Khảo sát một số yếu tố liên quan và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân hôi nách điều trị tại bệnh viện Da liễu trung ương từ tháng 7/2017 đến tháng 7/2018

4.1. Một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân hôi nách Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh nhân tới phẫu thuật chiếm chủ yếu là nữ giới (74,41%). Các nghiên cứu trên thế giới cũng cho kết qủa tương tự [3], [4], điều này giải thích có thể do sự lo lắng và chú ý về bản thân nhiều hơn ở nhóm đối tượng này. Độ tuổi chủ yếu nhóm nghiên cứu ≤ 40 tuổi (90,69%), độ tuổi trung bình nhóm nghiên cứu là 29,91 tuổi, kết quả này cao hơn của các tác giả J. He là 25 tuổi [3], của C. Tung là 24 tuổi [5], có lẽ do điều kiện về kinh tế và khả năng tiếp cận với các kênh thông tin y học ở nước ta còn thấp. Tuổi khởi phát bệnh trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 16,7 tuổi, tương tự với nghiên cứu của tác giả Deborah Lee và CS là 16,2 tuổi [6], độ tuổi khởi phát này phù hợp với dịch tễ học, bệnh hôi nách thường khởi phát sau tuổi dậy thì. Chỉ số BMI của nhóm nghiên cứu trung bình là 20,9kg/m2, trong đó chủ yếu ở mức bình thường (69,7%), chỉ có 16,3% số bệnh nhân có thừa cân (9,3%) và béo phì (7%). Kết quả của chúng tôi tương tự với tác già J. He là 20,8 kg/m2, tác giả Rongng Wang là 20,6 kg/m2 [7].Hiện tại các nghiên cứu cũng chưa chỉ ra mối liên quan giữa bệnh hôi nách và chỉ số BMI. Phần lớn bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có tiền sử gia đình có người mắc hôi nách (74,4%), nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của các một số tác giả khác [3], [7]. Qua các nghiên cứu này càng nhận thấy rõ vai trò của yếu tố di truyền trong bệnh hôi nách. Nhiều nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra một đa hình đơn nucleotide (SNP) 538G-A trong gen ABCC11 liên quan chặt chẽ với bệnh hôi nách [8]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, những bệnh nhân đến viện điều trị chủ yếu là học sinh – sinh viên (32,5%), nhân viên văn phòng (23,3%), công nhân (20,9%). Những đối tượng làm nghề văn phòng, học sinh – sinh viên là những đối tượng có điều kiện kinh tế và có cơ hội tiếp cận nhiều hơn, những bệnh nhân là công nhân bị ảnh hưởng nhiều hơndo tính chất của công việc. Có 88,4% bệnh nhân có kèm theo tăng tiết mồ hôi nách, 11,6% bệnh nhân không có tăng tiết mồ hôi nách trong nghiên cứu này. Kết quả của chúng tôi cao hơn tác giả Rongrong Wang là 35,4% [7], điều này có thể do nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết nóng ẩm, lượng mồ hôi tăng tiết nhiều hơn.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát một số yếu tố liên quan và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân hôi nách điều trị tại bệnh viện Da liễu trung ương từ tháng 7/2017 đến tháng 7/2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 270272 (872 /,(1 81 7/1 82 218 %(1112,1 ,(875 7,%(1,(1/,(8758117 71 (171 Nguyễn Mạnh Tân, Nguyễn Văn Thương TÓM TẮT Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành nhằm khảo sát một số yếu tố liên quan và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân hôi nách điều trị tại Bệnh viện Da liễu Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 43 bệnh nhân hôi nách được chẩn đoán và điều trị bằngphương pháp phẫu thuật tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 7/2017 đến tháng 7/2018. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Bệnh nhân tới phẫu thuật chủ yếu là nữ giới (74,4%). Tuổi khởi phát trung bình 16,7 tuổi. 74,4% bệnh nhân có tiền sử gia đình. 88,4% bệnh nhân có kết hợp với tăng tiết mồ hôi nách. 83,9% bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều và rất nhiều điến chất lượng cuộc sống, điểm chất lượng cuộc sống trung bình 16,06 điểm. Kết luận: Bệnh hôi nách xuất hiện sau tuổi dậy thì và có liên quan tới yếu tố gia đình. Bệnh có thể kết hợp với tăng tiết mồ hôi nách. Bệnh thường ảnh hưởng nhiều tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Từ khoá: Hôi nách, tăng tiết mồ hôi. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hôi nách (Axillary bromhidrosis) là một tình trạng gặp phổ biến ở những người sau tuổi dậy thì, bệnh liên quan chủ yếu đến vai trò của tuyến mồ hôi apocrine [1]. Tình trạng nay được coi là bệnh lý khi mùi mồ hôi tăng lên quá mức hoặc ảnh hưởng một cách đáng kể đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Bệnh gây ảnh hưởng lớn đến người bệnh ở nhiều khía cạnh của cuộc sống như hoạt động hàng ngày, hoạt động xã hội, trang phục, giao tiếp nghề nghiệp... Khi xã hội ngày càng phát triển,chất lượng cuộc sống củacon người được đề cao hơn bao giờ hết, nhu cầu điều trị bệnh cũng như yêu cầu về việc lựa chọn các phương pháp điều trị thích hợp, hiệu quả ngày càng tăng lên. Ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu về bệnh hôi nách cũng như đánh giá ảnh hưởng của bệnh đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm: Khảo sát một số yếu tố liên quan và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân hôi nách điều trị tại Bệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 7/2017 đến tháng 7/2018. Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu - Tất cả bệnh nhân hôi nách được chẩn đoán và điều trị bằngphương pháp phẫu thuật tạiBệnh viện Da liễu Trung ương từ tháng 7/2017 đến tháng 7/2018. - Tình trạng hôi nách được xác định dựa trên thăm khám lâm sàng và hỏi bệnh [2]. 2.2. Phương pháp nghiên cứu - Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang. - Cỡ mẫu: mẫu thuận tiện, đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu. - Xử lý và phân tích số liệu: theo chương trình SPSS 16.0 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân hôi nách Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới (n=43) Nhóm tuổi Nam Nữ Tổng ≤ 20 2 4,7 7 16,3 9 21,0 21 - ≤ 30 5 11,6 8 18,6 13 30,2 31 - ≤ 40 3 7,0 14 32,5 17 39,5 > 40 1 2,3 3 7,0 4 9,3 Tổng 11 25,6 32 74,4 43 100 Tuổi trung bình 29,9±10,4 (18 – 63 ) Nhận xét: Số bệnh nhân nữ được phẫu thuật chiếm tỷ lệ 74,4% cao hơn số bệnh nhân nam, trong đó chủ yếu là nhóm tuổi ≤ 40 tuổi (90,7%), tuổi trung bình nhóm nghiên cứu là 29,9 tuổi. Bảng 3.2. Đặc điểm tuổi khởi phát bệnh của đối tượng nghiên cứu (n=43) Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất Tuổi (năm) 16,7±4,8 10 30 Nhận xét: Tuổi khởi phát bệnh của nhóm nghiên cứu trung bình là 16,7 tuổi, sớm nhất là 10 tuổi, muộn nhất là 30 tuổi. DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC Biểu đồ 3.1. Đặc điểm chi số khối cơ thể của nhóm nghiên cứu (n=43) Nhận xét: Chỉ số khối cơ thể (Body mass index – BMI)trung bình nhóm nghiên cứu 20,9kg/m2, trong đó BMI từ 18,5 – 22,9 chiếm tỷ lệ cao nhất (69,7%). Biểu đồ 3.2. Phân bố bệnh nhân theo tiền sử gia đình mắc hôi nách (n=43) Nhận xét: Có 74,4% bệnh nhân có tiền sử gia đình có người mắc hôi nách, 25,6% bệnh nhân không có tiền sử gia đình. 25.6% 74.... Có tiền sử Không có tiền sử Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC Bảng 3.3. Phân bố bệnh nhân theo nghề nghiệp (n=43) Nghề nghiệp n Tỷ lệ (%) Làm ruộng 2 4,7 Nhân viên văn phòng 10 23,3 Công nhân 9 20,9 Bộ đội 1 2,3 Hưu trí 2 4,7 Học sinh-Sinh viên 14 32,5 Khác 5 11,6 Chung 43 100 Nhận xét: Bệnh nhân đến điều trị hôi nách chủ yếu ở nhóm học sinh - sinh viên (32%), nhóm nhân viên văn phòng (23,3%) và công nhân (20,9%). Bảng 3.4. Phân bố bệnh nhân theo vị trí tăng tiết mồ hôi (n=43) Vị trí ra mồ hôi n Tỷ lệ (%) Chỉ vùng nách 30 69,8 Vùng nách + tay/chân 7 16,3 Vùng nách + vùng khác 1 2,3 Không tăng tiết mồ hôi 5 11,6 Tổng 43 100 Nhận xét: 88,4% bệnh nhân có kèm theo tăng tiết mồ hôi nách, trong đó có 69,8% bệnh nhân chỉ tăng tiết mồ hôi vùng nách, 11,6% bệnh nhân không có tăng tiết mồ hôi nách. 3.2. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân hôi nách Biểu đồ 3.3. Chất lượng cuộc sống nhóm nghiên cứu trước điều trị(n=43) DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân bị ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống mức độ nhiều (53,5%) và rất nhiều (27,9%). Không có bệnh nhân nào không bị ảnh hưởng, điểm chất lượng cuộc sống trung bình là 16,1 điểm. 4. BÀN LUẬN 4.1. Một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân hôi nách Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ bệnh nhân tới phẫu thuật chiếm chủ yếu là nữ giới (74,41%). Các nghiên cứu trên thế giới cũng cho kết qủa tương tự [3], [4], điều này giải thích có thể do sự lo lắng và chú ý về bản thân nhiều hơn ở nhóm đối tượng này. Độ tuổi chủ yếu nhóm nghiên cứu ≤ 40 tuổi (90,69%), độ tuổi trung bình nhóm nghiên cứu là 29,91 tuổi, kết quả này cao hơn của các tác giả J. He là 25 tuổi [3], của C. Tung là 24 tuổi [5], có lẽ do điều kiện về kinh tế và khả năng tiếp cận với các kênh thông tin y học ở nước ta còn thấp. Tuổi khởi phát bệnh trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 16,7 tuổi, tương tự với nghiên cứu của tác giả Deborah Lee và CS là 16,2 tuổi [6], độ tuổi khởi phát này phù hợp với dịch tễ học, bệnh hôi nách thường khởi phát sau tuổi dậy thì. Chỉ số BMI của nhóm nghiên cứu trung bình là 20,9kg/m2, trong đó chủ yếu ở mức bình thường (69,7%), chỉ có 16,3% số bệnh nhân có thừa cân (9,3%) và béo phì (7%). Kết quả của chúng tôi tương tự với tác già J. He là 20,8 kg/m2, tác giả Rongng Wang là 20,6 kg/m2 [7].Hiện tại các nghiên cứu cũng chưa chỉ ra mối liên quan giữa bệnh hôi nách và chỉ số BMI. Phần lớn bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có tiền sử gia đình có người mắc hôi nách (74,4%), nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của các một số tác giả khác [3], [7]. Qua các nghiên cứu này càng nhận thấy rõ vai trò của yếu tố di truyền trong bệnh hôi nách. Nhiều nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra một đa hình đơn nucleotide (SNP) 538G-A trong gen ABCC11 liên quan chặt chẽ với bệnh hôi nách [8]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, những bệnh nhân đến viện điều trị chủ yếu là học sinh – sinh viên (32,5%), nhân viên văn phòng (23,3%), công nhân (20,9%). Những đối tượng làm nghề văn phòng, học sinh – sinh viên là những đối tượng có điều kiện kinh tế và có cơ hội tiếp cận nhiều hơn, những bệnh nhân là công nhân bị ảnh hưởng nhiều hơndo tính chất của công việc. Có 88,4% bệnh nhân có kèm theo tăng tiết mồ hôi nách, 11,6% bệnh nhân không có tăng tiết mồ hôi nách trong nghiên cứu này. Kết quả của chúng tôi cao hơn tác giả Rongrong Wang là 35,4% [7], điều này có thể do nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thời tiết nóng ẩm, lượng mồ hôi tăng tiết nhiều hơn. 4.2. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân hôi nách Chúng tôi đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bằng thang điểm chất lượng cuộc sống trong da liễu học (Dermatology Life Quality Index) nhằm đánh giá hiệu quả của điều trị. Trong nghiên cứu này có 81,1% bệnh nhân bị ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống, trong đó mức độ nhiều (53,5%) và rất nhiều (27,9%), không có bệnh nhân nào không bị ảnh hưởng, điểm CLCS trung bình là 16,1 điểm. Kết quả này cao hơn của J. He với điểm CLCS trung bình là 11 điểm, của Rongrong Wang là 9 điểm. Một lần nữa chúng tôi nhấn mạnh bệnh hôi nách tạo ra một gánh nặng về tâm lý và làm Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC suy giảm nghiêm trọng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, chính vì vậy một phương pháp điều trị hiệu quả giúp nâng cao CLCS của bệnh nhân mang ý nghĩa hết sức quan trọng. 5. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu một số yếu tố liên quan và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân hôi nách điều trị tại Bệnh viện Da liễu Trung Ương chúng tôi rút ra một số kết luận sau: Bệnh nhân tới phẫu thuật chủ yếu là nữ giới (74,4%), độ tuổi chủ yếu ≤40 tuổi (90,7%), độ tuổi trung bình 29,9 tuổi. Tuổi khởi phát bệnh bệnh chu yếu sau tuổi dậy thì (trung bình 16,7 tuổi). Chưa thấy mối liên quan giữa bệnh hôi nách và chỉ số BMI (BMI trung bình nhóm nghiên cứu là 20,9 ± 2,6 kg/m2 ). Đối tượng đến điều trị chủ yếu là những người là học sinh – sinh viên (32,5%), nhân viên văn phòng (23,3%), công nhân (20,9%). Đa số bệnh nhân tới phẫu thuật có kèm theo tăng tiết mồ hôi nách (88,4%) và một số bệnh nhân không có tăng tiết mồ hôi nách (11,6%). Bệnh nhân hôi nách bị ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng cuộc sống. Có 81,1% bệnh nhân bị ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống mức độ nhiều và rất nhiều. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Spielman AI, Sunavala G, Harmony JA, et al. Identication and immunohistochemical localization of protein precursors to human axillary odors in apocrine glands and secretions.  Arch Dermatol. 1998 Jul. 134(7):813-8.  2. Jami L Miller (2017), “Bromhidrosis”, UptoDate. 3. J. He, T. Wang, J. Dong (2012), “Excision of apocrine glands and axillary supercial fascia as a single entity for the treatment of axillary bromhidrosis”, J Eur Acad Dermatol Venereol, 26(6), tr. 704-9. 4. R. Wang, J. Yang, J. Sun (2015), “A Minimally Invasive Procedure for AxillaryOsmidrosis: Subcutaneous Curettage Combined with Trimming Through a Small Incision”, Aesthetic Plast Surg, 39(1), tr. 106-13. 5. T. C. Tung, F. C. Wei (1997), “Excision of subcutaneous tissue for the treatment of axillary osmidrosis”, Br J Plast Surg, 50(1), tr. 61-6. 6. Lee D, Cho SH, Kim YC, et al. Tumescent liposuction with dermal curettage fortreatment of axillary osmidrosis and hyperhidrosis. Dermatol Surg 2006; 32:505. 7. R. Wang, J. Yang, J. Sun (2015), “A Minimally Invasive Procedure for Axillary Osmidrosis: Subcutaneous Curettage Combined with Trimming Through a Small Incision”, Aesthetic Plast Surg, 39(1), tr. 106-13. 8. Martin A, Saatho M, KuhnA F et al. Functional ABCC11 allele isessential in the biochemical formation of human axillary odor. J Invest Dermatol 2010; 130: 344–356. DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC SUMMARY STUDY ON RELATED FACTORS AND LIFE QUALITY OF AXILLARY BROMHIDROSIS PATIENTS Objective: To investigate related factors and life quality of axillary bromhidrosis patients. Method: A cross sectional study was carried out in 43 patients diagnosed and treated by surgery at the National Hospiatal of Dermatology and Venereology. Results: Almost patients were women (74,4%). Average onset of disease was 16,7 years old. There are 74,4% with patients had family history. 88,4% of patients combined with hyperhidrosis. Most of patients were aected much to quality of life (83,9%), the average of Dermatology Life Quality Index was 16,06. Conclusion: Axillary bromhidrosis occurs after puberty and relates to family history. This disease can combine with hyperhidrosis. It oftenaects much to patient’s life quality. Keywords: Axillary bromhidrosis, hyperhidrosis.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_mot_so_yeu_to_lien_quan_va_chat_luong_cuoc_song_cua.pdf
Tài liệu liên quan