có 1 băng DNA với kích thước
351 bp); hai giếng 9, 10 có kiểu gen CC (có 2
băng DNA với kích thước tương ứng là 233 bp
và 118 bp); các giếng 3, 6, 7, 8, 11 có kiểu gen dị
hợp TC (3 băng DNA với kích thước tương ứng
351, 233, 118 bp).
Thống kê kiểu gen và tần suất allele của đa
hình rs12510549 ở tất cả các mẫu được thể hiện
trong Bảng 2. Kết quả này cho thấy không có sự
chênh lệch lớn giữa 2 nhóm bệnh và nhóm
chứng về tỉ lệ kiểu gen và tần suất allele
rs12510549. Ngoài ra, thông qua kiểm định Chi
bình phương, sự phân bố của đa hình này được
xác định tuân theo định luật cân bằng Hardy–
Weinberg với giá trị p > 0,05, qua đó khẳng định
tính ngẫu nhiên và đại diện của quần thể người
Việt trong nghiên cứu.
Nguyễn Trần Minh Thắng et al.
52
Phân tích tương quan giữa rs12510549 và
nồng độ uric acid
Chúng tôi sử dụng kiểm định Chi bình
phương để đánh giá mối tương quan giữa kiểu
gen và tần suất allele của đa hình rs12510549 với
nồng độ uric acid. Kết quả phân tích kiểu gen với
nồng độ uric acid được thể hiện ở Bảng 3 cho
thấy: giá trị p thu được ở cả 4 mô hình phân tích
(cộng gộp, trội, đồng trội và lặn) đều lớn hơn
0,05. Do đó kiểm định không có ý nghĩa thống
kê và tỉ lệ kiểu gen của đa hình rs12510549
không liên quan đến nồng độ uric acid ở quần thể
nghiên cứu.
Tương tự, giá trị p thu được khi phân tích mối
tương quan giữa các kiểu allele của đa hình với
uric acid cũng lớn hơn 0,05 (Bảng 3). Vì vậy,
kiểu allele của rs12510549 cũng không liên quan
đến nồng độ uric acid.
Hình 1. Ảnh điện di sản phẩm PCR. M: Marker 1kb plus; 1–11: Sản phẩm khuếch đại một số mẫu nghiên cứu;
-: Đối chứng âm.
Hình 2. Điện di một số sản phẩm PCR cắt bằng enzyme HindIII. M: Marker 1kb; 1–8: Sản phẩm cắt các mẫu
gút; 9–16: Sản phẩm cắt các mẫu đối chứng. Kiểu gen:TT: 1,2,4,5; GA: 3,6,7,8,11; CC: 9,10.
Bảng 2. Thống kê kiểu gen và tần suất allele đa hình SLC2A9 rs12510549.
Kiểu gen Tần suất allele Giá trị p HWE
TT TC CC T C
Nhóm chứng 254 90 7 0,852 0,148 0,49 +
Nhóm bệnh 124 39 5 0,854 0,146 0,37 +
Tổng số 378 129 12 0,853 0,147 0,8 +
Ghi chú: HWE: Cân bằng Hardy–Weinberg; +: Tuân theo định luật cân bằng Hardy–Weinberg.
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(1): 49-57, 2020
53
Phân tích tương quan giữa rs12510549 và
nguy cơ mắc bệnh gút
Mối tương quan giữa tỉ lệ kiểu gen và kiểu
allele của rs12510549 với nguy cơ mắc bệnh gút
được đánh giá thông qua kiểm định Mann
Whitney U. Kết quả phân tích cho thấy giá trị p
ở 4 mô hình kiểu gen (cộng gộp, trội, đồng trội
và lặn) và kiểu allele đa hình đều lớn hơn 0,05.
Do đó, tỉ lệ kiểu gen và kiểu allele của đa hình
rs12510549 đều không liên quan đến nguy cơ
mắc bệnh gút ở quần thể nghiên cứu.
Bảng 3. Kết quả phân tích tương quan giữa SLC2A9 rs12510549 với nồng độ uric acid.
Kiểu gen Nhóm chứng Nhóm bệnh Giá trị p
n (%) Nồng độ uric
acid (mg/dL)
n (%)
Nồng độ uric
acid (mg/dL)
rs12510549
Mô hình cộng gộp 0,565
TT 254 (72,4) 7,00 124 (73,8) 9,17
TC 90 (25,6) 8,99 39 (23,2) 9,83 0,521
CC 7 (2,0) 7,22 5 (3,0) 7,85 0,929
Mô hình trội
TT 254 (72,4) 7,00 124 (73,8) 6,98
TC + CC 97 (27,6) 6,94 44 (26,2) 9,61 0,505
Mô hình lặn
TT + TC 344 (98,0) 6,97 163 (97,0) 9,33
CC 7 (2,0) 7,22 5 (3,0) 7,85 0,516
Mô hình đồng trội
TT + CC 261 (74,4) 6,99 129 (73,8) 9,12
TC 90 (25,6) 8,99 39 (26,2) 9,17 0,901
Tần suất allele
T 598 (85,2) 6,98 287 (85,4) 9,26
C 104 (14,8) 6,96 49 (14,6) 9,43 0,821
Ghi chú: n (%): Số lượng cá thể (phần trăm); giá trị p được tính bằng kiểm định Chi bình phương
Nguyễn Trần Minh Thắng et al.
54
Bảng 4. Kết quả phân tích sự tương quan giữa SLC2A9 rs12510549 với nguy cơ mắc bệnh gút.
Kiểu gen Nhóm chứng
n (%)
Nhóm bệnh
n (%)
OR 95% CI Giá trị p
rs12510549
Mô hình cộng gộp 0,785
TT 254 (72,4) 124 (73,8) 1,00
TC 90 (25,6) 39 (23,2) 0,888 0,576 – 1,368 0,590
CC 7 (2,0) 5 (3,0) 1,463 0,455 – 4,703 0,521
Mô hình trội
TT 254 (72,4) 124 (73,8) 1,00
TC + CC 97 (27,6) 44 (26,2) 0,888 0,576 – 1,368 0,729
Mô hình lặn
TT + TC 344 (98,0) 163 (97,0) 1,00
CC 7 (2,0) 5 (3,0) 1,648 0,493 – 5,514 0,486
Mô hình đồng trội
TT + CC 261 (74,4) 129 (73,8) 1,00
TC 90 (25,6) 39 (26,2) 0,734 0,367 – 1,469 0,549
Tần suất allele
T 598 (85,2) 287 (85,4) 1,00
C 104 (14,8) 49 (14,6) 0,827 0,461 – 1,482 0,679
Ghi chú: n (%): Số lượng cá thể (phần trăm); OR: Tỉ số odds ratio; 95% CI: Khoảng tin cậy 95%; giá trị p được
tính bằng kiểm định Mann Whitney U.
BÀN LUẬN
Gút là dạng viêm khớp phổ biến ở Việt Nam
và trên thế giới. Sự xuất hiện của gút chịu ảnh
hưởng của các yếu tố nguy cơ như chế độ ăn
uống, sinh hoạt và đặc biệt là các yếu tố di truyền.
Các nghiên cứu đã chỉ ra sự liên quan của bệnh
đối với nhiều nhóm gen như các gen mã hóa cho
kênh protein màng vận chuyển urate (SLC22A12,
SLC2A9, OAT4, SLC17A1), các kênh protein
vận chuyển chủ động cần ATP (ABCG2,
ABCC4) hoặc nhóm các gen mã hóa cho
interleukin và protein phản ứng viêm (IL1β,
CD14, IL-8, IL-12B, TNF-α) (Zhu et al., 2018).
SLC2A9 là gen mã hóa cho kênh protein vận
chuyển nhạy cảm điện áp GLUT9/SLC2A9,
thuộc nhóm kênh protein màng vận chuyển urat.
Nghiên cứu năm 2008 của Vitart và cộng sự trên
tế bào trứng ếch Xenopus đã chứng minh tầm
quan trọng trong chức năng vận chuyển urat của
GLUT9. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra khả năng
vận chuyển urat của GLUT9 cao gấp 50 lần so
với khả năng vận chuyển glucose (cơ chất vận
chuyển khác của GLUT9), đồng thời khả năng
vận chuyển urat của GLUT9 cũng cao hơn so với
URAT1 (một kênh protein khác, đóng vai trò rất
quan trọng trong vận chuyển urat) (Vitart et al.,
2008). Ngoài ra, vai trò vận chuyển và điều hòa
cân bằng uric acid của GLUT9 cũng đã được xác
định trong nhiều nghiên cứu tương quan trên toàn
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(1): 49-57, 2020
55
bộ hệ gen GWAS. Các nghiên cứu này cho thấy
mối liên quan giữa các đa hình trên gen SLC2A9
với nhóm các bệnh nhân gút ở người da trắng,
người Trung Quốc và người gốc đảo Thái Bình
Dương (Caulfield et al., 2008, Hollis-Moffatt et
al., 2009, Meng et al., 2015). Ảnh hưởng của
chúng được thể hiện rõ nét ở nữ giới, với sự khác
biệt urat huyết thanh khoảng 6%, gấp 3 lần so với
ở nam giới (Caulfield et al., 2008).
rs12510549 (T>C) nằm trên SLC2A9, là đa
hình có liên quan đến nồng độ uric acid và nguy
cơ mắc bệnh gút ở nhiều quần thể. Sự xuất hiện
allele hiếm C của rs12510549 liên quan chặt chẽ
đến việc giảm nồng độ uric acid ở các quần thể
người Ý và những người có gốc châu Âu ở Utah,
Mỹ (Brandstätter et al., 2008). Tương tự,
Brandstter và Voruganti cũng tìm thấy mối liên
quan này ở quần thể người da trắng châu Âu
(Brandstatter et al., 2010, Voruganti et al.,
2015). Mối liên quan giữa rs12510549 với việc
giảm nồng độ uric acid thể hiện rõ nét hơn ở nữ
giới (−0,352 đến −0,880 mg/dL) so với nam giới
(−0,128 đến −0,428 mg/dL).
Đa hình rs12510549 có ảnh hưởng khác nhau
đối với nguy cơ mắc bệnh gút ở các quần thể
khác nhau. Nghiên cứu của Hollis-Moffatt ở
người New Zealand đã xác định rs12510549 liên
quan đến việc giảm nguy cơ mắc bệnh gút ở
người da trắng (OR = 0,57, p = 4,6 x 10-3) nhưng
không liên quan đến bệnh gút ở người bản địa
Maori (p = 0,36) và người bản địa gốc đảo Thái
Bình Dương (p = 0,15) (Hollis-Moffatt et al.,
2009). Khả năng làm giảm nguy cơ mắc bệnh của
đa hình này đối với người da trắng cũng được
quan sát thấy trong nghiên cứu GWAS của Lee
(OR = 0,647, p = 1,2 x 10-6). Tuy vậy,
rs12510549 lại không liên quan đến nguy cơ mắc
bệnh gút ở quần thể người gốc Á (p = 0,137) (Lee
et al., 2017).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành
xác định kiểu gen và tỉ lệ allele của rs12510549
(T>C) bằng phương pháp PCR–RFLP. Kết quả
thu được đã chỉ ra sự phân bố đồng đều của allele
hiếm C ở cả 2 nhóm bệnh chứng, đồng thời xác
định được sự phân bố của đa hình này tuân theo
định luật cân bằng Hardy–Weinberg với giá trị p
> 0,05. Qua đó, khẳng định tính ngẫu nghiên và
đại diện của quần thể người Việt trong nghiên
cứu.
Ngoài ra, chúng tôi cũng tiến hành đánh giá
sự ảnh hưởng của rs12510549 lên nồng độ uric
acid và nguy cơ mắc bệnh gút. Giá trị p thu được
ở tất cả các mô hình, kiểu gen và kiểu allele đều
lớn 0,05; do đó rs12510549 không liên quan đến
nồng độ uric acid cũng như nguy cơ mắc bệnh
gút ở quần thể người Việt trong nghiên cứu.
Như vậy, kết quả này thể hiện sự khác biệt về
ảnh hưởng của rs12510549 lên nồng độ uric
acid ở quần thể người Việt so với các quần thể
khác trên thế giới. Trong khi đó, kết quả đánh
giá ảnh hưởng rs12510549 với nguy cơ mắc
bệnh gút quần thể người Việt lại thể hiện sự
tương đồng với các quần thể có nguồn gốc và vị
trí gần gũi với người Việt (người Maori hay
người gốc đảo Thái Bình Dương hoặc người gốc
Á nói chung). Tuy nhiên, nó trái ngược với kết
quả nhận được từ nghiên cứu trên người da
trắng ở khu vực châu Âu và New Zealand. Như
vậy, có thể thấy ảnh hưởng của đa hình
rs12510549 đến nồng độ uric acid và nguy cơ
mắc gút ở người Việt tồn tại những khác biệt
nhất định đối với các quần thể khác trên thế giới,
đặc biệt là đối với những quần thể da trắng. Điều
này có thể giải thích do những khác biệt căn bản
về di truyền, lối sống hay các yếu tố môi trường
giữa các quần thể.
KẾT LUẬN
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã xác định
được phân bố kiểu gen của đa hình SLC2A9
rs12510549 bằng kỹ thuật PCR–RFLP ở quần
thể người Việt với tỉ lệ kiểu gen TT/TC/CC
tương ứng là 0,73/0,25/0,02. Các phân tích thống
kê dựa trên dữ liệu kiểu gen/allele của
rs12510549 đều chưa chỉ ra mối tương quan của
đa hình này với nồng độ uric acid và nguy cơ mắc
bệnh gút ở quần thể người Việt. Như vậy, nghiên
cứu của chúng tôi bước đầu làm sáng tỏ đặc điểm
di truyền của đa hình rs12510549 và mối liên hệ
của nó với bệnh gút ở người Việt Nam. Những
kết quả này sẽ là tiền đề quan trọng góp phần
đánh giá chính xác sự ảnh hưởng của các yếu tố
Nguyễn Trần Minh Thắng et al.
56
di truyền lên sự thay đổi uric acid và nguy cơ mắc
bệnh gút ở người Việt Nam.
KIẾN NGHỊ
Cần có các nghiên cứu với số lượng mẫu lớn
hơn nhằm đánh giá chính xác hơn về ảnh hưởng
của SLC2A9 rs12510549 đối với nồng độ uric
acid và nguy cơ mắc bệnh gút ở người Việt Nam.
Lời cảm ơn: Công trình được hoàn thành với sự
tài trợ từ đề tài khoa học công nghệ thuộc các
hướng khoa học công nghệ ưu tiên cấp Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (Mã số:
VAST02.04/17-18).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Brandstätter A, Kiechl S, Kollerits B, Hunt SC, Heid
IM, Coassin S, Willeit J, Adams TD, Illig T, Hopkins
PN, Kronenberg F (2008) Sex-specific association of
the putative fructose transporter SLC2A9 variants
with uric acid levels is modified by BMI. Diabetes
Care 31(8): 1662-1667.
Brandstatter A, Lamina C, Kiechl S, Hunt SC,
Coassin S, Paulweber B, Kramer F, Summerer M,
Willeit J, Kedenko L, Adams TD, Kronenberg F
(2010) Sex and age interaction with genetic
association of atherogenic uric acid concentrations.
Atherosclerosis 210(2): 474-478.
Caulfield MJ, Munroe PB, O'Neill D, Witkowska K,
Charchar FJ, Doblado M, Evans S, Eyheramendy S,
Onipinla A, Howard P (2008) SLC2A9 is a high-
capacity urate transporter in humans. PLoS Med
5(10): e197.
Döring A, Gieger C, Mehta D, Gohlke H, Prokisch H,
Coassin S, Fischer G, Henke K, Klopp N, Kronenberg
F (2008) SLC2A9 influences uric acid concentrations
with pronounced sex-specific effects. Nat Genet
40(4): 430.
Hollis-Moffatt JE, Xu X, Dalbeth N, Merriman ME,
Topless R, Waddell C, Gow PJ, Harrison AA,
Highton J, Jones PB, Stamp LK, Merriman TR (2009)
Role of the urate transporter SLC2A9 gene in
susceptibility to gout in New Zealand Maori, Pacific
Island, and Caucasian case-control sample sets.
Arthritis Rheum 60(11): 3485-3492.
Lee Y, Seo Y, Kim J-H, Choi S, Ji J, Song G (2017)
Associations between SLC2A9 polymorphisms and
gout susceptibility. Z Rheumatol 76(1): 64-70.
Matsuo H, Chiba T, Nagamori S, Nakayama A,
Domoto H, Phetdee K, Wiriyasermkul P, Kikuchi Y,
Oda T, Nishiyama J, Nakamura T, Morimoto Y,
Kamakura K, Sakurai Y, Nonoyama S, Kanai Y,
Shinomiya N (2008) Mutations in glucose transporter
9 gene SLC2A9 cause renal hypouricemia. Am J Hum
Genet 83(6): 744-751.
Meng Q, Yue J, Shang M, Shan Q, Qi J, Mao Z, Li J,
Zhang F, Wang B, Zhao T, Wang W (2015)
Correlation of GLUT9 Polymorphisms With Gout
Risk. Medicine 94(44): e1742-e1742.
Neogi T, Jansen T, Dalbeth N, Vazquez-Mellado J
(2016) Correction: Gout classification criteria: an
American College of Rheumatology/European
League Against Rheumatism collaborative initiative.
Ruiz A, Gautschi I, Schild L, Bonny O (2018) Human
Mutations in SLC2A9 (Glut9) Affect Transport
Capacity for Urate. Front Physiol 9476-476.
Sorensen LB (1965) Role of the intestinal tract in the
elimination of uric acid. Arthritis & Rheumatism:
Official Journal of the American College of
Rheumatology 8(4): 694-706.
Stark K, Reinhard W, Neureuther K, Wiedmann S,
Sedlacek K, Baessler A, Fischer M, Weber S, Kaess
B, Erdmann J, Schunkert H, Hengstenberg C (2008)
Association of common polymorphisms in GLUT9
gene with gout but not with coronary artery disease in
a large case-control study. PloS One 3(4): e1948-
e1948.
Vitart V, Rudan I, Hayward C, Gray NK, Floyd J,
Palmer CN, Knott SA, Kolcic I, Polasek O, Graessler
J (2008) SLC2A9 is a newly identified urate
transporter influencing serum urate concentration,
urate excretion and gout. Nat Genet 40(4): 437.
Voruganti VS, Laston S, Haack K, Mehta NR, Cole
SA, Butte NF, Comuzzie AG (2015) Serum uric acid
concentrations and SLC2A9 genetic variation in
Hispanic children: the Viva La Familia Study. Am J
Clin Nutr 101(4): 725-732.
Watts R: Symposium on Gout and other Disorders of
Purine Metabolism: Uric Acid Production with
Particular Reference to the Role of Xanthine Oxidase
and its Inhibition. SAGE Publications (1966).
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(1): 49-57, 2020
57
Zhu W, Deng Y, Zhou X (2018) Multiple Membrane
Transporters and Some Immune Regulatory Genes
are Major Genetic Factors to Gout. Open Rheumatol
J 1294-113.
STUDY ON THE ASSOCIATION SLC2A9 rs12510549 WITH URIC ACID AND
GOUT IN VIETNAMESE POPULATION
Nguyen Tran Minh Thang1,2,3, Nguyen Doan Tinh1, Nong Van Hai1,2, Nguyen Thuy Duong1,2
1Institute of Genome Research, Vietnam Academy of Science and Technology
2Graduate University of Science and Technology, Vietnam Academy of Science and Technology
3Pham Ngoc Thach University of Medicine
SUMMARY
Gout is the most common form of arthritis in Vietnam and around the world, caused by an excess
of blood uric acid levels. The occurrence of gout is influenced by many risk factors such as diet, living
and genetic factors. Studies showed gout is associated with polymorphisms located on genes that
encode transport protein channels, including SLC2A9 rs12510549. To evaluate the association of
polymorphism SLC2A9 rs12510549 to uric acid levels and gout in the Vietnamese population, we
genotyped rs12510549 of 519 subjects (168 gout patients and 351 healthy people) by the PCR–RFLP
method. The relationship between genotype distribution, the allele frequency of polymorphism with
uric acid levels and gout was assessed through statistical methods. The results show that SLC2A9
rs12510549 was in accordance with HWE (p> 0.05) and the genotype frequencies of TT, TC and CC
were 0.73, 0.25 and 0.02, respectively, confirming the randomness and representation of the study
population. The genotype distribution and frequency of the rs12510549 allele were determined
unrelated to uric acid levels and gout in the Vietnamese population (p>0.05). Further study with a
larger sample size should be implemented to confirm our results on the association of SLC2A9
rs12510549 and gout in the Vietnamese population.
Keywords: Gout, SLC2A9, Vietnamese, rs12510549, PCR–RFLP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_moi_lien_quan_cua_slc2a9_rs12510549_voi_nong_do_uri.pdf