Khảo sát mối liên quan giữa lâm sàng, siêu âm với kết quả điều trị lồng ruột cấp ở trẻ em

Các yếu tố liên quan giữa siêu âm với kết quả điều trị 4.2.2.1. So sánh đường kính khối lồng giữa nhóm lồng ruột tự tháo và có can thiệp Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc xác định đường kính khối lồng trên mặt cắt ngang khá quan trọng, nó liên quan đến vấn đề tiên lượng kết quả của cuộc tháo lồng. Đường kính khối lồng càng lớn, chứng tỏ khối lồng càng có nhiều lớp và càng chặt thì lồng ruột càng khó tháo [3], [5]. Mặc khác, đường kính khối lồng là một trong những yếu tố quan trọng giúp phân biệt lồng ruột non và lồng ruột hồi - đại tràng, vì 2 loại lồng ruột này có cách xử trí khác nhau [10]. Trong nghiên cứu này, đường kính khối lồng trung bình là 28,7±6,3mm, tương đương với kết quả của Willian H. [11]: 2,5- 5cm; Phạm Thu Hiền [3]: 31,1 ± 3,4mm. Đường kính khối lồng của nhóm lồng ruột tự tháo (23,8± 7,7 mm) nhỏ hơn của nhóm lồng ruột có can thiệp (29,4 ± 5,8 mm) với p <0,001. 4.2.2.2. Liên quan giữa vị trí khối lồng với phương pháp điều trị Phần lớn lồng ruột cấp ở trẻ em là lồng hồi - manh tràng, do đó khối lồng trên siêu âm thường được tìm thấy ở bên phải của bụng [11]. Kiểu lồng này thường lỏng, dễ tháo, do đó tỷ lệ thành công với tháo lồng bằng hơi rất cao. Trong những trường hợp đến muộn, khối lồng có thể di chuyển theo chiều nhu động đi rất xa, dần về phía hậu môn, làm cho lồng ruột càng dài, càng chặt và càng khó tháo bằng hơi. Những trường hợp này khối lồng thường nằm bên trái và tỷ lệ phẫu thuật rất cao [4]. Mặt khác, do lồng ruột tự tháo thường là lồng ruột non thoáng qua nên vị trí khối lồng thường tương ứng với vị trí của hỗng tràng và hồi tràng. Hay nói cách khác, lồng ruột tự tháo thường có khối lồng nằm ở vùng quanh rốn [10]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi càng chứng minh cho lý thuyết nói trên, khối lồng càng ở bên phải thì tỷ lệ tháo lồng bằng hơi thành công càng cao, ngược lại, khối lồng không ở bên phải thì khả năng phẫu thuật hoặc tự tháo càng cao (p<0,001).

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát mối liên quan giữa lâm sàng, siêu âm với kết quả điều trị lồng ruột cấp ở trẻ em, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
73 phần nghiên cứu KHẢO SÁT MỐI LIÊN QUAN GIỮA LÂM SÀNG, SIÊU ÂM VỚI KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ LỒNG RUỘT CẤP Ở TRẺ EM Nguyễn Thị Minh Trang*, Phạm Hoàng Hưng** * Bệnh viện Nhi Quảng Nam, ** Trung Tâm Nhi khoa-BVTW Huế TÓM TẮT Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan giữa lâm sàng, siêu âm với kết quả điều trị lồng ruột cấp ở trẻ em. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 244 bệnh nhân ≤ 15 tuổi được chẩn đoán và điều trị lồng ruột cấp lần đầu tại Trung tâm Nhi khoa và khoa Ngoại nhi – Cấp cứu bụng, BVTW Huế. Kết quả nghiên cứu: Một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị lồng ruột cấp: Tuổi: trẻ dưới 2 tuổi, tỷ lệ phẫu thuật càng tăng khi tuổi càng nhỏ; trẻ trên 2 tuổi, đặc biệt trên 5 tuổi, tỷ lệ lồng ruột tự tháo càng cao (p 48 giờ, tỷ lệ phẫu thuật càng cao (p < 0,05). Có hiện diện ỉa máu và nhóm 4 triệu chứng lâm sàng kinh điển (đau bụng, nôn, ỉa máu, sờ thấy khối lồng) thì tỷ lệ phẫu thuật càng cao (p < 0,001). Siêu âm: đường kính khối lồng ở nhóm can thiệp (29, 4 ± 5,8 mm) lớn hơn nhóm lồng ruột tự tháo (23,8 ± 7,7 mm) (p < 0,001). Vị trí khối lồng càng ở bên phải thì tỷ lệ tháo lồng bằng hơi càng cao (p < 0,001). Kết luận: Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị bao gồm tuổi, thời gian bị lồng ruột, triệu chứng ỉa máu, nhóm 4 triệu chứng lâm sàng kinh điển, đường kính khối lồng và vị trí khối lồng trên siêu âm. Từ khóa: Lồng ruột cấp, trẻ em, yếu tố liên quan. ABSTRACT THE ASSOCIATION BETWEEN CLINICAL AND SONOGRAPHIC FEATURES TO TREATMENT OUTCOMES OF ACUTE INTUSSUSCEPTION IN CHILDREN Objectives: To study some related factors between clinical and sonographic features to treatment outcomes of acute intussusception in children. Methods: A descriptive cross-sectional study on 244 intussusception patients under 15 years old who were diagnosed and received treatment for the first time at the Pediatrics Centre and Pediatric Surgery and Abdominal Emergency Department, Hue Central Hospital was carried out. Results: Some clinical and ultrasound factors related to the treatment outcomes of acute intussusception were as follows: Age: for patients under 2 years old, the younger the patients were, the higher the rate of surgery given; for children over 2 years old, particularly over 5 years old, the rate of spontaneous reduction was higher (p <0.001). The later hospital admission were, particularly more than 48 hours, the higher the rate of surgery given (p <0.05). When rectal bleeding and four classical clinical symptoms (abdominal pain, vomiting, rectal bleeding and palpable abdominal mass) were present, the rate of surgery appeared higher (p < 0.001). About sonography, the mean diameter of the mass in the intervention group was larger than those in the spontaneous intussusception reduction group (p <0.001). When the location of the intussusception mass was on the right quadrant, the rate of air enema reduction was higher (p<0.001). Conclusions: Some factors related to treatment outcomes included patient age, duration of intussusception, the presence of rectal bleeding and four classical clinical symptoms, the mean diameter and the location of intussusception mass on ultrasound. Key words: Intussusception, childdren, related factors. tạp chí nhi khoa 2016, 9, 5 74 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Lồng ruột là một cấp cứu ngoại khoa rất thường gặp ở trẻ em [4], [12]; nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng như hoại tử ruột, sốc giảm thể tích v.v, điều này làm cho quá trình điều trị phức tạp, tốn kém và thậm chí có thể dẫn đến tử vong. Điều trị lồng ruột đã có nhiều thay đổi trong nhiều năm qua từ tháo lồng bằng phẫu thuật sang tháo lồng không phẫu thuật. Cho tới nay, có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước được thực hiện nhằm tìm hiểu các yếu tố về lâm sàng và siêu âm giúp tiên lượng độ chặt lỏng của khối lồng, từ đó có chỉ định điều trị tháo lồng bằng hơi hay phẫu thuật phù hợp, tránh làm tăng thời gian lồng ruột của BN, đồng thời nâng cao tỷ lệ thành công của tháo lồng bằng hơi và giảm các biến chứng khi tháo lồng. Để điều trị tháo lồng bằng hơi đạt kết quả cao cần có 2 yếu tố: phát hiện lồng ruột sớm, từ những triệu chứng đầu tiên, có chỉ định điều trị ngay và biết được các yếu tố tiên lượng tình trạng của khối lồng để có chỉ định đúng: tháo lồng bằng hơi hay phẫu thuật [1]. Vấn đề đặt ra là làm sao biết được tình trạng khối lồng chỉ dựa vào lâm sàng hoặc có thêm cận lâm sàng như siêu âm. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm hiểu mối liên quan giữa lâm sàng, siêu âm với kết quả điều trị lồng ruột cấp ở trẻ em, giúp chẩn đoán sớm, đưa ra chỉ định điều trị hợp lý, kịp thời và góp phần làm giảm những biến chứng nghiêm trọng của bệnh. 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu: Gồm 244 bệnh nhi được chẩn đoán và điều trị lồng ruột lần đầu theo Bảng tiêu chẩn chẩn đoán lồng ruột cấp ở trẻ em của Hiệp hội Brighton tại Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 05/2014 đến tháng 04/2015. 2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Tìm hiểu một số đặc điểm lâm sàng, siêu âm và kết quả điều trị của lồng ruột cấp, qua đó, khảo sát các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị. 3. KẾT QUẢ 3.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu 3.1.1. Tuổi Bảng 1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi Nhóm tuổi Số lượng (n = 244) Tỷ lệ ≤ 4 tháng 0 0 5 – 12 tháng 71 29 13 - 24 tháng 103 42,3 25 - 36 tháng 48 19,7 37 – 60 tháng 12 4,9 > 60 tháng 10 4,1 Tuổi trung bình (tháng) 22,3 ± 19,1 Nhận xét: - Số BN dưới 24 tháng chiếm 71,3%; số BN trên 24 tháng chỉ chiếm 28,7%. - Độ tuổi trung bình là 22,3 ± 19,1 tháng. 3.1.2. Giới Trong 244 trường hợp lồng ruột cấp, tỷ lệ BN nam chiếm 60,2% (197/244 BN); BN nữ chiếm 39,8% (97/244 BN). Tỷ lệ nam/nữ là 1,5/1 75 phần nghiên cứu 3.2. Các yếu tố liên quan giữa lâm sàng, siêu âm với kết quả điều trị 3.2.1. Các yếu tố liên quan giữa lâm sàng với kết quả điều trị 3.2.1.1. Liên quan giữa tuổi và phương pháp điều trị Bảng 2. Liên quan giữa tuổi với phương pháp điều trị Tuổi (tháng) Lồng ruột tự tháo Có can thiệp χ2, p Tháo lồng bằng hơi Phẫu thuật 5 - 12 tháng 0 67 4 χ2 = 125,5 p < 0,001 13 – 24 tháng 2 100 1 25 – 36 tháng 12 36 0 37 – 60 tháng 5 5 2 > 60 tháng 10 0 0 Tổng (n = 244) 29 208 7 Tuổi trung bình 55,3 ± 35,3 17,9 ± 9,2 p < 0,001 Nhận xét: - Có sự liên quan giữa tuổi của bệnh nhi với phương pháp điều trị (p < 0,001): + Dưới 24 tháng: tuổi càng nhỏ tỷ lệ phẫu thuật càng tăng. + Trên 24 tháng: tuổi càng lớn, tỷ lệ tháo lồng bằng hơi càng giảm, đặc biệt sau 5 tuổi (60 tháng) lồng ruột tự tháo càng tăng - Nhóm lồng ruột tự tháo có độ tuổi trung bình cao hơn so với nhóm lồng ruột có can thiệp (p<0,001). 3.2.1.2. Liên quan giữa thời gian vào viện và phương pháp điều trị Bảng 3. Liên quan giữa thời gian vào viện với phương pháp điều trị Thời gian vào viện Lồng ruột tự tháo Có can thiệp χ2, p Tháo lồng bằng hơi Phẫu thuật < 48 giờ 25 187 4 χ2 = 7,3 p < 0,05≥ 48 giờ 4 21 3 Tổng (n = 244) 29 208 7 Nhận xét: Thời gian vào viện càng muộn, tỷ lệ tháo lồng bằng phẫu thuật càng cao. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. 3.2.1.3. Liên quan giữa thời gian xuất hiện ỉa máu với phương pháp điều trị Bảng 4. Liên quan giữa thời gian xuất hiện ỉa máu với phương pháp điều trị Thời gian xuất hiện ỉa máu Lồng ruột tự tháo Có can thiệp χ2, p Tháo lồng bằng hơi Phẫu thuật ≤ 5 giờ 1 12 2 χ2 = 0,7 p > 0,05< 5 giờ 2 45 4 Tổng (n = 66) 3 57 6 Nhận xét: Không có mối liên quan giữa thời gian xuất hiện ỉa máu và phương pháp điều trị, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. tạp chí nhi khoa 2016, 9, 5 76 3.2.1.4. Liên quan giữa các triệu chứng lâm sàng với phương pháp điều trị Bảng 5. Liên quan giữa các triệu chứng lâm sàng với phương pháp điều trị Triệu chứng lâm sàng Lồng ruột tự tháo Có can thiệp χ2, p Tháo lồng bằng hơi Phẫu thuật Ỉa máu Có 3 57 6 χ2 = 16,3 p < 0,001Không 26 151 1 4 triệu chứng kinh điển Có 3 55 6 χ2 = 16,6 p < 0,001Không 26 153 1 Nhận xét: Có mối liên quan giữa sự xuất hiện các triệu chứng ỉa máu và có cả 4 triệu chứng lâm sàng kinh điển với phương pháp điều trị. Các triệu chứng này càng hiện diện thì khả năng phẫu thuật càng cao (p < 0,001). 3.2.2. Các yếu tố liên quan giữa siêu âm với kết quả điều trị 3.2.2.1. So sánh đường kính khối lồng giữa nhóm lồng ruột tự tháo và có can thiệp Bảng 6. So sánh đường kính khối lồng giữa nhóm lồng ruột tự tháo và có can thiệp Đường kính khối lồng Số lượng Trung bình (mm) p Lồng ruột có can thiệp 214 29,4 ± 5,8 p < 0,001 Lồng ruột tự tháo 29 23,8 ± 7,7 Tổng 243 28,7 ± 6,3 Nhận xét: Đường kính khối lồng của nhóm có can thiệp cao hơn của nhóm lồng ruột tự tháo, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. 3.2.2.2. Liên quan giữa vị trí khối lồng với phương pháp điều trị Bảng 7. Liên quan giữa vị trí khối lồng với phương pháp điều trị Vị trí khối lồng Phương pháp điều trị χ2, p Tháo lồng bằng hơi Lồng ruột tự tháo/ Phẫu thuật Bên phải 190 22 χ2 = 24,6 p < 0,001Vị trí khác 18 13 Tổng (n = 243) 208 35 Nhận xét: Khối lồng ở bên phải thì thì tỷ lệ tháo lồng bằng hơi càng cao. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,001. 4. BÀN LUẬN 4.1. Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu Về độ tuổi, trong nghiên cứu của chúng tôi, lồng ruột ở nhóm dưới 2 tuổi chiếm đa số với 71,3%. Trong đó, tỷ lệ cao nhất gặp ở lứa tuổi từ 5 đến 24 tháng. Trần Thị Lan Anh [6] cũng kết luận lứa tuổi thường gặp là 5 – 22 tháng. Độ tuổi trung bình là 22,3 tháng, tương tự nghiên cứu của Nguyễn Hữu Chí là 22,1 tháng [2]. Độ tuổi trung bình ở nhóm lồng ruột tự tháo (55,3 ± 35,3 tháng) cao hơn so với nhóm lồng ruột có can thiệp (tháo lồng bằng hơi hoặc phẫu thuật) (17,9 ± 9,2 tháng) với p < 0,001. Về giới tính, bệnh xảy ra ở nam (60,2%) nhiều 77 phần nghiên cứu hơn ở nữ (39,8%), với tỷ lệ nam/nữ là 1,5/1. Kết quả này tương đương với nhiều nghiên cứu khác trong và ngoài nước [12]. 4.2. Các yếu tố liên quan giữa lâm sàng, siêu âm với kết quả điều trị lồng ruột cấp 4.2.1. Các yếu tố liên quan giữa lâm sàng với kết quả điều trị 4.2.1.1. Liên quan giữa tuổi và phương pháp điều trị Nhiều nghiên cứu kết luận rằng tỷ lệ tháo lồng bằng hơi thất bại tăng khi tuổi càng nhỏ [1], [3]. Theo bảng 3.16, tỷ lệ BN dưới 12 tháng phải tháo lồng bằng phẫu thuật cao hơn so với các nhóm tuổi khác. Như vậy có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi BN và kết quả tháo lồng. Trong nhóm dưới 24 tháng, tuổi BN càng thấp, tỷ lệ phẫu thuật càng cao (p < 0,001). Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu khác [3], [5]. Tuy vậy, theo Gorenstein [8], không nên xem độ tuổi là một chống chỉ định của tháo lồng bằng hơi mà phương pháp này nên được áp dụng ở mọi lứa tuổi nếu không có những chống chỉ định tuyệt đối như viêm phúc mạc, thủng ruột, sốc v.v... Tuổi trung bình trong nhóm lồng ruột tự tháo là 55,3 ± 35,3 tháng, cao hơn so với nhóm lồng ruột được can thiệp (tháo lồng bằng hơi hoặc phẫu thuật) 17,9 ± 9,2 tháng (p < 0,001). Có thể nói rằng, lồng ruột tự tháo thường xảy ra ở trẻ lớn hơn 2 tuổi, đặc biệt là lớn hơn 5 tuổi (p < 0,001). Wiersma [10] cũng nhận xét tương tự. 4.2.1.2. Liên quan giữa thời gian vào viện và phương pháp điều trị Thời gian vào viện hay thời gian bị lồng ruột có liên quan đến kết quả điều trị. Trên thực tế, sự chậm chẩn đoán ở BN, mà ở đây là thời gian bị bệnh trên 48 giờ, thường là yếu tố tiên lượng sự thất bại của tháo lồng; mặt khác, nhóm BN tháo lồng thất bại thường có thời gian bị bệnh kéo dài [8]. Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy: BN có thời gian bị lồng ruột < 48 giờ phải tháo lồng bằng phẫu thuật thấp hơn BN có thời gian vào viện ≥ 48 giờ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước cũng kết luận: thời gian bị lồng ruột càng kéo dài, tỷ lệ thành công của tháo lồng bằng hơi càng thấp; hay tỷ lệ phẫu thuật càng cao. [1], [3], [5], [8]. Như vậy, vai trò của việc phát hiện bệnh sớm là rất quan trọng. Để làm được điều này, vai trò của bác sĩ Nhi khoa hết sức quan trọng. Là người đầu tiên tiếp xúc với BN, bác sĩ Nhi khoa phải phát hiện được bệnh càng sớm càng tốt, không nên chẩn đoán một bệnh lý nội khoa khác khi chưa loại trừ lồng ruột. 4.2.1.3. Liên quan giữa thời gian xuất hiện ỉa máu với phương pháp điều trị Phân tích mối liên quan giữa thời gian xuất hiện ỉa máu và kết quả điều trị tháo lồng, chúng tôi nhận thấy giữa chúng không có mối liên quan với p > 0,05. Nghiên cứu của Võ Thị Thu Thủy [5], Gorenstein [8] cũng kết luận tương tự. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác cho thấy thời gian xuất hiện ỉa máu có liên quan với kết quả tháo lồng. Kuppermann [9] xác định, ỉa máu là yếu tố tiên lượng quan trọng nhất. Trần Ngọc Bích [1] cũng kết luận rằng, những trẻ có cùng thời gian bị lồng ruột, tỷ lệ mổ càng cao khi giờ xuất hiện ỉa máu càng sớm. Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có BN nào dưới 4 tháng tuổi, ỉa máu chủ yếu xuất hiện trong nhóm từ 5 - 12 tháng, đa số BN có thời gian ỉa máu > 5 giờ và vào viện trước 48 giờ nên tỷ lệ thành công của tháo lồng vẫn cao. Qua đó, chúng tôi nhận thấy nếu BN có dấu hiệu ỉa máu nhưng thời gian xuất hiện sau 5 giờ, tuổi lớn, vào viện trước 48 giờ thì tháo lồng bằng hơi vẫn thành công cao. 4.2.1.4. Liên quan giữa các triệu chứng lâm sàng với phương pháp điều trị Ỉa máu là một yếu tố tiên lượng của tháo lồng bằng hơi [9]. Ỉa máu xuất hiện càng sớm, ở trẻ càng nhỏ tuổi thì khả năng phẫu thuật càng cao [1], [3]. Tìm hiểu mối liên quan giữa ỉa máu và phương pháp điều trị, chúng tôi nhận thấy, BN có biểu hiện ỉa máu thì tỷ lệ phẫu thuật càng cao (p < 0,001). Khi bị lồng ruột, mạc treo đoạn ruột bị tạp chí nhi khoa 2016, 9, 5 78 ép giữa các lớp của khối lồng, các tĩnh mạch mạc treo bị ứ máu, quai ruột lồng bị phù nề sẽ làm các quai ruột bị chèn ép thêm, bị ứ máu rồi vỡ, gây chảy máu trong lòng ruột, dẫn tới ỉa máu. Như vậy khối lồng chặt sẽ gây ỉa máu. Do đó, sự xuất hiện ỉa máu có liên quan tới tỷ lệ cao của phẫu thuật tháo lồng [7]. 4 triệu chứng lâm sàng kinh điển của lồng ruột (đau bụng khóc thét, nôn mửa, ỉa máu, sờ thấy khối lồng) được giới thiệu thành một nhóm dấu hiệu về triệu chứng và chúng sẽ giúp cho chẩn đoán dễ dàng hơn. Tuy nhiên, thời gian xuất hiện từng triệu chứng có thể dài ngắn khác nhau, do đó, nếu đợi đầy đủ cả 4 triệu chứng mới chẩn đoán thì có thể gây chậm trễ trong việc điều trị bệnh. Trong nghiên cứu của chúng tôi, BN có biểu hiện cả 4 triệu chứng kinh điển thì khả năng phẫu thuật càng tăng (p < 0,001). Do vậy, việc áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán lồng ruột cấp của hiệp hội Brighton có ý nghĩa rất lớn trong việc chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời cho BN, giúp làm giảm tỷ lệ biến chứng và tử vong của bệnh. 4.2.2. Các yếu tố liên quan giữa siêu âm với kết quả điều trị 4.2.2.1. So sánh đường kính khối lồng giữa nhóm lồng ruột tự tháo và có can thiệp Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc xác định đường kính khối lồng trên mặt cắt ngang khá quan trọng, nó liên quan đến vấn đề tiên lượng kết quả của cuộc tháo lồng. Đường kính khối lồng càng lớn, chứng tỏ khối lồng càng có nhiều lớp và càng chặt thì lồng ruột càng khó tháo [3], [5]. Mặc khác, đường kính khối lồng là một trong những yếu tố quan trọng giúp phân biệt lồng ruột non và lồng ruột hồi - đại tràng, vì 2 loại lồng ruột này có cách xử trí khác nhau [10]. Trong nghiên cứu này, đường kính khối lồng trung bình là 28,7±6,3mm, tương đương với kết quả của Willian H. [11]: 2,5- 5cm; Phạm Thu Hiền [3]: 31,1 ± 3,4mm. Đường kính khối lồng của nhóm lồng ruột tự tháo (23,8± 7,7 mm) nhỏ hơn của nhóm lồng ruột có can thiệp (29,4 ± 5,8 mm) với p <0,001. 4.2.2.2. Liên quan giữa vị trí khối lồng với phương pháp điều trị Phần lớn lồng ruột cấp ở trẻ em là lồng hồi - manh tràng, do đó khối lồng trên siêu âm thường được tìm thấy ở bên phải của bụng [11]. Kiểu lồng này thường lỏng, dễ tháo, do đó tỷ lệ thành công với tháo lồng bằng hơi rất cao. Trong những trường hợp đến muộn, khối lồng có thể di chuyển theo chiều nhu động đi rất xa, dần về phía hậu môn, làm cho lồng ruột càng dài, càng chặt và càng khó tháo bằng hơi. Những trường hợp này khối lồng thường nằm bên trái và tỷ lệ phẫu thuật rất cao [4]. Mặt khác, do lồng ruột tự tháo thường là lồng ruột non thoáng qua nên vị trí khối lồng thường tương ứng với vị trí của hỗng tràng và hồi tràng. Hay nói cách khác, lồng ruột tự tháo thường có khối lồng nằm ở vùng quanh rốn [10]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi càng chứng minh cho lý thuyết nói trên, khối lồng càng ở bên phải thì tỷ lệ tháo lồng bằng hơi thành công càng cao, ngược lại, khối lồng không ở bên phải thì khả năng phẫu thuật hoặc tự tháo càng cao (p<0,001). 5. KẾT LUẬN Lồng ruột là một bệnh lý ngoại khoa thường gặp ở trẻ em, đặc biệt dưới 2 tuổi. Các yếu tố liên quan đến kết quả điều trị bao gồm: - Tuổi: + Trẻ dưới 2 tuổi, tỷ lệ phẫu thuật càng tăng khi tuổi càng nhỏ (p < 0,001). + Trẻ trên 2 tuổi, đặc biệt trên 5 tuổi, tỷ lệ lồng ruột tự tháo càng cao. - Thời gian lồng ruột > 48 giờ, tỷ lệ phẫu thuật càng cao (p < 0,05). - Sự hiện diện triệu chứng ỉa máu và nhóm 4 triệu chứng lâm sàng (đau bụng, nôn, ỉa máu, sờ thấy khối lồng ở bụng) thì tỷ lệ phẫu thuật càng cao (p < 0,001). - Siêu âm: + Đường kính khối lồng ở nhóm lồng ruột có can thiệp (29, 4 ± 5,8 mm) lớn hơn nhóm lồng ruột tự tháo (23,8 ± 7,7 mm) (p < 0,001). + Khối lồng càng ở bên phải thì tỷ lệ tháo lồng bằng hơi càng cao (p < 0,001). Dựa vào các yếu tố trên giúp đưa ra chỉ định điều trị phù hợp với từng trường hợp cụ thể. 79 phần nghiên cứu TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Ngọc Bích, Phạm Thu Hiền, Nguyễn Gia Khánh (2001), “Các yếu tố tiên lượng góp phần vào chỉ định tháo lồng ở trẻ ≤ 24 tháng”, Ngoại khoa, 2, 23-29. 2. Nguyễn Hữu Chí, Nguyễn Thị Thanh Tâm, Đào Trung Hiếu (2011), “Đặc điểm lâm sàng và siêu âm lồng ruột được phẫu thuật tại Bệnh viện Nhi Đồng 1”, Y học TP. Hồ Chí Minh, 15(3), 74-77. 3. Phạm Thu Hiền, Trần Ngọc Bích, Nguyễn Gia Khánh (2000), “Chẩn đoán và điều trị lồng ruột ở trẻ bú mẹ”, Nhi khoa, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học năm 2000, Hội nghị Nhi khoa toàn quốc lần thứ 17, 551-558. 4. Nguyễn Xuân Thụ, Nguyễn Thanh Liêm (2002), “Bệnh lý học ngoại khoa trẻ em”, Bài giảng Bệnh học ngoại khoa sau đại học, Học viện quân Y, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 462-463. 5. Võ Thị Thu Thủy (2009), “Nghiên cứu lâm sàng, siêu âm, kết quả điều trị và yếu tố tiên lượng bệnh lồng ruột cấp ở trẻ dưới 24 tháng tuổi tại Bệnh viện Trung ương Huế”, Luận án chuyên khoa cấp II, Trường đại học Y Dược Huế. 6. Anh T. L. Tran, Lay Myint Yoshida, Toyoko Nakagomi et al (2013), “A high incidence of tussusception revealed by a retrospective hospital - based study in Nha Trang, Vietnam between 2009 and 2011”, Tropical Medicine and Health, 41(3), 121-127. 7. Bines Julie E. (2005), “Rotavirus vaccines and intussusception risk”, Current opinion in Gastroenterology, 21, 20-25. 8. Gorenstein Arkadi, Raucher Alona, Serour Francis et al (1998), “Intussusception in children: reduction with repeated, delayed air enema”, Radiology, 206, 721-724. 9. Kuppermann Nathan, O’Dea Teresa, Pinckney Lee et al (2000), “Predictors of intussusception in young children”, Archives of Pediatric Adolescent Medicine, 154, 250-255. 10. Wiersma Fraukje, Allema Jan Hein, Holscher C. Herma (2006), “Ileoileal intussusception in children: ultrasonography differentiation from ileocolic intussusception”, Pediatric Radiology, (5), 50-58. 11. William H. (2008), “Imaging and intussusception”, Archives of Disease in Childhood – Education and Practice, 93, 30-36. 12. World Health Organization (2002), “Acute intussusception in infants and children: Incidence, clinical presentation and management: A global perspective”, WHO/V&B/02.19.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_moi_lien_quan_giua_lam_sang_sieu_am_voi_ket_qua_die.pdf