Vấn đề nhiễm SVB và SVC là một trong
những mối quan tâm hàng đầu ở các bệnh nhân
điều trị CTNT. Nhiễm SVB và SVC ở các bệnh
nhân này thường không có triệu chứng lâm sàng
rõ rệt nhưng lại có nguy cơ cao diễn tiến đến
viêm gan mạn tính. Từ đó có thể đưa đến xơ gan
và ung thư gan. Điều này làm tăng chi phí điều
trị, giảm thời gian và chất lượng cuộc sống của
các bệnh nhân STMGĐC. Tuy nhiên, điều đáng
lưu ý là đáp ứng miễn dịch ở bệnh nhân CTNT
với các xét nghiệm kháng thể dùng cho việc tầm
soát SVB và SVC kém. Nghiên cứu gần đây cho
thấy tỷ lệ âm tính giả ở nhóm bệnh nhân này lên
tới 17,9%(6). Đây là một trở ngại lớn trong việc
tầm soát viên gan siêu vi ở các bệnh nhân CTNT.
Trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi sử dụng xét
nghiệm HCV‐coreAg để phát hiện sự hiện diện
của kháng nguyên lõi SVC với độ đặc hiệu đạt
99.8% cùng độ nhạy tương đương xét nghiệm
HCV‐RNA giúp làm giảm tỷ lệ âm tính giả(12).
Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ hiện mắc của SVB và
SVC lần lượt là 5,7% và 6,4%. Một bệnh nhân
(0,7%) dương tính với cả hai loại xét nghiệm tầm
soát viêm gan siêu vi. Tỷ lệ này nhìn chung thấp
hơn nhiều so với báo cáo của các tác giả khác
trong nước thời gian gần đây. Tại miền Nam,
năm 2011, tác giả Nguyễn Bách và cộng sự thực
hiện nghiên cứu trong thời gian 6 năm tại bệnh
viện Thống Nhất cho thấy tỷ lệ nhiễm SVB, SVC
và đồng nhiễm lần lượt là 4,89% (2,17 – 7,21%),
19,58% (12,37 – 15,22%), và 2,09% (1,01 –
3,26%)(11). Tại miền Bắc, tác giả Hà Phan Hải An
và cộng sự khảo sát tỷ lệ nhiễm SVC giai đoạn
2007 – 2011 là 33,5% tại bệnh viện Việt Đức(6).
Nghiên cứu khác tại miền Bắc cho thấy tỷ lệ
nhiễm SVB và/hoặc SVC là 64,9%, đồng nhiễm
chiếm tỷ lệ 5,5%(1). Sự khác biệt này có thể là do
việc thực hiện nghiêm ngặt qui trình chống
nhiễm khuẩn tại cơ sở nghiên cứu kể từ khi
thành lập cho đến nay. Bên cạnh phòng ngừa
phổ quát, chúng tôi thực hành không tái sử
dụng các thiết bị y tế dùng trong CTNT ngoại
trừ màng lọc, hạn chế sử dụng chung một lọ
thuốc (Heparin ) cho nhiều bệnh nhân, tuân
thủ qui trình rửa máy sau chạy thận, rửa và bảo
quản màng lọc tái sử dụng. Mặc dù vậy, như đã
đề cập, sự khác biệt về loại xét nghiệm dùng tầm
soát bệnh cũng như qui mô của cơ sở lọc máu
cũng góp phần tạo nên sự khác biệt trên.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 258 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát nguyên nhân gây suy thận mạn giai đoạn cuối và tỷ lệ nhiễm siêu vi viêm gan B và C ở bệnh nhân điều trị tại khoa lọc máu bệnh viện quận 6, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 205
KHẢO SÁT NGUYÊN NHÂN GÂY SUY THẬN MẠN GIAI ĐOẠN CUỐI
VÀ TỶ LỆ NHIỄM SIÊU VI VIÊM GAN B VÀ C Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ
TẠI KHOA LỌC MÁU BỆNH VIỆN QUẬN 6
Dương Minh Cường*, Olszyna Dariusz Piotr**, Nguyễn Duy Phong***, Ngô Thanh Điểu****,
McLaws Mary‐Louise*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Việc cập nhật những thay đổi về các nguyên nhân gây suy thận mạn tính giai đoạn cuối
(STMGĐC) và tỷ lệ hiện mắc siêu vi viêm gan B (HBV) và C (HCV) giúp đưa ra các chiến lược phòng bệnh hợp
lí cũng như đánh giá được vai trò các biện pháp chống nhiễm khuẩn đang được áp dụng tại khoa lọc máu. Từ đó,
góp phần nâng cao hiệu quả của chương trình phòng bệnh và cải thiện hơn nữa chất lượng điều trị.
Mục tiêu: Xác định các nguyên nhân gây bệnh suy thận mạn giai đoạn cuối (STMGĐC), tỷ lệ hiện mắc
siêu vi viêm gan B và C ở các bệnh nhân người lớn đang điều trị chạy thận nhân tạo định kỳ (CTNT).
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang từ 10/2012 đến 10/2013. Các bệnh nhân được thực hiện xét nghiệm
tầm soát kháng nguyên bề mặt HBV (HBsAg) và kháng nguyên lõi HCV (HCV‐coreAg) trong huyết thanh.
Thông tin về bản thân, tiền căn và tình trạng bệnh lý hiện tại được thu thập thông qua bảng câu hỏi in sẵn.
Kết quả: Tổng số 141 bệnh nhân tham gia có 53% là nữ giới. Độ tuổi trung bình 55 ± 16 (nhỏ nhất là 19 và
lớn nhất là 87 tuổi). 21% bệnh nhân nhỏ hơn 41 tuổi, 42% từ 41 – 60 và 37% lớn hơn 60 tuổi. Ba nguyên nhân
gây bệnh hàng đầu là tăng huyết áp (THA) (33%), đái tháo đường týp 2 (ĐTĐ) (32%) và bệnh cầu thận (BCT)
(18%). Nguyên nhân gây bệnh có sự khác biệt theo nhóm tuổi và giới tính. 5,7% (8/141) dương tính với HBsAg,
6,4% (9/141) với HCV‐coreAg và 0,7% (1/141) dương tính với cả hai loại xét nghiệm.
Kết luận: Để góp phần ngăn ngừa STMGĐC, cần kiểm soát tốt THA, ĐTĐ và BCT; phát hiện sớm và điều
trị dự phòng bệnh thận mạn. Để đạt được điều này, cần nâng cao kiến thức người dân về bệnh thận mạn và ý
thức về việc thăm khám sức khỏe định kỳ. Ngoài ra, cần chú ý tầm soát triệu chứng sớm của các bệnh trên ở tất
cả các chuyên khoa. Bên cạnh đó, nghiên cứu về mức độ tuân thủ qui trình chống nhiễm khuẩn tại các cơ sở
CTNT cần được tiến hành nhằm đánh giá toàn diện hiệu quả của các biện pháp dự phòng nhiễm HBV và HCV ở
các bệnh nhân CTNT.
Từ khóa: Suy thận mạn; Nhiễm siêu vi viêm gan B và C; điều trị chạy thận nhân tạo
ABSTRACT
PATTERN OF END STAGE RENAL DISEASE AND SEROPREVALENCE OF HEPATITIS B VIRUS
AND HEPATITIS C VIRUS INFECTIONS AMONG CHRONIC HAEMODIALYSIS PATIENTS IN
VIETNAM: A SINGLE‐CENTRE EXPERIENCE
Duong Minh Cuong, Olszyna Dariusz Piotr, Nguyen Duy Phong, Ngo Thanh Dieu,
McLaws Mary‐Louise* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014:: 206 ‐ 211
Background: The updatecause of end stage renail disease (ESRD) andprevalence of hepatitis B virus (HBV) and
hepatitis C virus (HCV)helps to establish rational nosocomial preventivestrategiesindialysisdepartment.
Objectives: We aimed to identify the major causes of ESRD and the seroprevalence of hepatitis B virus and
* Đại Học New South Wales, Úc **Trường Y Đại Học Quốc Gia, Singapore
*** Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh, Việt Nam **** Bệnh viện An Sinh, Việt Nam
Tác giả liên lạc: PGS.TS Nguyễn Duy Phong ĐT: 0913155993 Email: nguyenduyphongvn@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 206
hepatitis C virus infections among adult patients undergoing chronic haemodialysis.
Methods: A cross‐sectional survey was conducted between October 2012 and October 2013. Study
participants were tested for HBV surface antigen (HBsAg) and HCV core antigen (HCV‐coreAg). Demographic
characteristics and medical histories were collected using a self‐reported questionnaire.
Results: All 141 patients attending the heamodialysis unit completed the questionnaire of whom53% were
female. Age ranged between 19 and 87 years (mean ± SD; 55 ± 16). Of these, 21% were younger than 41 years,
42% were between 41 and 60 and 37% were older than 60 years. The top three causes of ESRD were
hypertension (33%), diabetes mellitus (32%) and glomerulonephritis (18%). The leading cause of ESRD differed
by age and gender. Seroprevelence for bloodborne infections identified 5.7% (8/141) were HBsAg+, 6,4% (9/141)
were HCV‐coreAg+ and 0,7% (1/141) was HBsAg+ and HCV‐coreAg+.
Conclusion: Improvement in management of hypertension, diabetes and glomerulonephritis; early detection
and better preventive care of chronic kidney disease pivotal to the prevention of ESRD. It is essential that people
should improve their perception of periodic medical checkup and ESRD knowledge. In addition, physicians
regardless of specialiaty pay much attention to the early signs of those leading diseases causing ESRD. Actual
practices of universal precautions among haemodialysis centres should be examined in Vietnam to evaluate the
effectiveness of the current viral hepatitis prevention methods.
Key words: Chronic renal failure; HBV and HCV infection; Heamodialysis Patients
ĐẶT VẤN ĐỀ
STMGĐC đang trở thành một vấn đề sức
khỏe toàn cầu. Theo ước đoán năm 2012 có
3.010.000 bệnh nhân STMGĐC đang được điều trị
trên toàn thế giới với tỷ lệ gia tăng hàng năm là
7%(7). Tại Việt Nam, báo cáo gần đây cho thấy tỷ
lệ bệnh nhân STMGĐC được chẩn đoán mới
hàng năm vào khoảng 100 ‐ 150/ 1.000.000 dân(5).
Riêng tại miền Bắc, một khảo sát với qui mô lớn
được thực hiện trên 8.505 người cho thấy bệnh
thận mạn giai đoạn 3 – 5 chiếm tỷ lệ 3.1%(9). Ở các
nước phương Tây, ĐTĐ và THA là nguyên nhân
gây bệnh hàng đầu(16). Tương tự, tại Việt Nam,
nguyên nhân STMGĐC cũng đang có chiều
hướng thay đổi cùng với sự trỗi dậy của các bệnh
mạn tính không lây thời gian gần đây(11).
CTNT là một trong 3 phương pháp điều trị
STMGĐC được thực hiện tại Việt Nam. Hai
phương pháp còn lại bao gồm ghép thận và
thẩm phân phúc mạc. CTNT được áp dụng cho
bệnh nhân STMGĐC lần đầu tại Việt Nam vào
năm 1983(15). Cho đến nay, số lượng bệnh nhân
điều trị CTNT ngày càng tăng do hiệu quả cũng
như chi phí điều trị hợp lí so với các nước có thu
nhập tương đương trong khu vực cùng sự hỗ trợ
của chính phủ thông qua việc chi trả bảo hiểm y
tế(12). Tuy nhiên, bệnh nhân CTNT có nguy cơ
cao nhiễm SVB và SVC(4). Các nghiên cứu cho
thấy truyền máu thường xuyên, điều trị tại
nhiều khoa lọc máu khác nhau, thời gian lọc
máu kéo dài và đặc biệt là các tiếp xúc trong môi
trường khoa chạy thận là những yếu tố nguy cơ
nhiễm bệnh(2,11).
Việc cập nhật những thay đổi về các nguyên
nhân phổ biến gây bệnh STMGĐC và tỷ lệ hiện
mắc SVB và SVC giúp đưa ra các chiến lược
phòng bệnh hợp lí cũng như đánh giá được vai
trò của các biện pháp chống nhiễm khuẩn đang
được áp dụng tại khoa lọc máu. Từ đó góp phần
nâng cao hiệu quả của chương trình phòng bệnh
và cải thiện hơn nữa chất lượng điều trị
STMGĐC. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu tại
khoa Lọc Máu, Bệnh Viện Quận 6, thành phố Hồ
Chí Minh nhằm khảo sát nguyên nhân
STMGĐC và tỷ lệ hiện mắc SVB và SVC ở các
bệnh nhân đang điều trị tại khoa.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên
141 bệnh nhân người lớn (trên 18 tuổi) đang điều
trị tại khoa lọc máu Bệnh viện Quận 6 từ tháng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 207
10/2012 đến 10/2013. Tất cả bệnh nhân đều đồng
ý tham gia nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu được
chấp thuận bởi hội đồng Y Đức Đại học New
South Wales, Sở Y Tế thành phố Hồ Chí Minh và
Bệnh viện Quận 6.
Người tham gia được thực hiện xét nghiệm
tầm soát kháng nguyên bề mặt SVB (HBsAg) và
kháng nguyên lõi SVC (HCV‐coreAg). Ngoài ra,
bệnh nhân được yêu cầu cung cấp các thông tin
về bản thân, tiền căn và tình trạng bệnh lý hiện
tại thông qua việc điền vào bảng câu hỏi
theomẫu in sẵn dưới sự hướng dẫn của nghiên
cứu viên. Các thông tin này sẽ được đối chiếu
với hồ sơ bệnh án của bệnh nhân.
Do giới hạn về diện tích, khoa lọc máu Bệnh
viện Quận 6 chưa có các phòng lọc máu riêng
cho bệnh nhân nhiễm SVB và/hoặc SVC. Tuy
nhiên các bệnh nhân này được sử dụng máy
chạy thận riêng biệt (“máy nhiễm SVB” và “máy
nhiễm SVC”). Tương tự, màng lọc tái sử dụng
được rửa và bảo quản ở những khu vực khác
nhau tùy theo tình trạng nhiễm bệnh của chủ
nhân màng lọc.
Số liệu thống kê được xử lý bằng phần mềm
SPSS phiên bản 20.
KẾT QUẢ
Độ tuổi trung bình của các bệnh nhân là 55 ±
16 (nhỏ nhất là 19 và lớn nhất là 87 tuổi).Trong
số này, 21% bệnh nhân nhỏ hơn 41 tuổi, 42% từ
41 đến 60 và 37% lớn hơn 60 tuổi. Nữ giới chiếm
53%.33% bệnh nhân đến từ các tỉnh thành khác
thành phố Hồ Chí Minh (bảng 1).
Bảng 1: Đặc điểm chung của 141 bệnh nhân điều trị
tại khoa Lọc Máu, Bệnh viện Quận 6
Nữ giới % (n) 54 (75)
Phân bố theo nhóm tuổi
< 41 tuổi 21 (30)
41 - 60 tuổi 42 (59)
> 60 tuổi 37 (52)
Phân bố theo nơi sinh sống
Thành phố Hồ Chí Minh 67 (95)
Tỉnh thành khác 33 (46)
THA (33%), ĐTĐ (32%) và BCT (18%) là 3
nguyên nhân gây bệnh hàng đầu trong dân số
nghiên cứu.Nguyên nhân gây bệnh có sự khác biệt
về giới và nhóm tuổi. Ở nam giới, nguyên nhân
phổ biến nhất theo thứ tự là THA, BCT và ĐTĐ.
Ngược lại, ở nữ giới chỉ có ĐTĐ và THA là 2
nguyên nhân chính.Trong khi BCT chiếm tỷ lệ 27%
ở các bệnh nhân nam, con số này chỉ 11% ở các
bệnh nhân nữ. Nguyên nhân gây bệnh hàng đầu ở
các bệnh nhân nhỏ hơn 41 tuổi là BCT. THA và
ĐTĐ là các nguyên nhân phổ biến ở nhóm 41 – 60
tuổi và trên 60 tuổi theo thứ tự (bảng 2).
Bảng 2: Nguyên nhân STMGĐC của 141 bệnh nhân điều trị tại khoa Lọc Máu, Bệnh viện Quận 6
Nguyên nhân STMGĐC Tổng số
(N= 141)
% (n)
Theo giới tính Theo nhóm tuổi
Nam(N= 66)
% (n)
Nữ(N= 75)
% (n)
< 41 tuổi(N= 30)
% (n)
‐ 60 tuổi(N= 59)
% (n)
> 60 tuổi(N= 52)
% (n)
Tăng huyết áp 33 (46) 30 (20) 35 (26) 3 (1) 42 (25) 39 (20)
Đái tháo đường type 2 32 (45) 23 (15) 40 (30) 0 31 (18) 52 (27)
Bệnh cầu thận 18 (26) 27 (18) 11 (8) 67 (20) 9 (5) 2 (1)
Lupus 2 (3) 0 4 (3) 10 (3) 0 0
Bệnh ống thận mô kẽ 3 (4) 5 (3) 1 (1) 0 3 (2) 4 (2)
Bệnh thận đa nang 2 (3) 3 (2) 1 (1) 0 5 (3) 0
Nguyên nhân tắc nghẽn* 2 (3) 5 (3) 0 7 (2) 2 (1) 0
Sỏi hệ niệu 2 (3) 0 4 (3) 0 3 (2) 2 (1)
Ung thư bàng quang 1 (1) 2 (1) 0 0 0 2 (1)
Không rõ 5 (7) 6 (4) 4 (3) (4) 5 (3) 0
*Hẹp niệu quản bẩm sinh và mắc phải, bàng quang thần kinh do chấn thương tuỷ sống.
Ghi chú: Tổng các tỷ lệ có thể khác 100% do làm tròn số
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 208
Về tỷ lệ hiện mắc SVB và SVC, có 8 bệnh
nhân (5,7%) và 9 bệnh nhân (6,4%) dương tính
với HBsAg và HCV‐coreAg. Một bệnh nhân
(0,7%) dương tính với cả hai loại xét nghiệm
(hình 1).
Hình 1: Tỷ lệ hiện mắc SVB và SVC của 141 bệnh nhân điều trị tại khoa Lọc Máu, Bệnh viện Quận 6
BÀN LUẬN
Cập nhật nguyên nhân STMGĐC đóng vai
trò quan trọng trong việc kiểm soát bệnh do một
số nguyên nhân có thể dự phòng hoặc điều trị
nhằm giúp kéo dài diễn tiến đến STMGĐC.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, các nguyên
nhân STMGĐC bao gồm THA, ĐTĐ, BCT, bệnh
ống thận mô kẽ, Lupus, bệnh thận đa nang, bệnh
thận do nguyên nhân tắc nghẽn, sỏi hệ niệu và
ung thư bàng quang. Trong số này, hai nguyên
nhân hàng đầu là THA và ĐTĐ phù hợp với các
báo cáo ở Mĩ và Châu Âu(3). Ở các nước đang
phát triển thuộc khu vực hạ Sahara và châu Á,
tương tự như Việt Nam, các bệnh này cũng đang
dần trở thành nguyên nhân STMGĐC quan
trọng(13)(16). Tại Việt Nam, các nghiên cứu về
nguyên nhân STMGĐC không nhiều. Khảo sát
của tác giả Võ Tam thực hiện năm 2004 cho thấy
bệnh lý cầu thận, viêm thận bể thận do nhiễm
khuẩn hệ tiết niệu mạn tính và sỏi hệ niệu là
những nguyên nhân hàng đầu gây suy thận mạn
ở người lớn(15). Trong nghiên cứu hiện tại, chúng
tôi không ghi nhận trường hợp nào có nguyên
nhân do nhiễm khuẩn hệ tiết niệu. Sự khác biệt
này có thể do việc gia tăng số lượng bệnh nhân
ĐTĐ và/hoặc THA trên toàn thế giới bao gồm
Việt Nam trong thời gian gần đây(10). Bên cạnh
đó, những tiến bộ trong điều trị và quản lý các
bệnh này cũng giúp cho thời gian sống của bệnh
nhân được kéo dài hơn. Từ đó, các biến chứng
muộn của bệnh bao gồm bệnh thận mạn có khả
năng xuất hiện. Ngoài ra, các bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi đa số sống tại thành
phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận, nơi có điều
kiện kinh tế xã hội tốt hơn khu vực thực hiện
nghiên cứu của tác giả Võ Tam là các xã thuộc
Thừa Thiên Huế. Điều này phần nào tạo nên sự
khác biệt về mô hình bệnh tật ở hai nơi. Mặt
khác, trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi thấy
rằng nguyên nhân gây bệnh có sự khác biệt theo
nhóm tuổi và giới tính. Như đã trình bày, THA
và ĐTĐ là các nguyên nhân phổ biến ở nhóm
bệnh nhân 41 – 60 và trên 60 tuổi theo thứ tự.
Nguyên nhân do BCT vẫn còn chiếm tỷ lệ khá
cao (18%) và đứng hàng thứ ba gây STMGĐC
trong toàn dân số nghiên cứu. Đặc biệt, BCT
chiếm tỷ lệ cao ở nam giới so với nữ (27% và
11%). Đặc biệt, BCT là nguyên nhân hàng đầu ở
nhóm bệnh nhân diễn tiến đến STMGĐC ở lứa
tuổi vẫn còn khả năng lao động (trước 41 tuổi)
(67%). Điều này tương tự như báo cáo của tác
giả Tsai TC và cộng sự tại Đài Loan(14). Với xu
hướng tuổi chạy thận đang dần trẻ hóa tại Việt
Nam hiện nay, việc xác định nguyên nhân gây
STMGĐC ở nhóm bệnh nhân này thực sự cần
thiết nhằm kiểm soát tình trạng bệnh. BCT nếu
được chẩn đoán sớm, tùy theo nguyên nhân, có
thể điều trị và theo dõi nhằm kéo dài thời gian
diễn tiến đến STMGĐC. Điều đáng lưu ý là đa
số bệnh nhân trong nghiên cứu sống tại khu vực
5.7%
6.4% 0.7%
Không nhiễm,
87.20%
Nhiễm SVVGB
Nhiễm SVVGC
Đồng nhiễm
Không nhiễm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 209
có trình độ kinh tế xã hội và y tế phát triển. Từ
đó cho thấy người dân còn chưa có thói quen đi
khám sức khỏe định kỳ nhằm phát hiện sớm
bệnh cũng như kiến thức về STMGĐC còn hạn
chế. Mặt khác, việc khảo sát chức năng thận có
thể cũng chưa được thực hiện thường qui, đặc
biệt ở các bệnh nhân trẻ tuổi tại một số cơ sở y tế.
Vấn đề nhiễm SVB và SVC là một trong
những mối quan tâm hàng đầu ở các bệnh nhân
điều trị CTNT. Nhiễm SVB và SVC ở các bệnh
nhân này thường không có triệu chứng lâm sàng
rõ rệt nhưng lại có nguy cơ cao diễn tiến đến
viêm gan mạn tính. Từ đó có thể đưa đến xơ gan
và ung thư gan. Điều này làm tăng chi phí điều
trị, giảm thời gian và chất lượng cuộc sống của
các bệnh nhân STMGĐC. Tuy nhiên, điều đáng
lưu ý là đáp ứng miễn dịch ở bệnh nhân CTNT
với các xét nghiệm kháng thể dùng cho việc tầm
soát SVB và SVC kém. Nghiên cứu gần đây cho
thấy tỷ lệ âm tính giả ở nhóm bệnh nhân này lên
tới 17,9%(6). Đây là một trở ngại lớn trong việc
tầm soát viên gan siêu vi ở các bệnh nhân CTNT.
Trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi sử dụng xét
nghiệm HCV‐coreAg để phát hiện sự hiện diện
của kháng nguyên lõi SVC với độ đặc hiệu đạt
99.8% cùng độ nhạy tương đương xét nghiệm
HCV‐RNA giúp làm giảm tỷ lệ âm tính giả(12).
Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ hiện mắc của SVB và
SVC lần lượt là 5,7% và 6,4%. Một bệnh nhân
(0,7%) dương tính với cả hai loại xét nghiệm tầm
soát viêm gan siêu vi. Tỷ lệ này nhìn chung thấp
hơn nhiều so với báo cáo của các tác giả khác
trong nước thời gian gần đây. Tại miền Nam,
năm 2011, tác giả Nguyễn Bách và cộng sự thực
hiện nghiên cứu trong thời gian 6 năm tại bệnh
viện Thống Nhất cho thấy tỷ lệ nhiễm SVB, SVC
và đồng nhiễm lần lượt là 4,89% (2,17 – 7,21%),
19,58% (12,37 – 15,22%), và 2,09% (1,01 –
3,26%)(11). Tại miền Bắc, tác giả Hà Phan Hải An
và cộng sự khảo sát tỷ lệ nhiễm SVC giai đoạn
2007 – 2011 là 33,5% tại bệnh viện Việt Đức(6).
Nghiên cứu khác tại miền Bắc cho thấy tỷ lệ
nhiễm SVB và/hoặc SVC là 64,9%, đồng nhiễm
chiếm tỷ lệ 5,5%(1). Sự khác biệt này có thể là do
việc thực hiện nghiêm ngặt qui trình chống
nhiễm khuẩn tại cơ sở nghiên cứu kể từ khi
thành lập cho đến nay. Bên cạnh phòng ngừa
phổ quát, chúng tôi thực hành không tái sử
dụng các thiết bị y tế dùng trong CTNT ngoại
trừ màng lọc, hạn chế sử dụng chung một lọ
thuốc (Heparin) cho nhiều bệnh nhân, tuân
thủ qui trình rửa máy sau chạy thận, rửa và bảo
quản màng lọc tái sử dụng. Mặc dù vậy, như đã
đề cập, sự khác biệt về loại xét nghiệm dùng tầm
soát bệnh cũng như qui mô của cơ sở lọc máu
cũng góp phần tạo nên sự khác biệt trên.
Tóm lại, để phòng ngừa STMGĐC, bên cạnh
việc kiểm soát tốt THA, ĐTĐ và BCT, phát hiện
sớm và điều trị dự phòng bệnh thận mạn, chúng
ta cần nâng cao kiến thức của người dân về bệnh
thận mạn cũng như ý thức về việc thăm khám
sức khỏe định kỳ. Mặt khác, các triệu chứng sớm
của các bệnh nguyên nhân cũng như của
STMGĐC cần được lưu ý tầm soát ở tất cả các
chuyên khoa.Bên cạnh đó, nghiên cứu về mức độ
tuân thủ qui trình chống nhiễm khuẩn tại các cơ
sở CTNT cần được tiến hành để có thể đánh giá
toàn diện hiệu quả của các biện pháp dự phòng
nhiễm SVB và SVC ở các bệnh nhân CTNT.
Hạn chế của nghiên cứu: do nghiên cứu
được thực hiện ở qui mô một khoa lâm sàng nên
cỡ mẫu còn khá nhỏ. Mặt khác, nguyên nhân
gây bệnh trong nghiên cứu được xác định dựa
vào bệnh sử và hồ sơ bệnh án. Do sinh thiết thận
là một kỹ thuật cao, xâm lấn và chưa được thực
hiện phổ biến tại Việt Nam, cho nên các bệnh
nhân đều không được thực hiện sinh thiết thận
để xác định nguyên nhân khi bệnh suy thận mạn
được chẩn đoán ở giai đoạn sớm. Mặt khác, một
số bệnh nhân đã vào giai đoạn cuối khi được
chẩn đoán bệnh.Việc sinh thiết thận lúc này
không giúp ích cho mục đích chẩn đoán nguyên
nhân.
Cảm ơn: chúng tôi chân thành cảm ơn các Bác
sĩ Nguyễn Thị Kim Phượng, Phạm Kiều Nguyệt
Oanh, Dương Bích Thủy, Bùi Ngọc Minh Tâm,
Nguyễn Triệu Vân, Nguyễn Trọng Khoa,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 210
Nguyễn Bảo Toàn và Dược sĩ Nguyễn Thanh
Tòng đã giúp hoàn thành nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Mạnh, Hoàng Trung Vinh, và Phùng Phương Thảo
(2013). Nghiên cứu tỉ lệ. đặc điểm nhiễm virus viêm gan B. C
ở bệnh nhân lọc máu chu kỳ và bệnh nhân sau ghép thận. Y
Hoc Việt Nam. 409. Tr. 398‐405.
2. Carneiro MA, Teles SA, Dias MA, Ferreira RC, Naghettine
AV, Silva SA, Lampe E, Yoshida CF, Martins RM(2005).
Decline of hepatitis C infection in hemodialysis patients in
Central Brazil: a ten years of surveillance. Mem Inst Oswaldo
Cruz. 100(4). pp. 345‐9.
3. CDC (1998). Recommendations for prevention and control of
hepatitis C virus (HCV) infection and HCV‐related chronic
disease. MMWR Recomm Rep. No 47. Pp. 1‐39.
4. Cendoroglo Neto M1, Draibe SA, Silva AE, Ferraz
ML, Granato C, Pereira CA, Sesso RC, Gaspar AM, Ajzen H
(1995). Incidence of and risk factors for hepatitis B virus and
hepatitis C virus infection among haemodialysis and CAPD
patients: evidence for environmental transmission. Nephrol
Dial Transplant. 10(2) 240‐6.
5. El‐Sherif A, Elbahrawy A, Aboelfotoh A, Abdelkarim
M, Saied Mohammad AG, Abdallah AM, Mostafa
S, Elmestikawy A, Elwassief A, Salah M, Abdelbaseer
MA,Abdelwahab KS (2012). High false‐negative rate of anti‐
HCV among Egyptian patients on regular hemodialysis.
Hemodial Int. 16(3) 420‐7.
6. Hà Phan Hải An, Nguyễn Mạnh Tưởng và Nguyễn Thị Thủy
(2013). Khảo sát tình hình nhiễm virus viêm gan C ở bệnh
nhân chạy thận nhân tạo chu kỳ tại bệnh viện Việt Đức. Y
Học Việt Nam. 409. Tr. 393‐398.
7. Ito J, Dung DT, Vuong MT, Tuyen do G, Vinh le D, Huong
NT, Ngoc TB, Ngoc NT, Hien MT, Hao DD, Oanh LT, Lieu do
T, Fujisawa M, Kawabata M, Shirakawa T(2008). Impact and
perspective on chronic kidney disease in an Asian developing
country: a large‐scale survey in North Vietnam. Nephron Clin
Pract.109(1)25‐32.
8. Lago RM, Singh PP, Nesto RW (2007). Diabetes and
hypertension. Nat Clin Pract End Met. 3(10).667‐667.
9. Morota K, Fujinami R, Kinukawa H, Machida T, Ohno
K, Saegusa H, Takeda K(2009). A new sensitive and
automated chemiluminescent microparticle immunoassay for
quantitative determination of hepatitis C virus core antigen. J
Virol Methods. 157(1)8‐14.
10. Naicker S (2013). End‐stage renal disease in Sub‐Saharan
Africa. Kidney Inter. Suppl. 3(2)161‐163.
11. Nguyễn Bách, Nguyễn Văn Tỉnh, cộng sự (2012). Một số đặc
điểm về dịch tễ học của nhiễm virus viêm gan siêu vi B. C ở
bệnh nhân lọc máu định kỳ. Y Học TP. Hồ Chí Minh. 16(3)77‐
83.
12. Pham Van Bui (2007). Dialysis in Vietnam. Peritoneal Dialysis
International. 27(4) 400‐404.
13. Sitprija V (2003). Nephrology in South East Asia: fact and
concept. Kidney Int Suppl. (83)S128‐30.
14. Tsai TC, Chen YC, Lo CW, Wang WS, Lo SS, Tang GJ, Thien
PF (2014). Incidence and renal survival of ESRD in the young
taiwanese population. Clin J Am Soc Nephrol. 9(2)302‐9.
15. Võ Tam (2004). Nghiên cứu tình hình và đặc điểm suy thận
mạn ở người trưởng thành trong một số vùng thuộc tỉnh
Thừa Thiên Huế. Luận án Tiến Sĩ. Nội khoa. Đại học Huế.
Tr.125.
16. Zoccali C, Kramer A, Jager KJ (2010). Chronic kidney disease
and end‐stage renal disease—a review produced to contribute
to the report ‘the status of health in the European union:
towards a healthier Europe. NDT Plus. 3(3)213‐224.
Ngày nhận bài báo: 27/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_nguyen_nhan_gay_suy_than_man_giai_doan_cuoi_va_ty_l.pdf