LỜI MỞ ĐẦU
Kết quả khảo sát trong phòng thí nghiệm tại Khoa Nông Nghiệp - Tài
Nguyên Thiên Nhiên, trường Đại Học An Giang, ở nhiệt độ trung bình là
31,50C, ẩm độ không khí trung bình là 70%, ghi nhận như sau:
Loài Aleurodicus dispersus Russell
Ấu trùng rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell có 4 tuổi: tuổi
1 là 3,60 ngày; tuổi 2 là 3,52 ngày; tuổi 3 là 4,12 ngày; tuổi 4 là 8,66 ngày.
Thời gian ủ trứng là 6,54 ngày, tổng vòng đời là 27,94 ngày, tỷ lệ nở của
trứng là 94%. Cả thành trùng và ấu trùng đều cư trú ở mặt dưới của lá.
Cơ thể ấu trùng tuổi 1 dài 0,33 mm, rộng 0,14 mm; tuổi 2 dài 0,54
mm, rộng 0,36 mm; tuổi 3 dài 1,06 mm, rộng 0,74 mm; tuổi 4 (nhộng) dài
1,74 mm, rộng 1,12 mm. Trứng dài 0,28 mm, rộng 0,12 mm.
Cơ thể thành trùng dài 2,49 mm, mắt màu nâu đen, râu dài 0,85 mm,
vòi hình ống, dài 0,46 mm và chiều dài sải cánh là 3,62 mm.
Ổ trứng có hình xoắn ốc, dài 13,2 mm, rộng 7,73 mm; số vòng trung
bình trên ổ là 3,64 vòng; số trứng trung bình là 21 trứng/ổ.
 Loài Bemisia tabaci Gennadius
Cả thành trùng và ấu trùng đều cư trú ở mặt dưới của lá. Ấu trùng
Bemisia tabaci Gennadius gồm 4 tuổi: tuổi 1 là 3,94 ngày; tuổi 2 là 2,66
ngày; tuổi 3 là 3,25 ngày; tuổi 4 là 5,92 ngày. Thời gian ủ trứng là 6,52 ngày,
tổng vòng đời là 23,8 ngày, trứng có tỷ lệ nở là 96,21%.
Ngô Thị Như Hà, 2005. "Khảo sát một số đặc điểm sinh học, sinh thái của
hai loài rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell và Bemisia tabaci
Gennadius". Luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành Phát Triển Nông Thôn. Khoa
Nông Nghiệp - TNTN, trường Đại Học An Giang.
Giáo viên hướng dẫn: Ks. Trần Văn Khải.
Cơ thể ấu trùng tuổi 1 dài 0,30 mm, rộng 0,14 mm; tuổi 2 dài 0,40
mm, rộng 0,22 mm; tuổi 3 dài 0,51 mm, rộng 0,30 mm; tuổi 4 dài 0,77 mm,
rộng 0,50 mm. Trứng dài 0,19 mm, rộng 0,09 mm.
Cơ thể thành trùng dài 1,01 mm, mắt màu đỏ nâu, râu dài 0,31 mm,
vòi hình ống, dài 0,30 mm và chiều dài sải cánh là 2,02 mm.
MỤC LỤC
Nội dung Trang
CẢM TẠ i
TÓM LƯỢC ii
MỤC LỤC iii
DANH SÁCH BẢNG v
DANH SÁCH HÌNH viii
Chương 1: GIỚI THIỆU 1
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1 Một số đặc điểm chung của rầy phấn trắng 2
2.1.1 Đặc điểm chung của rầy phấn trắng 2
2.1.2 Sự phân bố của rầy phấn trắng 2
2.1.2.1 Tình hình thế giới 2
2.1.2.2 Tình hình trong nước 3
2.1.3 Ký chủ 3
2.1.4 Khả năng truyền bệnh 4
2.2 Đặc điểm sinh học, sinh thái và cách gây hại của một số loài rầy
phấn trắng phổ biến
2.2.1 Loài Aleurodicus dispersus Russell 4
2.2.1.1 Đặc điểm sinh học 4
2.2.1.2 Đặc điểm hình thái học 6
2.2.1.3 Cách gây hại 8
2.2.2 Loài Bemisia tabaci Gennadius 8
2.2.2.1 Đặc điểm sinh học 8
2.2.2.2 Đặc điểm hình thái học 11
2.2.2.3 Cách gây hại 12
Chương 3: PHƯƠNG TIỆN & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 13
3.1 Phương tiện 13
3.2 Phương pháp 13
3.2.1 Khảo sát đặc điểm sinh học, sinh thái của rầy phấn trắng trong
điều kiện phòng thí nghiệm 13
3.2.2 Phương pháp tiến hành 13
3.2.3 Chỉ tiêu theo dõi 15
Chương 4: KẾT QUẢ THẢO LUẬN 16
4.1 Một số đặc điểm sinh học, hình thái của rầy phấn trắng
Aleurodicus dispersus Russell 16
4.1.1 Đặc điểm sinh học 16
4.1.2 Đặc điểm hình thái học 19
4.2 Một số đặc điểm liên quan đến sự đẻ trứng của loài Aleurodicus
dispersus Russell 26
4.2.1 Xác định số vòng, kích thước của ổ trứng, số lượng trứng đẻ
trên ổ và đặc điểm hình thái của ổ trứng loài Aleurodicus dispersus
Russell 26
4.2.2 Xác định tỷ lệ trứng nở 28
4.3 Một số đặc điểm sinh học, hình thái của rầy phấn trắng Bemisia
tabaci Gennadius 28
4.3.1 Đặc điểm sinh học 28
4.3.2 Đặc điểm hình thái 32
4.4 Xác định tỷ lệ trứng nở của rầy phấn trắng Bemisia tabaci
Gennadius 37
4.5 So sánh một số đặc điểm sinh học, sinh thái của hai loài rầy phấn
trắng Aleurodicus dispersus Russell và Bemisia tabaci Gennadius 37
4.5.1 Đặc điểm sinh học 37
4.5.2 Đặc điểm hình thái 38
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
PHỤ CHƯƠNG pc-1
Khảo sát một số đặc điểm sinh học, sinh thái của hai loài rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell và Bemisia tabaci Gennadius"
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 72 trang
72 trang | 
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2112 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khảo sát một số đặc điểm sinh học, sinh thái của hai loài rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell và Bemisia tabaci Gennadius, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGÔ THỊ NHƯ HÀ
MSSV: DPN010710
KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI CỦA 
HAI LOÀI RẦY PHẤN TRẮNG Aleurodicus dispersus Russell 
VÀ Bemisia tabaci Gennadius
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP KỸ SƯ NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 
 Ks. Trần Văn Khải
Tháng 6 . 2005
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI CỦA
 HAI LOÀI RẦY PHẤN TRẮNG 
Aleurodicus dispersus Russell 
VÀ Bemisia tabaci Gennadius
Do sinh viên: NGÔ THỊ NHƯ HÀ thực hiện và đề nạp
Kính trình Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp xét duyệt
 Long Xuyên, ngày 30 tháng 5 năm 2005
 GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN 
 Ks. Trần Văn Khải
TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA NÔNG NGHIỆP - TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN
Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp đã chấp thuận luận văn đính kèm 
với tên đề tài: 
KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, SINH THÁI CỦA 
HAI LOÀI RẦY PHẤN TRẮNG Aleurodicus dispersus Russell
VÀ Bemisia tabaci Gennadius
 Do sinh viên: NGÔ THỊ NHƯ HÀ
Thực hiện và bảo vệ trước Hội đồng ngày:…………………....………
Luận văn đã được Hội đồng đánh giá ở mức:…………………………
Ý kiến của Hội đồng:……………………………………..……………
…………………………………………………………....……………
………………………………………………………....………………
………………………………………………………....………………
………………………………………………………....………………
Long Xuyên, ngày 22 tháng 6 năm 2005
DUYỆT Chủ Tịch Hội đồng
BAN CHỦ NHIỆM KHOA NN-TNTN
 TIỂU SỬ CÁ NHÂN
Họ và tên: NGÔ THỊ NHƯ HÀ
Sinh ngày: 15/09/1982
Nơi sinh: Thới Long, Ô Môn, Cần Thơ.
Con Ông: NGÔ VĂN LUNG
Và Bà: HỒ THỊ LỆ
Địa chỉ: số nhà 382/D, khu vực Rạch Sung, phường Thới Long, quận 
Ô Môn, TP Cần Thơ.
Đã tốt nghiệp phổ thông năm 2000 tại trường PTTH Thới Long, Thới 
Long, Ô Môn, Cần Thơ.
Vào trường Đại Học An Giang năm 2001, học lớp DH2PN2, khóa II, 
thuộc khoa Nông Nghiệp – Tài Nguyên Thiên Nhiên và đã tốt nghiệp Kỹ sư 
ngành Phát Triển Nông Thôn năm 2005.
  
LỜI CẢM TẠ
* Kính dâng:
Cha mẹ lòng biết ơn chân thành và thiêng liêng nhất, người đã hết 
lòng nuôi dưỡng cho con nên người.
* Mãi mãi ghi ơn:
Thầy Trần Văn Khải, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo 
mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
* Chân thành cảm ơn:
Cô Nguyễn Thị Thu Hồng, Cô Nguyễn Thị Hạnh Chi chủ nhiệm lớp 
DH2PN2, đã giúp đỡ động viên em trong suốt khóa học.
Thầy Nguyễn Văn Minh, Thầy Trịnh Hoài Vũ, Cô Nguyễn Thị Minh 
Châu, quý Thầy Cô Bộ môn Khoa Học Cây Trồng; Cô Nguyễn Thị Ngọc 
Giang Bộ môn Công Nghệ Thực Phẩm, khoa Nông Nghiệp - Tài Nguyên 
Thiên Nhiên, trường Đại Học An Giang đã nhiệt tình giúp đỡ và động viên 
em trong suốt thời gian thực hiện đề tài.
Tất cả quý Thầy Cô trường Đại Học An Giang - những người đã tận 
tình truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu cho em trong suốt thời 
gian học tập tại trường.
Bạn Huỳnh Quang Huy, bạn Biện Thị Mỹ Duyên lớp DH2PN2 đã 
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm luận văn tốt nghiệp.
Thân gửi về các bạn lớp DH2PN2 và tất cả các bạn sinh viên khoa 
Nông Nghiệp - Tài Nguyên Thiên Nhiên những lời chúc tốt đẹp và thành đạt 
nhất.
NGÔ THỊ NHƯ HÀ
TÓM LƯỢC
Kết quả khảo sát trong phòng thí nghiệm tại Khoa Nông Nghiệp - Tài 
Nguyên Thiên Nhiên, trường Đại Học An Giang, ở nhiệt độ trung bình là 
31,50C, ẩm độ không khí trung bình là 70%, ghi nhận như sau:
 Loài Aleurodicus dispersus Russell 
Ấu trùng rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell có 4 tuổi: tuổi 
1 là 3,60 ngày; tuổi 2 là 3,52 ngày; tuổi 3 là 4,12 ngày; tuổi 4 là 8,66 ngày. 
Thời gian ủ trứng là 6,54 ngày, tổng vòng đời là 27,94 ngày, tỷ lệ nở của 
trứng là 94%. Cả thành trùng và ấu trùng đều cư trú ở mặt dưới của lá.
Cơ thể ấu trùng tuổi 1 dài 0,33 mm, rộng 0,14 mm; tuổi 2 dài 0,54 
mm, rộng 0,36 mm; tuổi 3 dài 1,06 mm, rộng 0,74 mm; tuổi 4 (nhộng) dài 
1,74 mm, rộng 1,12 mm. Trứng dài 0,28 mm, rộng 0,12 mm. 
Cơ thể thành trùng dài 2,49 mm, mắt màu nâu đen, râu dài 0,85 mm, 
vòi hình ống, dài 0,46 mm và chiều dài sải cánh là 3,62 mm.
Ổ trứng có hình xoắn ốc, dài 13,2 mm, rộng 7,73 mm; số vòng trung 
bình trên ổ là 3,64 vòng; số trứng trung bình là 21 trứng/ổ.
 Loài Bemisia tabaci Gennadius
Cả thành trùng và ấu trùng đều cư trú ở mặt dưới của lá. Ấu trùng 
Bemisia tabaci Gennadius gồm 4 tuổi: tuổi 1 là 3,94 ngày; tuổi 2 là 2,66 
ngày; tuổi 3 là 3,25 ngày; tuổi 4 là 5,92 ngày. Thời gian ủ trứng là 6,52 ngày, 
tổng vòng đời là 23,8 ngày, trứng có tỷ lệ nở là 96,21%. 
Ngô Thị Như Hà, 2005. "Khảo sát một số đặc điểm sinh học, sinh thái của 
hai loài rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell và Bemisia tabaci 
Gennadius". Luận văn tốt nghiệp Kỹ sư ngành Phát Triển Nông Thôn. Khoa 
Nông Nghiệp - TNTN, trường Đại Học An Giang.
 Giáo viên hướng dẫn: Ks. Trần Văn Khải.
Cơ thể ấu trùng tuổi 1 dài 0,30 mm, rộng 0,14 mm; tuổi 2 dài 0,40 
mm, rộng 0,22 mm; tuổi 3 dài 0,51 mm, rộng 0,30 mm; tuổi 4 dài 0,77 mm, 
rộng 0,50 mm. Trứng dài 0,19 mm, rộng 0,09 mm.
 Cơ thể thành trùng dài 1,01 mm, mắt màu đỏ nâu, râu dài 0,31 mm, 
vòi hình ống, dài 0,30 mm và chiều dài sải cánh là 2,02 mm.
MỤC LỤC
Nội dung Trang
CẢM TẠ i
TÓM LƯỢC ii
MỤC LỤC iii
DANH SÁCH BẢNG v
DANH SÁCH HÌNH viii
Chương 1: GIỚI THIỆU 1
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2
2.1 Một số đặc điểm chung của rầy phấn trắng 2
2.1.1 Đặc điểm chung của rầy phấn trắng 2
2.1.2 Sự phân bố của rầy phấn trắng 2
2.1.2.1 Tình hình thế giới 2
2.1.2.2 Tình hình trong nước 3
2.1.3 Ký chủ 3
2.1.4 Khả năng truyền bệnh 4
2.2 Đặc điểm sinh học, sinh thái và cách gây hại của một số loài rầy 
phấn trắng phổ biến
4
2.2.1 Loài Aleurodicus dispersus Russell 4
2.2.1.1 Đặc điểm sinh học 4
2.2.1.2 Đặc điểm hình thái học 6
2.2.1.3 Cách gây hại 8
2.2.2 Loài Bemisia tabaci Gennadius 8
2.2.2.1 Đặc điểm sinh học 8
2.2.2.2 Đặc điểm hình thái học 11
2.2.2.3 Cách gây hại 12
Chương 3: PHƯƠNG TIỆN & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 13
3.1 Phương tiện 13
3.2 Phương pháp 13
3.2.1 Khảo sát đặc điểm sinh học, sinh thái của rầy phấn trắng trong 
điều kiện phòng thí nghiệm 13
3.2.2 Phương pháp tiến hành 13
3.2.3 Chỉ tiêu theo dõi 15
Chương 4: KẾT QUẢ THẢO LUẬN 16
4.1 Một số đặc điểm sinh học, hình thái của rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell 16
4.1.1 Đặc điểm sinh học 16
4.1.2 Đặc điểm hình thái học 19
4.2 Một số đặc điểm liên quan đến sự đẻ trứng của loài Aleurodicus 
dispersus Russell 26
4.2.1 Xác định số vòng, kích thước của ổ trứng, số lượng trứng đẻ 
trên ổ và đặc điểm hình thái của ổ trứng loài Aleurodicus dispersus 
Russell 26
4.2.2 Xác định tỷ lệ trứng nở 28
4.3 Một số đặc điểm sinh học, hình thái của rầy phấn trắng Bemisia 
tabaci Gennadius 28
4.3.1 Đặc điểm sinh học 28
4.3.2 Đặc điểm hình thái 32
4.4 Xác định tỷ lệ trứng nở của rầy phấn trắng Bemisia tabaci 
Gennadius 37
4.5 So sánh một số đặc điểm sinh học, sinh thái của hai loài rầy phấn 
trắng Aleurodicus dispersus Russell và Bemisia tabaci Gennadius 37
4.5.1 Đặc điểm sinh học 37
4.5.2 Đặc điểm hình thái 38
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 40
TÀI LIỆU THAM KHẢO 41
PHỤ CHƯƠNG pc-1
DANH SÁCH BẢNG
Bảng 
số
Tựa bảng Trang
1 Thời gian phát triển của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus 
Russell qua các giai đoạn 17
2 Kích thước của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell 
qua các giai đoạn 20
3 Kích thước các bộ phận của cơ thể thành trùng rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell 24
4 Số lượng trứng trên ổ, kích thước ổ trứng và tỷ lệ trứng nở của 
rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell 27
5 Thời gian phát triển của rầy phấn trắng Bemisia tabaci 
Gennadius qua các giai đoạn 30
6 Kích thước của rầy phấn trắng Bemisia tabaci Gennadius qua 
các giai đoạn 33
7 Kích thước các bộ phận trên cơ thể thành trùng rầy phấn trắng 
Bemisia tabaci Gennadius 35
8 So sánh thời gian phát triển trung bình của hai loài rầy phấn 
trắng Aleurodicus dispersus Russell và Bemisia tabaci 
Gennadius qua các giai đoạn 38
9 So sánh kích thước từng giai đoạn phát triển của Aleurodicus 
dispersus và Bemisia tabaci Gennadius 39
PHỤ CHƯƠNG pc-1
Phụ chương 1: Tỷ lệ trứng nở của rầy phấn trắng Aleurodicus 
dispersus Russell trong điều kiện thí nghiệm ở khoa NN - 
TNTN trường Đại Học An Giang pc-1
Phụ chương 2: Kích thước của rầy phấn trắng Aleurodicus 
dispersus Russell qua các giai đoạn trong điều kiện thí nghiệm 
ở khoa NN - TNTN trường Đại Học An Giang pc-2
Phụ chương 3: Chiều dài các bộ phận trên cơ thể thành trùng 
rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell trong điều kiện 
thí nghiệm ở khoa NN – TNTN, trường Đại Học An Giang pc-3
Phụ chương 4: Thời gian ủ trứng của rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell trong điều kiện thí nghiệm ở 
khoa NN - TNTN, trường Đại Học An Giang pc-4
Phụ chương 5: Thời gian tuổi 1 của ấu trùng rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell trong điều kiện thí nghiệm ở 
khoa NN – TNTN, trường Đại Học An Giang pc-5
Phụ chương 6: Thời gian tuổi 2 của ấu trùng rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell trong điều kiện thí nghiệm ở 
khoa NN – TNTN, trường Đại Học An Giang pc-6
Phụ chương 7: Thời gian tuổi 3 của ấu trùng rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell trong điều kiện thí nghiệm ở 
khoa NN – TNTN, trường Đại Học An Giang pc-7
Phụ chương 8: Thời gian tuổi 4 của ấu trùng rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell trong điều kiện thí nghiệm ở 
khoa NN – TNTN, trường Đại Học An Giang pc-8
Phụ chương 9: Tỷ lệ trứng nở của rầy phấn trắng Bemisia 
tabaci Gennadius trong điều kiện thí nghiệm ở khoa NN – 
TNTN, trường Đại Học An Giang pc-9
Phụ chương 10: Kích thước của rầy phấn trắng Bemisia tabaci 
Gennadius qua các giai đoạn trong điều kiện thí nghiệm ở khoa 
NN – TNTN, trường Đại Học An Giang pc-10
Phụ chương 11: Chiều dài các bộ phận trên cơ thể thành trùng 
rầy phấn trắng Bemisia tabaci Gennadius trong điều kiện thí 
nghiệm ở khoa NN – TNTN, trường Đại Học An Giang pc-11
Phụ chương 12: Thời gian ủ trứng của rầy phấn trắng Bemisia 
tabaci Gennadius trong điều kiện thí nghiệm ở khoa NN – 
TNTN, trường Đại Học An Giang pc-12
Phụ chương 13: Thời gian tuổi 1 của rầy phấn trắng Bemisia 
tabaci Gennadius trong điều kiện thí nghiệm ở khoa NN – 
TNTN, trường Đại Học An Giang pc-13
Phụ chương 14: Thời gian tuổi 2 của rầy phấn trắng Bemisia 
tabaci Gennadius trong điều kiện thí nghiệm ở khoa NN – 
TNTN, trường Đại Học An Giang pc-14
Phụ chương 15: Thời gian tuổi 3 của rầy phấn trắng Bemisia 
tabaci Gennadius trong điều kiện thí nghiệm ở khoa NN – 
TNTN, trường Đại Học An Giang pc-15
Phụ chương 16: Thời gian tuổi 4 của rầy phấn trắng Bemisia 
tabaci Gennadius trong điều kiện thí nghiệm ở khoa NN – 
TNTN, trường Đại Học An Giang pc-16
DANH SÁCH HÌNH
Hìn
h số
Tựa hình Trang
1 Lồng lưới nhân nuôi thành trùng rầy phấn trắng làm nguồn 14
2 Quan sát hình thái của ấu trùng rầy phấn trắng dưới kính lúp 14
3 Vòng đời rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell 16
4 Sự biến đổi của trứng trong giai đoạn ủ trứng Aleurodicus 
dispersus Russell 20
5 Ấu trùng tuổi 1 của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell 21
6 Sự biến đổi ở giai đoạn ấu trùng tuổi 2 của rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell 22
7 Ấu trùng tuổi 3 (A) và tuổi 4 (nhộng) (B) của Aleurodicus 
dispersus Russell 23
8 Ấu trùng tuổi 4 (nhộng) loài Aleurodicus dispersus Russell sắp 
vũ hóa 24
9 Thành trùng rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell mới 
vũ hóa 25
10 Bộ phận sinh dục của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus 
Russell 26
11 Ổ trứng của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Rusell 27
12 Vòng đời của rầy phấn trắng Bemisia tabaci Gennadius 39
13 Sự biến đổi ở giai đoạn ấu trùng tuổi 2 của rầy phấn trắng 
Bemisia tabaci Gennadius 33
14 Sự biến đổi của ấu trùng tuổi 3 của rầy phấn trắng Bemisia 
tabaci Gennadius 34
15 Nhộng (tuổi 4) (A) và vỏ nhộng (B) của rầy phấn trắng Bemisia 
tabaci Gennadius 35
16 Rầy phấn trắng Bemisia tabaci Gennadius đang vũ hóa 36
17 Thành trùng rầy phấn trắng Bemisia tabaci Gennadius 37
Chương 1 GIỚI THIỆU
  
1.1 Đặt vấn đề
Hiện nay trong tình hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng ở An Giang 
cũng như trong khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long, cơ cấu cây trồng ngày 
một đa dạng và số lượng côn trùng gây hại, bệnh hại cây trồng cũng ngày một 
gia tăng. Đặc biệt, sự xuất hiện của rầy phấn trắng (Homoptera, Aleyrodidae) 
– côn trùng gây hại trên nhiều loại cây trồng trong địa bàn tỉnh, chúng ký sinh 
ở mặt dưới của lá và chích hút dịch của cây trồng, đồng thời tiết mật ngọt tạo 
điều kiện cho nấm bồ hóng (nấm muội đen) phát triển làm ảnh hưởng đến quá 
trình quang hợp của cây, từ đó làm giảm năng suất cây trồng và ảnh hưởng 
đến đời sống của nông dân trong vùng. Mặt khác, chúng còn có khả năng 
truyền hơn 90 loại virus cho cây trồng.
Trong khi đó, hầu hết nông dân trong địa bàn tỉnh chưa am hiểu nhiều 
về khả năng gây hại của rầy phấn trắng cũng như đặc điểm hình thái và đặc 
điểm sinh học của loài côn trùng này. Chính vì thế chúng tôi quyết định thực 
hiện đề tài: "Khảo sát một số đặc điểm sinh học, sinh thái của hai loài rầy 
phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell và Bemisia tabaci Gennadius".
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, sinh học của rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell trên cây Ớt.
- Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái, sinh học của rầy phấn trắng 
Bemisia tabaci Gennadius trên cây Đậu nành.
- Giúp cho nông dân và cán bộ kỹ thuật nhận biết được đặc điểm hình 
thái của hai loài rầy này.
Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
  
2.1 Một số đặc điểm chung của rầy phấn trắng
2.1.1 Đặc điểm chung của rầy phấn trắng
Rầy phấn trắng thuộc bộ cánh đều (Homoptera), họ Aleyrodidae, cơ 
thể nhỏ, dài khoảng 1 – 3 mm, gân cánh trước là gân đơn hoặc phân một 
nhánh. Thành trùng là loài bướm nhỏ, cả con đực và cái đều có cánh, cánh 
được phủ một lớp bụi sáp trắng mịn. Cả thành trùng và ấu trùng đều cư trú ở 
mặt dưới lá và chích hút nhựa lá (Gill, 1990 do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích 
dẫn 2004).
Berlinger (1986, do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích dẫn 2004) cho rằng 
sự biến thái của rầy phấn trắng có điểm khác với bộ Homoptera, giai đoạn 
mới nở (tuổi 1) thì hoạt động, nhưng tuổi 2, 3, 4 thì không hoạt động giống 
như vảy của rệp dính, cánh phát triển trong suốt giai đoạn biến thái sẽ lộ ra 
khi chúng vũ hoá thành con trưởng thành. Berlinger (1986, do Nguyễn Thị 
Mỹ Phụng, trích dẫn 2004) còn cho biết thêm rầy phấn trắng gây hại dưới 3 
hình thức: trực tiếp, gián tiếp, và có vai trò như một vai trò vector truyền 
bệnh.
2.1.2 Sự phân bố của rầy phấn trắng
2.1.2.1 Tình hình thế giới
Rầy phấn trắng có nguồn gốc từ Trung Mỹ và vịnh Caribe. Ở một số 
vùng của Châu Mỹ, rầy phấn trắng được báo cáo xuất hiện ở các quốc gia, 
khu vực như: Bahamas, Barbados, Brazil, Canary Islands, Costa Rica, Cuba, 
Dominica, Ecuador, Haiti, Martinique, Peru, Philippines, Panama và Nam 
Florida, trên các đảo ở Thái Bình Dương, rầy phấn trắng tìm thấy ở các khu 
vực như: American Samoa, đảo Cook, Fiji, Hawaii, Kiribati, Majuro, đảo 
Mariana, Nauru, Palau, Pohnpei, Tokelau, Tonga và Tây Samoa (Waterhouse 
và Norris, 1989). Tình hình rầy phấn trắng được báo cáo đầu tiên xuất hiện ở 
đảo Hawaii vào năm 1978 trên đảo Oahu và được báo cáo trên các đảo chính 
khác vào năm 1981. Loài này xuất hiện nhiều ở các vùng duyên hải và ở độ 
cao dưới 3048 mét (Martin and Ronald, 1993). 
Đối với loài dịch hại này có ở rất nhiều nước như: Brazil, Canary 
Islands, Costa Rica, Cuba, Dominica, Ecuador, Haiti, Martinique, Peru, 
Philippines, Panama và nam Florida (Nguyễn Thị Thu Cúc, 2000). 
2.1.2.2 Tình hình trong nước
Theo kết quả điều tra côn trùng và bệnh hại cây ăn quả ở Việt Nam 
1997–1998 của Viện Bảo Vệ Thực Vật (1999) cho rằng:
Loài Aleurocanthus spiniferus (Quaintance) xuất hiện trên cam, quýt 
ở các tỉnh như: Hà Tây, Hà Nam, Hoà Bình, Nghệ An, Tiền Giang, Bến Tre, 
Vĩnh Long, Cần Thơ, Đồng Tháp, Long An. Chúng xuất hiện vào tháng 3, 6, 
7, 10.
Loài Aleurocanthus woglumi Ashby xuất hiện trên cam, quýt ở các 
tỉnh như: Hà Tây, Hưng Yên. Chúng xuất hiện vào tháng 4 – 7, 9, 10.
Loài Aleurocanthus sp. xuất hiện trên cây nhãn, vải, ổi, nho ở Tiền 
Giang và Ninh Thuận vào tháng 3, 4.
Loài Dialeurodes citri (kuwayana) xuất hiện trên cây na ở Hà Nội và 
Hà Tây vào các tháng 7, 9, 10.
2.1.3 Ký chủ
Loài này có thể sống ký sinh trên 27 họ và trên 100 loại cây khác 
nhau (Waterhouse và Norris, 1989). Theo Wen và ctv. (1994 do Nguyễn Thị 
Thu Cúc, trích dẫn 2000) thì rầy phấn trắng Aleurodiscus dispersus là loài đa 
ký chủ, rất phổ biến trên nhiều loại cây trồng khác nhau. Tại Đài Loan, loài 
này được ghi nhận trên 144 loài ký chủ thuộc 64 họ. Tại Indonesia, Kajita và 
ctv., (1991) ghi nhận loài này gây hại trên 22 loại cây trồng thuộc 14 họ. Theo 
United States Department of Agriculture, Whitefly knowledgebase (1995a) 
thì cho rằng rầy phấn trắng hiện nay được biết chúng tấn công lên khoảng 
500 loại cây trồng đại diện cho 74 họ. Chúng đeo bám trên hầu hết các bộ 
phận của họ bầu bí, họ cà chua, họ bông, họ đậu. Trên cây cảnh, rầy phấn 
trắng thường xuất hiện trên bông cúc, hoa xô đỏ, cây trạng nguyên, và nhiều 
cây cảnh khác. Riêng cây trạng nguyên là ký chủ ưa thích nhất của rầy phấn 
trắng, vì thế chất lượng màu sắc của cây bị giảm mạnh đồng thời cũng gây 
thiệt hại nặng nề cho lá. 
Theo nghiên cứu gần đây của Huỳnh Thanh Lộc (2003) thì rầy phấn 
trắng loài Aleurodicus dispersus Russell có phổ ký chủ rất rộng và mật độ 
khá cao, khả năng gây hại lớn cho nhóm cây ăn trái (đặc biệt là ổi), nhóm cây 
công nghiệp (đặc biệt là bông vải, khoai mì), nhóm hoa kiểng – cây cảnh – 
cây che mát (đặc biệt là bàng, địa lan, sứ cùi, trạng nguyên), nhóm rau màu 
(đặc biệt là cà chua, đậu nành, ớt). Đối với loài Bemisia tabaci Gennadius có 
phổ ký chủ hẹp hơn, chỉ trên rau màu và một số ít cây thuộc nhóm cây công 
nghiệp và loài Dialeurodes sp. có phổ ký chủ chỉ trong nhóm cây có múi, đặc 
biệt trên cam, chanh, quít mật số tương đối cao. 
2.1.4 Khả năng truyền bệnh
 Theo Cohen và Berlinger (1986), Waterhouse và Norris (1989) thì 
ngoài sự gây hại trực tiếp trên các bộ phận của cây, loài này còn là tác nhân 
truyền trên 40 loại bệnh virus cho cây trồng. Tuy nhiên, Byrne (1990, do 
Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích dẫn 2004) thì cho rằng rầy phấn trắng có thể 
truyền hơn 70 bệnh virus trên cây trồng và cỏ dại. 
Ba loài rầy phấn trắng Bemisia tabaci, Trialeurodes vaporariorum và 
T. abutiloneus đều có thể truyền bệnh virus, trong đó B. tabaci là quan trọng 
nhất (Brunt, 1986 do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích dẫn 2004). 
Khả năng truyền bệnh virus của B. tabaci đã được ghi nhận được từ 
thập niên 1930 ở Châu Phi và giữa thập niên 1940 ở Châu Mỹ, nhưng sự lây 
lan, phân bố của B. tabaci gia tăng có ý nghĩa trong thập niên 1990 (Brown, 
1994 do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích dẫn 2004).
2.2 Đặc điểm sinh học, sinh thái và cách gây hại của một số loài rầy phấn trắng phổ biến
2.2.1 Loài Aleurodicus dispersus Russell
2.2.1.1 Đặc điểm sinh học
Theo Waterhouse và Norris (1989) mưa lớn và nhiệt độ hơi lạnh có 
thể tạm thời làm giảm mật số của rầy phấn trắng.
Tỷ lệ tử vong gia tăng đáng kể giữa nhiệt độ từ 40 – 450C đối với giai 
đoạn ấu trùng và ở giữa 35 – 400C đối với rầy phấn trắng trưởng thành 
(Cherry, 1979).
Theo Wen và ctv. (1994, do Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 2000) 
cho rằng ấu trùng và thành trùng đều tấn công ở mặt dưới của lá, do cấu trúc 
ở mặt dưới lá có liên quan đến tính ưa thích ký chủ của loài rầy này.
Cả ấu trùng và thành trùng đều chích hút dịch của lá cây, tiết mật 
ngọt làm cho nấm bồ hóng phát triển trên lá (Wijiesekera và Kudagamage, 
1990).
 Wen và ctv. (1994, do Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 2000) ghi 
nhận chúng gây hại chủ yếu trong mùa nắng. 
 Trứng 
Trứng thường được đẻ ở mặt dưới của lá, ở góc phải đến gân lá. Giai 
đoạn ủ trứng khoảng 9 – 11 ngày trong điều kiện nhà kính ở nhiệt độ từ 20 – 
390C (Waterhouse và Norris, 1989). Tuy nhiên theo Wen và ctv. (1994, do 
Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 2000) cho rằng thời gian ủ trứng 6 – 7 ngày.
Theo kết quả nghiên cứu của Huỳnh Thanh Lộc (2003) thì thời gian ủ 
trứng ở nhiệt độ 28 - 330C, ẩm độ không khí 65 - 75% là 7 ngày (dao động từ 
6 - 8 ngày).
 Ấu trùng
Theo Waterhouse và Norris (1989) thì rầy phấn trắng có 4 giai đoạn 
ấu trùng. Giai đoạn đầu tiên của ấu trùng đôi khi còn được gọi là “con rận”, là 
giai đoạn ấu trùng có chân bò và râu rõ rệt, giai đoạn đầu là giai đoạn duy 
nhất có khả năng di chuyển nhanh nhẹn. Tất cả các giai đoạn ấu trùng khác 
thì chúng bất động. 
Huỳnh Thanh Lộc (2003) cho rằng ấu trùng tuổi 1 mới nở di động, 
sớm tìm nơi phù hợp ở mặt lá để sống cố định. 
Theo Waterhouse và Norris (1989) thì giai đoạn đầu tiên của ấu trùng 
khoảng 6 – 7 ngày, giai đoạn thứ hai là khoảng 4 – 5 ngày và giai đoạn thứ ba 
khoảng 5 – 7 ngày trong điều kiện nhà kính với nhiệt độ khoảng 20 - 390C.
Huỳnh Thanh Lộc (2003) ghi nhận thời gian tuổi 1 kéo dài 4,2 ngày 
(dao động trong khoảng 3 – 5 ngày), tuổi 2 là 3,6 ngày (dao động trong 
khoảng 2 - 7 ngày), tuổi 3 là 3,4 ngày (dao động trong khoảng 3 - 7 ngày), 
tuổi 4 là 8,8 ngày (dao động trong khoảng 8 - 14 ngày) ở nhiệt độ 28 - 330C, 
ẩm độ không khí 65 - 75%.
 Nhộng 
Wen và ctv. (1994, do Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 2000) cho rằng 
ấu trùng tuổi cuối được xem như giai đoạn “nhộng”, kéo dài khoảng 1 tuần. 
Waterhouse và Norris (1989) còn cho biết thêm giai đoạn nhộng 
khoảng 10 – 11 ngày trong điều kiện nhà kính ở nhiệt độ 20 – 390C.
 Thành trùng
Thành trùng cái đẻ trứng ngay trong ngày vũ hóa và tiếp tục đẻ trứng 
trong suốt vòng đời của chúng (Waterhouse và Norris, 1989).
Nếu không giao phối con cái sẽ đẻ thế hệ con cháu là toàn con đực, 
nếu giao phối sẽ đẻ cả đực và cái. Chúng hoạt động linh hoạt nhất trong một 
vài giờ buổi sáng. Giao phối xảy ra trong khoảng thời gian buổi chiều 
(Waterhouse và Norris, 1989).
Thành trùng có thể sống đến 39 ngày trong điều kiện phòng thí 
nghiệm (Waterhouse và Norris, 1989).
Theo Wijesekera và Kudagamage (1990) thì thành trùng có thời gian 
sống khoảng 2 tuần.
Theo nghiên cứu của Huỳnh Thanh Lộc (2003) thời gian sống ở điều 
kiện thí nghiệm đối với con đực là 2,8 ngày (dao động trong khoảng 2 – 8 
ngày), con cái là 2,8 ngày (dao động trong khoảng 1 – 4 ngày).
2.2.1.2 Đặc điểm hình thái học
 Trứng 
Con cái đẻ từ 14 – 26 trứng thành những vòng tròn xoắn ốc ngay trên 
biểu bì của mặt dưới lá (Wijiesekera và Kudagamage, 1990). Đây cũng là 
điểm đặc trưng để nhận dạng loài rầy này.
Theo Wen và ctv. (1994, do Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 2000) cho 
rằng thành trùng đẻ trứng theo một vòng xoắn ốc ở mặt dưới lá và được che 
phủ bởi những lông sáp trắng mịn, trứng dài khoảng 0,5 mm.
Ổ trứng gồm một hay nhiều trứng nhỏ, hình elip, vỏ bọc nhẵn, trứng 
màu vàng đến nâu vàng, cùng với nhiều chất sáp nhỏ, bám ở bề mặt của lá, 
thường là mặt dưới của lá cây, nó không theo một quy luật nào cả, sáp phủ 
theo đường, điển hình là tạo thành một mẫu hơi xoắn (Waterhouse và Norris, 
1989). 
 Ấu trùng
Cơ thể ấu trùng tuổi 1 dài 0,25 mm, rộng 0,1 mm, chưa phủ lớp phấn 
sáp trắng (Huỳnh Thanh Lộc, 2003). 
Wijesekera và Kudagamage (1990, do Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 
1993) cho rằng ấu trùng tuổi 1 hoạt động nhưng các tuổi về sau lại bất động 
và có dạng giống như rệp dính và thường được gọi là nhộng giả, ấu trùng tuổi 
này tiết ra chất sáp để che phủ cơ thể. Giai đoạn ấu trùng không có cánh.
Theo nghiên cứu của Huỳnh Thanh Lộc (2003), cơ thể ấu trùng tuổi 2 
có chiều dài 0,6 mm, rộng 0,4 mm; tuổi 3 dài 1 mm, rộng 0,7 mm ; tuổi 4 dài 
1,2 mm, rộng 0,9 mm.
 Nhộng
Theo Wen và ctv. (1994, do Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 2000) 
cho rằng trên cơ thể ấu trùng tuổi cuối của rầy phấn trắng có những sợi sáp 
trắng dài. 
 Thành trùng
Thành trùng có màu trắng và có kích thước nhỏ, chiều dài khoảng 2 – 
3 mm và có phủ một lớp sáp mịn trên cơ thể. Chúng gần giống như loài bướm 
nhỏ, cả con đực và con cái đều có cánh. Mắt có màu đỏ nâu hơi sậm. Cánh 
của chúng trong suốt khi mới vũ hóa và sau khi vũ hoá một vài giờ thì phủ 
lên một lớp phấn trắng (Waterhouse và Norris, 1989).
Theo Wen và ctv. (1994, do Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 2000), 
cho rằng thành trùng có hai cặp cánh trắng dài khoảng 1,5 mm. Râu đầu có 7 
đốt. 
Thành trùng lúc mới nở, cánh chưa có lớp bụi phấn trắng, lớp bụi 
phấn trắng sớm được tiết ra trong một vài giờ sau đó từ các tuyến sáp của 
cánh và cơ thể. Cơ thể thành trùng dài 2,8 mm, râu đầu có 7 đốt, khi đậu cánh 
dang rộng chỉ thấy cặp chân trước (Huỳnh Thanh Lộc, 2003).
2.2.1.3 Cách gây hại
Rầy phấn trắng có thể gây hại theo 3 cách sau: gây hại trực tiếp, gây 
hại gián tiếp và truyền bệnh virus (Berlinger, 1986 do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, 
trích dẫn 2004).
Gây hại trực tiếp bằng cách chích hút dịch của lá cây non lúc giai 
đoạn ấu trùng tuổi 1 và giai đoạn thành trùng của rầy phấn trắng. Điều này 
làm cho lá cây bị rụng sớm. Cách gây hại trực tiếp, ngay cả khi sự phá hại ở 
mức độ nặng, thường thì nó cũng không làm chết cây (Waterhouse và Norris, 
1989).
Gây hại trực tiếp cả thành trùng và ấu trùng đều chích hút nhựa lá, 
làm cho lá rụng. Tuy nhiên, việc gây hại trực tiếp, ngay cả mật số cao, vẫn 
không làm chết cây (Berlinger, 1986 do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích dẫn 
2004).
Gây hại gián tiếp do sự bài tiết chất mật ngọt và lớp sáp trắng tạo môi 
trường thuận lợi cho nấm bồ hóng phát triển, làm đen bề mặt lá, giảm khả 
năng quang hợp và làm giảm giá trị thương phẩm của sản phẩm (Berlinger, 
1986 do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích dẫn 2004).
Truyền bệnh virus rầy chích hút ở cây bệnh khảm do virus, sau đó bay 
sang chích hút ở cây khỏe thì sẽ truyền virus qua cây này, làm cho cây bị 
nhiễm virus với các triệu chứng thể hiện như: chùn đọt, ngừng sinh trưởng, 
cây yếu, thất thu năng suất trầm trọng (Ronald và Martin, 1992). 
2.2.2 Loài Bemisia tabaci Gennadius
2.2.2.1 Đặc điểm sinh học
Nhiệt độ tối ưu cho rầy phấn trắng phát triển là từ 18 – 240C. Vòng 
đời của rầy phấn trắng ở nhiệt độ phòng khoảng 25 ngày. Ở nhiệt độ cao hơn 
thì phát triển nhanh hơn (18 ngày ở 810F). Nhưng mật số trứng thì giảm ở 
nhiệt độ trên 810F. Nhiệt độ thấp có thể không giết chết một giai đoạn nào đó 
của rầy phấn trắng, chẳng hạn như giai đoạn trứng, tuy nhiên nhiệt độ dưới 
-100F sẽ giết chết thành trùng và giai đoạn còn non của rầy phấn trắng sau 24 
giờ (1).
Tuổi thọ của rầy phấn trắng phụ thuộc vào nhiệt độ, ở nhiệt độ cao 
con cái có thể sống từ 10 – 15 ngày, ở nhiệt độ thấp hơn chúng có thể sống 
đến 2 tháng (2). 
1 The problem: whiteflies, available from: 
 accessed 27/10/2004
2 Whiteflies, available from:  
accessed 12/10/2004
Rầy phấn trắng có 6 giai đoạn sống, trứng, 4 giai đoạn ấu trùng và 
giai đoạn trưởng thành. Thời gian phát triển từ trứng đến thành trùng của loài 
côn trùng này có thể trong phạm vi từ 15 – 70 ngày tùy thuộc vào nhiệt độ và 
ký chủ. Chúng xuất hiện và phát triển trong phạm vi nhiệt độ từ 10 – 320C, 
nhiệt độ tối ưu cho chúng phát triển là 270C (Ronald và Martin, 1992).
 Trứng
Theo Ronald và Martin (1992) cho rằng trứng thường được đẻ ở mặt 
dưới của lá non, tầng trên của cây. Con cái đẻ từ 28 – 300 trứng phụ thuộc 
vào nhiệt độ và cây ký chủ. Ở nhiệt độ thấp thì gia tăng tỷ lệ tử vong. Tuy 
nhiên, độ ẩm là nhân tố không ảnh hưởng đến tỷ lệ tử vong và thời gian ấp 
trứng. Ở 250C trứng sẽ nở sau 6 - 7 ngày (Heather, 2000). 
 Ấu trùng
Ấu trùng ở giai đoạn đầu thường được gọi là “con rận” và các giai 
đoạn ấu trùng sau đó thường được nhắc đến như con nhộng. Sau khi nở thì ấu 
trùng (ấu trùng tuổi 1) di chuyển với khoảng cách ngắn và định cư để ăn. 
Thời gian để hoàn thành giai đoạn ấu trùng khoảng 2 - 4 tuần (Ronald và 
Martin, 1992).
Bọ phấn non tuổi 1 bò chậm chạp trên mặt lá, từ cuối tuổi 1 sang tuổi 
2 cho tới lúc trưởng thành, chúng sống cố định một chỗ. Vòng đời của bọ 
phấn trắng khoảng 35 – 54 ngày tùy thuộc vào nhiệt độ, ẩm độ (nhiệt độ thích 
hợp từ 18 – 330C, độ ẩm từ 90 – 95%) (Phạm Thị Nhất, 2002). 
Theo Salas và Mendoza (1995, do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích dẫn 
2004) còn cho biết Bemisia tabaci trên cà chua trong điều kiện phòng thí 
nghiệm ở nhiệt độ 250C và ẩm độ không khí 65% thì thời gian ủ trứng là 7,5 
± 0,5 ngày, tuổi 1: 4 ± 1 ngày, tuổi 2: 2,7 ± 1,1 ngày, tuổi 3: 2,5 ± 0,7 ngày, 
tuổi 4 (nhộng): 5,8 ± 0,3 ngày, vòng đời từ trứng đến vũ hóa là 22,3 ngày. 
Thành trùng sống 19 ± 5,8 ngày. Trong điều kiện tối hảo thành trùng cái đẻ 
194,9 ± 59,1 trứng, tỷ lệ trứng nở là 86,5%. Tỷ lệ đực : cái là 1 : 2,7.
 Nhộng
Một số nhà nghiên cứu cho rằng nhộng và tuổi 4 là 2 giai đoạn riêng 
biệt (Azab và ctv., 1971, EL-Helaly và ctv., 1971, Sharaf và Batta, 1985, 
López-Avila, 1986 do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích dẫn 2004), nhưng các nhà 
nghiên cứu khác lại xem đó như là một giai đoạn chuyển đổi, tuổi 4 hay còn 
gọi là nhộng bởi vì khoảng thời gian của 2 giai đoạn này ngắn và khó phân 
biệt khoảng 5,8 ± 0,3 ngày (Hussain, 1931; Gill, 1990; Bethke và ctv.,1991; 
Byrne và Bellows, 1991 do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích dẫn 2004). Trong 
thời gian 4 - 6 ngày nhộng vũ hóa thành con trưởng thành (Bohmfalk và ctv., 
1996).
 Thành trùng
Thành trùng hoạt động vào buổi sáng sớm, chiều mát, chúng không 
thích ánh sáng mạnh. Chúng hoạt động rất linh hoạt, ban ngày đậu ở dưới mặt 
lá, có động nhẹ chúng bay lên cao chừng 2 – 3 m. Trong điều kiện nắng to 
hoặc mưa, bọ trưởng thành ít bay mà nấp ở những lá sát mặt đất, bụi cây rậm. 
Trưởng thành đẻ trứng thành từng ổ từ 4 – 6 trứng hoặc rải rác ở mặt lá, 
chúng thường tập trung ở các lá bánh tẻ. Một con cái có thể đẻ từ 50 – 80 
trứng (Phạm Thị Nhất, 2002). 
Chúng thường tìm đến vị trí cao nhất của cây. Thành trùng cái đẻ 
trứng ở mặt dưới của lá non (3). Trong vòng 1 – 2 ngày sau khi vũ hóa con cái 
bắt đầu đẻ trứng, và có thể đẻ đến 500 trứng trong vòng đời của nó (3).
2.2.2.2 Đặc điểm hình thái học
 Trứng
Con cái đẻ trứng hình quả lê vào biểu bì của lá hay tế bào ở mặt dưới 
của lá. Trứng bám chặt vào lá bằng một cái cuống. Khi mới đẻ trứng có màu 
trắng, và trở nên nâu khi sắp nở (Ronald và Martin, 1992). Trứng mới đẻ có 
màu trắng, hình oval, đường kính khoảng 0,25 mm. Sau 1 – 2 ngày chuyển 
sang màu nâu đến đen (3). 
3 Pests and diseases, available from:  accessed 
12/10/2004.
3 Pests and diseases, available from:  accessed 
12/10/2004.
Trứng hình bầu dục có cuống, dài khoảng 0,18 – 0,20 mm, vỏ mỏng, 
mới đẻ có màu trong suốt, sau một ngày đêm chuyển sang màu vàng sáp, dần 
dần chuyển sang màu nâu xám (Phạm Thị Nhất, 2002). Theo Heather (2000) 
cho rằng trứng có chiều dài khoảng 0,21 mm, rộng khoảng 0,96 mm. 
 Ấu trùng
Ấu trùng thì rất dễ nhận thấy, chúng có kích thước 0,3 – 0,7 mm, mới 
nở thì di chuyển nhưng chúng trở nên bất động một vài giờ sau đó, ở thời 
điểm này chúng bắt đầu chích hút. Chúng có hình oval và nhiều sáp ở giai 
đoạn này.
Bọ phấn non có màu vàng nhạt, hình oval, mới nở đã có chân bò dưới 
mặt lá, kích thước bọ phấn non dài khoảng 0,7 – 0,9 mm, rộng 0,5 – 0,6 mm. 
Bọ phấn non có 3 tuổi, ở tuổi cuối cùng chuyển sang nhộng (Phạm Thị Nhất, 
2002).
 Nhộng
Nhộng của bọ phấn là nhộng giả, hình bầu dục màu sáng, có lông ở hai 
bên sườn có thể nhìn thấy mắt đỏ của con trưởng thành qua tấm lưng trong 
suốt của nó (Phạm Thị Nhất, 2002). Ở giai đoạn nhộng, hai mắt màu đỏ của 
chúng đủ lớn để chúng ta nhận thấy được. Nhộng có màu trắng đục, phủ 
nhiều sáp và mật ngọt (3). Nhộng hình oval, màu vàng sáng và trở nên sậm 
hơn khi sắp vũ hóa. Cả hai mặt của nhộng ở giai đoạn sớm đều có điểm màu 
cam và sẽ biến mất khi sắp vũ hóa, vỏ nhộng màu trắng, không có các tua sáp 
xung quanh nhộng (United States Department of Agriculture, whitefly 
knowledgebase, 1995b). 
 Thành trùng
Thành trùng dài khoảng 1 mm, có hai cặp cánh trắng và cơ thể màu vàng 
sáng (). Rầy phấn trắng trưởng thành có màu vàng nhạt, thân, cánh được phủ một 
lớp phấn màu trắng nên được gọi là bọ phấn trắng, chân dài và mảnh. Bọ phấn rất 
nhỏ, con đực dài khoảng 1 mm, cánh trải rộng khoảng 1,5 mm; con cái dài khoảng 
1,4 mm, cánh trải rộng gần 2 mm (Phạm Thị Nhất, 2000).
2.2.2.3 Cách gây hại
Bọ phấn trắng là loài đa ký chủ hại nhiều loại cây, nhưng hại mạnh 
nhất là cây họ cà, bầu bí, đậu đỗ. Bọ phấn trắng chích hút dịch cây, nhất là 
ngọn và phần non ở phía dưới của thân cây. Cây có nhiều bọ phấn thường 
yếu và có thể héo, chuyển màu vàng, nếu mật độ cao trong thời gian dài cây 
sẽ chết. Tác hại chủ yếu của bọ phấn trắng là môi giới truyền bệnh virus xoắn 
lá cà chua, khoai tây. Tỷ lệ bệnh xoắn lá trên ruộng cà chua tăng dần cùng 
lượng bọ phấn (Phạm Thị Nhất, 2002).
Rầy phấn trắng có khả năng tiết mật ngọt bằng cách thải ra những 
nhựa cây không tiêu hóa được và đây là nguyên nhân để nấm muội đen phát 
triển. Nấm muội đen thì không có hại cho lá cây, nhưng có thể chúng là màng 
chắn gây khó khăn cho sự quang hợp của cây, và mất đi vẻ thẩm mỹ (1). 
Theo Mound (1965, do Nguyễn Thị Mỹ Phụng, trích dẫn 2004) còn 
cho biết cả ấu trùng và thành trùng đều chích hút nhựa cây làm chết mô thực 
vật do kim chích và tiết nước bọt. Mật số rầy phấn trắng cao làm cho cây bị 
suy yếu như rụng lá và giảm sự sinh trưởng.
Truyền bệnh virus: rầy chích hút ở cây bệnh khảm do virus, sau 
đó bay sang chích hút ở cây khỏe thì sẽ truyền virus qua cây này, làm 
cho cây bị bệnh khảm với các triệu chứng thể hiện như: chùn đọt, ngừng 
sinh trưởng, cây yếu, thất thu năng suất trầm trọng (Martin và Ronald, 
1992). 
Chương 3 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
  
3.1 Phương tiện
- Cây Ớt, Đậu Nành 
- Chậu sành
- Kính lúp
1 The problem: whiteflies, available from: 
 accessed 27/10/2004
- Máy đếm đơn, máy ảnh kỹ thuật số
- Lồng lưới
- Chai lọ nhỏ
- Văn phòng phẩm: giấy, bút chì, cọ, kẹp nhọn, thước đo milimet
- Formol, thuốc CCl4, cồn. 
3.2 Phương pháp
3.2.1 Khảo sát đặc điểm sinh học, sinh thái của rầy phấn trắng 
trong điều kiện phòng thí nghiệm 
- Trồng cây con (Đậu Nành, Ớt) 1,5 đến 2 tháng tuổi.
- Nhân nuôi thành trùng rầy phấn trắng trong lồng lưới để làm nguồn.
- Đặt chậu Đậu Nành hoặc chậu Ớt vào lồng lưới, sau một đêm, lấy 
chậu cây con ra đếm và đánh dấu thứ tự các ổ trứng đã chọn, quan sát hàng 
ngày ghi nhận thời gian nở trứng, thời gian phát triển mỗi tuổi, từng giai đoạn 
từ trứng đến thành trùng.
3.2.2. Phương pháp tiến hành
- Tìm và tham khảo tài liệu, thu thập số liệu thứ cấp.
- Trồng cây Ớt, Đậu Nành trong chậu sành. 
- Tiến hành thu mẫu nuôi để làm nguồn.
- Nhân nuôi thành trùng và tiến hành khảo sát.
- Ghi nhận chỉ tiêu.
- Xử lý số liệu. 
- Viết báo cáo.
Hình 1: Lồng lưới nhân nuôi thành trùng rầy phấn trắng làm nguồn
Hình 2: Quan sát hình thái của ấu trùng rầy phấn trắng dưới kính lúp
3.2.3 Chỉ tiêu theo dõi
Quan sát, theo dõi mỗi ngày để ghi nhận:
- Màu sắc, hình dạng bên ngoài và đo kích thước của từng giai đoạn 
trứng, nhộng, thành trùng.
- Mỗi ổ trứng sẽ quan sát màu sắc, kích thước, số lượng, thời gian và tỉ 
lệ nở của trứng.
- Mỗi giai đoạn trứng, nhộng, thành trùng là bao nhiêu ngày.
Chương 4 KẾT QUẢ THẢO LUẬN
  
4.1 Một số đặc điểm sinh học, hình thái của rầy phấn trắng Aleurodicus 
dispersus Russell 
Thí nghiệm được thực hiện ở khoa Nông Nghiệp - Tài Nguyên Thiên 
Nhiên, trường Đại Học An Giang, trong điều kiện nhiệt độ trung bình là 
31,50C, ẩm độ không khí trung bình là 70%. Theo kết quả khảo sát trong quá 
trình thí nghiệm, ghi nhận được kết quả như sau:
4.1.1 Đặc điểm sinh học
Hình 3: Vòng đời rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell
 Trứng
6 - 7 ngày
3 - 4 ngày
1 - 2 ngày8 - 9 ngày
3 - 4 ngày
4 - 5 ngày
Trứng
Tuổi 1
Tuổi 2
Tuổi 3
Tuổi 4
Thành trùng
Thành trùng đẻ trứng ở mặt dưới của lá cây ký chủ, một đầu của trứng 
dính chặt vào biểu bì của lá, ở mật số cao thành trùng đẻ trứng cả mặt trên 
của lá. Trứng được đẻ theo hình xoắn ốc trên biểu bì của lá và phủ lên đó một 
lớp sáp trắng mịn. 
Theo kết quả bảng 1, quan sát, theo dõi trên 319 cá thể ghi nhận được 
thời gian ủ trứng trung bình của loài Aleurodicus dispersus Russell là 6,54 
ngày, dao động từ 5 – 8 ngày, kết quả cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu 
của Huỳnh Thanh Lộc (2003) cho rằng thời gian ủ trứng là 7 ngày, dao động 
từ 6 - 8 ngày và của Wen và ctv. (1994, do Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 
2000) cho rằng thời gian ủ trứng là 6 - 7 ngày, theo Waterhouse và Norris 
(1989) thì ở nhiệt độ 20 - 390C, thời gian ủ trứng là 9 - 11 ngày.
Bảng 1: Thời gian phát triển của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus 
Russell qua các giai đoạn 
(T0TB = 31,50C, H TB = 70%; đơn vị: ngày)
Giai đoạn Số cá thể Biến động thời gian Thời gian trung bình
Trứng 319 5 - 8 6,54
Tuổi 1 310 3 - 5 3,60
Tuổi 2 264 2 - 7 3,52
Tuổi 3 230 3 - 7 4,12
Tuổi 4* 183 7 - 14 8,66
Thành trùng 115 1 - 2 1,50
Tổng 21 - 41 27,94
Ghi chú: (*) tuổi 4 được xem như là nhộng.
 Ấu trùng
Rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell có 4 giai đoạn, giai 
đoạn ấu trùng tuổi cuối được xem như giai đoạn “nhộng”, ấu trùng tuổi 1 có 
khả năng di chuyển được và hoạt động rất linh hoạt, 3 giai đoạn tiếp theo 
chúng “bất động”. Kết quả này phù hợp với ghi nhận của Waterhouse và 
Norris (1989) cho rằng rầy phấn trắng có 4 giai đoạn ấu trùng, giai đoạn đầu 
là giai đoạn duy nhất có khả năng di chuyển nhanh nhẹn. Tất cả các giai đoạn 
ấu trùng khác thì chúng bất động.
* Tuổi 1
Ấu trùng tuổi 1 mới nở, di chuyển nhanh nhẹn, chúng thường di 
chuyển đến những gân lá trong ổ trứng của chúng và những vùng lân cận để 
thuận tiện cho việc chích hút. Tuy nhiên, trong giai đoạn này chúng không di 
chuyển đến những nơi quá xa ổ trứng (không di chuyển xa ổ trứng quá 1cm).
Quan sát 310 cá thể thì thời gian trung bình của tuổi 1 là 3,6 ngày, dao 
động từ 3 - 5 ngày (bảng 1). Kết quả này tương đối phù hợp với ghi nhận của 
Huỳnh Thanh Lộc (2003) cho rằng thời gian tuổi 1 là 4,2 ngày (dao động từ 3 
- 5 ngày).
* Tuổi 2
Quan sát, theo dõi trên 264 cá thể ghi nhận ấu trùng tuổi 2 sống cố 
định, thời gian trung bình của tuổi 2 là 3,52 ngày, dao động từ 2 - 7 ngày 
(bảng 1), theo Waterhouse và Norris (1989) thì thời gian tuổi 2 ở nhiệt độ từ 
20 - 390C là 4 - 5 ngày.
* Tuổi 3
Ấu trùng tuổi 3 sống cố định, quan sát trên 230 cá thể thì thời gian 
trung bình của tuổi 3 là 4,12 ngày, dao động trong khoảng 3 - 7 ngày (bảng 
1). Theo Huỳnh Thanh Lộc (2003), quan sát trên 69 cá thể thì thời gian tuổi 3 
là 3,4 ngày, dao động trong khoảng 3 - 7 ngày. So với kết quả của Huỳnh 
Thanh Lộc (2003), thì thời gian trung bình của tuổi 2 (quan sát trên 230 cá 
thể) cao hơn 0,72 ngày, nhưng khoảng thời gian dao động của tuổi 2, khi 
quan sát trên 69 cá thể (Huỳnh Thanh Lộc, 2003) và khi quan sát trên 230 cá 
thể thì trùng khớp với nhau là 3 - 7 ngày.
* Tuổi 4
Ấu trùng tuổi 4, sống cố định và theo kết quả bảng 1, quan sát trên 183 
cá thể thì thời gian trung bình của tuổi 4 là 8,66 ngày, dao động từ 7 - 14 
ngày. Kết quả này tương đối phù hợp với nghiên cứu của Huỳnh Thanh Lộc 
(2003), quan sát trên 55 cá thể cho rằng thời gian của tuổi 4 là 8,8 ngày, dao 
động trong khoảng 8 - 14 ngày.
 Thành trùng
Qua kết quả theo dõi, quan sát trong suốt quá trình thí nghiệm thấy 
rằng thành trùng sống ở mặt dưới của lá cây. Kết quả này cũng phù hợp với 
ghi nhận của Wen và ctv. (1994, do Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 2000) 
cho rằng ấu trùng và thành trùng đều tấn công ở mặt dưới của lá, do cấu trúc 
ở mặt dưới lá có liên quan đến tính ưa thích ký chủ của loài rầy này.
Thành trùng sau khi vũ hóa 1,5 ngày, dao động từ 1 - 2 ngày, bắt đầu 
đẻ trứng trở lại (bảng 1). Kết quả này phù hợp với ghi nhận của Huỳnh Thanh 
Lộc (2003), cho rằng thời gian từ vũ hóa đến đẻ trứng là 1,5 ngày, dao động 
từ 1 - 2 ngày và cũng tương đối phù hợp với nghiên cứu của Waterhouse và 
Norris (1989), cho rằng thành trùng cái đẻ trứng ngay trong ngày vũ hóa và 
tiếp tục đẻ trứng trong suốt vòng đời của chúng.
Tổng vòng đời của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell là 
27,94 ngày, dao động trong khoảng 21 - 41 ngày (bảng 1). Kết quả này tương 
đối phù hợp với kết quả nghiên cứu của Huỳnh Thanh Lộc (2003) cho rằng 
thời gian từ trứng đến vũ hóa là 28,5 ngày, dao động trong khoảng 23 - 43 
ngày.
4.1.2 Đặc điểm hình thái học
 Trứng
Trứng mới đẻ có màu trắng đục (hình 4A), sau một thời gian sẽ 
chuyển sang màu vàng nhạt và dần dần chuyển sang màu vàng nâu khi sắp 
nở. Trứng có hình dạng gần giống hình elip, được phủ một lớp sáp trắng mịn, 
vỏ nhẵn. Kết quả này phù hợp với ghi nhận của Waterhouse và Norris (1989) 
cho rằng trứng hình elip, vỏ bọc nhẵn, trứng màu vàng đến nâu vàng, cùng 
với nhiều chất sáp nhỏ, bám ở bề mặt của lá, thường là mặt dưới của lá.
Theo kết quả bảng 2, quan sát, đo kích thước trên 40 trứng ghi nhận 
được kết quả như sau: trứng dài 0,28 mm, (dao động từ 0,25 - 0,33 mm), rộng 
0,12 mm (dao động từ 0,10 - 0,15 mm), theo Huỳnh Thanh Lộc (2003) thì 
trứng dài 0,2 mm, rộng 0,08 mm. 
Trong giai đoạn ủ trứng, nhận thấy một vệt màu vàng cam, gần giống 
hình elip, nằm khoảng 2/3 chiều dài của quả trứng (hình 4B). Khi trứng sắp 
nở vệt màu vàng cam này càng lớn. Trước khi trứng nở khoảng 1 ngày, chúng 
ta thấy rõ được 2 mắt của ấu trùng tuổi 1 (hình 4C). 
 vệt màu cam
Hình 4: Sự biến đổi của trứng trong giai đoạn ủ trứng Aleurodicus dispersus 
Russell
Bảng 2: Kích thước của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell qua các 
giai đoạn
(T0TB = 31,50C, H TB = 70%; đơn vị: mm; n = 40)
Giai đoạn Chiều dài Chiều rộngDao động Trung bình Dao động Trung bình
Trứng 0,25 - 0,33 0,28 0,10 - 0,15 0,12
Tuổi 1 0,28 - 0,35 0,33 0,10 - 0,16 0,14
Tuổi 2 0,38 - 0,68 0,54 0,30 - 0,44 0,36
Tuổi 3 0,70 - 1,63 1,06 0,41 - 1,21 0,74
Tuổi 4* 1,00 - 2,45 1,74 0,78 - 1,39 1,12
A B C
Thành trùng 2,00 - 3,00 2,49
Ghi chú: (*) tuổi 4 được xem như giai đoạn nhộng.
 n: là số cá thể quan sát
 Ấu trùng
* Tuổi 1
Cơ thể của ấu trùng tuổi 1 có màu vàng, chúng có 2 mắt màu đen, 3 
cặp chân, có 2 râu và phía đuôi có 2 lông cứng rõ rệt, trên cơ thể chưa phủ 
lớp phấn sáp trắng (hình 5). 
Hình 5: Ấu trùng tuổi 1 của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell
Theo kết quả quan sát ở bảng 2 ghi nhận được cơ thể ấu trùng tuổi 1 
dài 0,33 mm (dao động từ 0,28 - 0,35 mm), rộng 0,14 mm (dao động từ 0,10 - 
0,16 mm), theo Huỳnh Thanh Lộc (2003) thì cơ thể ấu trùng tuổi 1 dài 0,25 
mm, rộng 0,1 mm.
* Tuổi 2
 Cơ thể ấu trùng tuổi 2 có hình bầu dục, theo thời gian ở giữa mặt lưng 
của ấu trùng tuổi 2 dần dần xuất hiện 2 vệt màu vàng cam đối xứng nhau, 
đồng thời những sợi lông tơ trên cơ thể và xung quanh rìa của cơ thể xuất 
hiện ngày càng nhiều hơn (hình 6). Tuy nhiên, trong giai đoạn tuổi 2 trên cơ 
thể ấu trùng chỉ được phủ một ít lớp sáp trắng.
Theo kết quả quan sát ở bảng 2 ghi nhận: cơ thể ấu trùng tuổi 2 dài 
0,54 mm (dao động từ 0,38 - 0,68 mm), rộng 0,36 mm (dao động từ 0,30 - 
0,44 mm). Kết quả này tương đối phù hợp với ghi nhận của Huỳnh Thanh 
Lộc (2003) cho rằng cơ thể ấu trùng tuổi 2 có chiều dài 0,6 mm, rộng 0,4 
mm. 
 vệt màu cam
Hình 6: Sự biến đổi ở giai đoạn ấu trùng tuổi 2 của rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell
* Tuổi 3
Cơ thể ấu trùng tuổi 3 được phủ đầy lớp sáp trắng, các sợi lông tơ trên 
cơ thể kéo dài ra thêm. Trên cơ thể dần dần xuất hiện hình chữ V, màu vàng 
nâu, nơi này không có lớp sáp trắng phủ lên, vì thế khi quan sát dưới kính lúp 
cầm tay chúng ta thấy rõ một lỗ tròn (lỗ vasiform) (hình 7A). Kết quả này 
phù hợp với ghi nhận của Huỳnh Thanh Lộc (2003) cho rằng cơ thể ấu trùng 
tuổi 3 được phủ sáp, các sợi lông sáp kéo dài, nơi chữ V nhìn thấy rõ lỗ 
vasiform. 
Hình 7: Ấu trùng tuổi 3 (A) và tuổi 4 (nhộng) (B) của Aleurodicus 
dispersus Russell
Cơ thể ấu trùng tuổi 3 có hình bầu dục, dài khoảng 1,06 mm (dao động 
từ 0,70 - 1,63 mm), rộng 0,74 mm (dao động từ 0,41 - 1,21 mm) (bảng 2). 
Kết quả này tương đối phù hợp với ghi nhận của Huỳnh Thanh Lộc (2003) 
cho rằng cơ thể ấu trùng tuổi 3 dài 1 mm, rộng 0,7 mm.
* Tuổi 4
Cơ thể ấu trùng tuổi 4 hình bầu dục, cơ thể phủ rất nhiều sáp trắng, các 
sợi lông tơ trên cơ thể to và dài, nơi chữ V càng lớn, màu vàng nâu, không 
phủ lớp sáp trắng và càng thấy rõ lỗ vasiform. Phía đầu cơ thể gần nơi chữ V 
thấy rõ 2 sợi sáp trắng, dài, hình ống. Hai sợi sáp này cong về hai phía đối 
xứng nhau qua trục của cơ thể ấu trùng (hình 7B). Khi sắp vũ hóa những sợi 
lông tơ trên cơ thể càng nhiều và càng dài thêm (hình 8).
A
B
Theo kết quả quan sát của bảng 2 thì cơ thể của ấu trùng tuổi 4 dài 
1,74 mm (dao động từ 1,00 - 2,45 mm), rộng 1,12 mm (dao động từ 0,78 - 
1,39 mm), theo Huỳnh Thanh Lộc (2003) thì cơ thể tuổi 4 dài 1,20 mm, rộng 
0,90 mm. 
Hình 8: Ấu trùng tuổi 4 (nhộng) loài Aleurodicus dispersus Russell 
sắp vũ hóa
  Thành trùng
Thành trùng khi mới vũ hóa có cặp cánh trong suốt, cơ thể màu vàng 
ánh (hình 9). Một vài giờ sau khi vũ hóa, cánh sẽ được phủ lên một lớp bụi 
phấn trắng. Kết quả này phù hợp với ghi nhận của Waterhouse và Norris 
(1989) cho rằng cánh của chúng thì trong suốt khi mới vũ hóa và sau khi vũ 
hóa một vài giờ thì phủ lên một lớp phấn trắng.
Bảng 3: Kích thước các bộ phận của cơ thể thành trùng rầy phấn trắng 
Aleurodicus dispersus Russell
(T0TB = 31,50C, H TB = 70%; đơn vị: mm; n = 40)
Đặc điểm cơ thể Dao động chiều dài Trung bình
Râu đầu 0,79 - 0,92 0,85
Vòi chích 0,40 - 0,55 0,46
Thân 2,00 – 3,00 2,49
Cánh* 2,96 - 4,36 3,62
Ghi chú: * Chiều dài sải cánh.
 n: là số cá thể quan sát.
Cánh của thành trùng Aleurodicus dispersus Russell có chiều dài sải 
cánh là 3,62 mm, dao động từ 2,96 - 4,36 mm (bảng 3). Gân cánh là gân phân 
1 nhánh (hình 9).
Thân của thành trùng khi mới vũ hóa có màu vàng ánh, chưa phủ lớp 
bụi phấn trắng. Một vài giờ sau khi vũ hóa thân được phủ lên một lớp bụi 
phấn trắng, nhưng ít hơn so với cánh. 
Thành trùng có thân dài 2,49 mm, dao động từ 2 - 3 mm (bảng 3), kết 
quả này tương đối phù hợp với ghi nhận của Waterhouse và Norris (1989) 
cho rằng thành trùng có màu trắng và có kích thước nhỏ, chiều dài khoảng 2 
– 3 mm và có phủ một lớp sáp mịn trên cơ thể.
Mắt của thành trùng màu nâu đen, theo ghi nhận của Waterhouse và 
Norris (1989) thì mắt của thành trùng màu đỏ nâu hơi sậm.
Râu đầu có 7 đốt, dài 0,85 mm, dao động 0,79 - 0,92 mm (bảng 3). Kết 
quả này phù hợp với ghi nhận của Wen và ctv. (1994, do Nguyễn Thị Thu 
Cúc, trích dẫn 2000) cho rằng râu đầu có 7 đốt.
Vòi chích hình ống, có chiều dài khoảng 0,46 mm, dao động 0,40 – 
0,55 mm (bảng 3).
Hình 9: Thành trùng rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell mới vũ 
hóa
Ngoài ra, trong quá trình khảo sát còn ghi nhận được hình thái của bộ 
phận sinh dục của loài Aleurodicus dispersus Russell (hình 10).
Hình 10: Bộ phận sinh dục của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Russell
0,50 mm
0,20 mm
0,20 mm
0,30 - 0,35 mm
4.2 Một số đặc điểm liên quan đến sự đẻ trứng của loài Aleurodicus 
dispersus Russell
4.2.1 Xác định số vòng, kích thước ổ trứng, số lượng trứng đẻ 
trên ổ và đặc điểm hình thái của ổ trứng loài Aleurodicus 
dispersus Russell
Thí nghiệm được thực hiện ở phòng thí nghiệm, khoa Nông Nghiệp - 
Tài Nguyên Thiên Nhiên, trường Đại Học An Giang, trong điều kiện nhiệt độ 
trung bình là 31,50C, ẩm độ không khí trung bình là 70%. Quan sát, đo kích 
thước và đếm số vòng trên 40 ổ trứng và ghi nhận được kết quả như sau:
Thành trùng đẻ trứng ở mặt dưới của lá cây ký chủ, ở mật số cao thành 
trùng đẻ trứng cả mặt trên của lá. Trứng được đẻ theo hình xoắn ốc trên biểu 
bì của lá và phủ lên đó một lớp sáp trắng mịn (hình 11), mỗi ổ trứng có nhiều 
trứng nhỏ. Kết quả này phù hợp với ghi nhận của Wen và ctv. (1994, do 
Nguyễn Thị Thu Cúc, trích dẫn 2000) cho rằng, thành trùng đẻ trứng theo 
một vòng xoắn ốc ở mặt dưới lá và được che phủ bởi những lông sáp trắng 
mịn và cũng phù hợp với ghi nhận của Waterhouse và Norris (1989) cho rằng 
ổ trứng gồm một hay nhiều trứng nhỏ.
Ổ trứng có kích thước khác nhau, dài 13,2 mm (dao động từ 6 - 22 
mm), rộng 7,73 mm (dao động từ 4 - 13 mm) (bảng 4), chúng gồm nhiều 
vòng, trung bình khoảng 3,64 vòng (dao động từ 2 - 6 vòng), mỗi vòng có 
nhiều trứng riêng lẻ khác nhau. 
Số trứng thành trùng đẻ trung bình trên ổ là 21 trứng, dao động từ 5 - 
54 trứng/ổ (bảng 4), theo nghiên cứu của Huỳnh Thanh Lộc (2003), quan sát 
trên 40 ổ trứng, ghi nhận mật số trứng thành trùng đẻ trung bình là 16,2 
trứng/ổ, dao động khoảng 5 - 39 trứng/ổ. 
Hình 11: Ổ trứng của rầy phấn trắng Aleurodicus dispersus Rusell 
Bảng 4: Số lượng trứng trên ổ, kích thước ổ trứng và tỷ lệ trứng nở của rầy 
phấn trắng Aleurodicus dispersus Rusell 
(T0TB = 31,50C, HTB = 70%; n = 40 )
Đặc điểm ổ trứng Dao động Trung bình
Dài (mm) 6 - 22 13,20
Rộng (mm) 4 - 13 7,73
Số vòng (vòng/ổ) 2 - 6 3,64
Số trứng trên ổ (trứng) 5 - 54 21
Tỷ lệ nở (%) 69 - 100 94
Ghi chú: n là số cá thể quan sát.
Thông thường vòng ngoài cùng của mỗi ổ trứng chúng ta không thấy 
trứng hiện diện ở đó, (đôi khi chỉ có 1 – 2 trứng). Vòng này đóng vai trò như 
một hàng rào bảo vệ ổ trứng của chúng. 
Ổ trứng mới đẻ chúng ta rất dễ nhận dạng, nhưng sau 2 – 5 ngày thì 
lớp sáp phủ trên ổ trứng bị mờ dần đi, đôi khi chúng ta không còn thấy lớp 
sáp mịn đó nữa. 
4.2.2 Xác định tỷ lệ trứng nở 
Thí nghiệm được thực hiện ở khoa Nông Nghiệp - Tài Nguyên Thiên 
Nhiên, trường Đại Học An Giang, trong điều kiện nhiệt độ trung bình là 
31,50C, ẩm độ không khí trung bình là 70%. Quan sát trên 40 ổ trứng và ghi 
nhận tỷ lệ trứng nở trung bình là 94%, dao động từ 69 - 100% (bảng 4). Tỷ lệ 
nở trứng trung bình của loài Aleurodicus dispersus Russell khá cao.
4.3 Một số đặc điểm sinh học, hình thái của rầy phấn trắng Bemisia tabaci 
Gennadius 
Thí nghiệm được thực hiện ở khoa Nông Nghiệp - Tài Nguyên Thiên 
Nhiên, trường Đại Học An Giang, trong điều kiện nhiệt độ trung bình là 
31,50C, ẩm độ không khí trung bình là 70%. Theo kết quả khảo sát ghi nhận 
được kết quả như sau:
4.3.1 Đặc điểm sinh
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 NgothinhuHa.pdf NgothinhuHa.pdf