Khảo sát nhận thức, thái độ và thực hành báo cáo phản ứng có hại của thuốc của nhân viên y tế bệnh viện phụ sản trung ương

Tại Việt Nam, Hướng dẫn chi tiết về việc Giám sát và báo cáo ADR tại các cơ sở khám, chữa bệnh được Bộ Y tế ban hành năm 2013 theo quyết định số 1088/QĐ-BYT [1]. Tuy nhiên, thực trạng hoạt động báo cáo ADR tại bệnh viện vẫn còn nhiều hạn chế. Kết quả cho thấy, số NVYT đã từng làm báo cáo ADR thấp hơn nhiều so với số NVYT đã từng gặp ADR (139 so với 270). Con số thực tế có thể còn thấp hơn khi khảo sát trên báo cáo lưu trữ tại Trung tâm DI & ADR Quốc gia trong 2 năm (2012, 2013), chỉ có 40 NVYT tham gia báo cáo [3, 4]. Câu hỏi 8 và 9 trong bộ câu hỏi của chúng tôi tìm hiểu nguyên nhân không báo cáo và những khó khăn khi thực hiện báo cáo giúp phần nào làm sáng tỏ tỷ lệ. Theo đó, 3 nguyên nhân chính khiến NVYT không làm báo cáo ADR là phản ứng nhẹ không đáng để báo cáo, không biết cách báo cáo và không có sẵn mẫu báo cáo (tương ứng 46,5%, 44,0% và 37,6%). Kết quả trên tương tự với nghiên cứu thực hiện tại các Tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất khi 48% bác sỹ được hỏi không biết cách báo cáo ADR và 34% dược sỹ không báo cáo vì phản ứng đã được biết quá rõ [7]. Bên cạnh đó, khó xác định thuốc nghi ngờ và khó xác định mức độ nghiêm trọng của phản ứng được coi là 2 khó khăn lớn nhất khi làm báo cáo ADR (tương ứng 66,6% và 54,3%). Trên thực tế, việc bệnh nhân sử dụng nhiều thuốc cùng lúc với đặc tính dược lý, dược động học đa dạng cũng như mối quan hệ về thời gian giữa thời điểm dùng thuốc và thời điểm xuất hiện ADR đều gây phức tạp cho chẩn đoán ADR. Các giải pháp đề xuất đều được đa số NVYT đồng ý, trong đó tập trung vào nâng cao năng lực của NVYT trong thực hành báo cáo như đào tạo, tập huấn, trao đổi thông tin và phối hợp với dược sỹ lâm sàng, xây dựng hệ thống văn bản quy định.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 22 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát nhận thức, thái độ và thực hành báo cáo phản ứng có hại của thuốc của nhân viên y tế bệnh viện phụ sản trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2015 23 KHẢO SÁT NHẬN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH BÁO CÁO PHẢN ỨNG CÓ HẠI CỦA THUỐC CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƢƠNG Nguyễn Huy Tuấn*; Vũ Minh Duy** Nguyễn Phương Thúy**; Nguyễn Hoàng Anh** TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá nhận thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế (NVYT) Bệnh viện Phụ sản Trung -ơng (BV PSTW) đối với hoạt động báo cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR). Đối tượng: NVYT thuộc 14 khoa, phòng, trung tâm của bệnh viện. Phương pháp: mô tả cắt ngang, phỏng vấn thông qua một bộ câu hỏi tự điền. Kết quả: tỷ lệ phản hồi 80%. Đa số NVYT có kiến thức đúng về ADR và 91% cho rằng báo cáo ADR là một trong những hoạt động chuyên môn bắt buộc. 75% người trả lời đã từng gặp ADR, tuy nhiên, chỉ có 38% đã từng báo cáo ADR. Khó xác định thuốc và cho rằng phản ứng nhẹ là những nguyên nhân thường gặp mà NVYT không làm báo cáo. Kết luận: đa số NVYT có nhận thức và thái độ đúng đối với hoạt động báo cáo ADR. Bên cạnh đó, đã xác định được một số nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ thực hiện báo cáo chưa cao. * Từ khóa: Phản ứng có hại của thuốc; Nhân viên y tế; Nhận thức; Thái độ; Thực hành. Reporting Adverse Drug Reactions: Knowledge, Attitude and Practice of Medical Staff of the National Hospital of Obstetrics and Gynecology Summary Objective: To assess the knowledge, attitude and practice of medical staff working at the National Hospital of Obstetrics and Gynecology towards adverse drug reaction (ADR) reporting scheme. Subjects: Medical staff of 14 faculties, departments and centers of the hospital. Method: Cross- sectional and questionnaire-based study. Result: The overall response rate was 80%. Most of the respondents possessed good knowledge of ADR, and 91% of them agreed that ADR reporting was a part of their professional obligation. 75% of the respondents had observed ADRs in their practice, but only 38% of them had officially reported these cases. Unknown causal relationship between ADRs and drugs, minor ADR manifestations are common causes for this problem. Conclusion: Most of the medical staff had good knowledge and attitude towards ADR reporting scheme. In addition, some main reasons for under-reporting have been identified. * Key words: Adverse drug reactions; Medical staff; Attitude; Knowledge; Practice. ĐẶT VẤN ĐỀ Hệ thống báo cáo phản ứng có hại của thuốc đã được triển khai rộng rãi tại các cơ sở khám chữa bệnh ở nước ta. Tuy nhiên, tình trạng báo cáo thiếu và chất lượng báo cáo kém vẫn còn phổ biến [3, 4]. NVYT là người trực tiếp phát hiện và báo cáo ADR, * Bệnh viện Phụ sản Trung ương ** Trung tâm DI & ADR Quốc gia Người phản hồi (Corresponding): Nguyễn Huy Tuấn (nguyenhuytuan.ptsw@gmail.com) Ngày nhận bài: 30/01/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 16/03/2015 Ngày bài báo được đăng: 06/04/2015 TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2015 24 do đó quyết định số lượng và chất lượng báo cáo. Nghiên cứu thực hiện trên các nhóm NVYT khác nhau như bác sỹ, dược sỹ, điều dưỡng/hộ sinh/kỹ thuật viên (BS, DS, ĐD/HS/KTV) cho thấy nhận thức và thái độ của NVYT đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động báo cáo ADR [6, 7]. Bệnh viện Phụ sản Trung -ơng là bệnh viện tuyến cuối, chuyên ngành Sản Phụ khoa, hàng năm tiếp nhận và điều trị khoảng 500.000 lượt bệnh nhân. Xuất phát từ số lượng báo cáo ADR khiêm tốn, trong 2 năm đầu tham gia triển khai dự án “Hỗ trợ hệ thống y tế”, “Tăng cường các hoạt động Cảnh giác Dược”, bệnh viện đã trở thành một trong 10 bệnh viện có số báo cáo cao nhất cả nước [3, 4]. Trước sự chuyển biến tích cực đó, nghiên cứu được thực hiện nhằm: Tìm hiểu nhận thức, thái độ và thực hành của NVYT trong hoạt động báo cáo ADR và đề xuất một số giải pháp nhằm tiếp tục đẩy mạnh hoạt động này tại bệnh viện. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tƣợng nghiên cứu. Nghiªn cøu NVYT thuộc 14 khoa, phòng, trung tâm của Bệnh viện Phụ sản Trung -ơng tõ tháng 6 - 2013 đến 10 - 2013. 2. Phƣơng pháp nghiên cứu. Mô tả cắt ngang; thu thập thông tin thông qua một bộ câu hỏi tự điền. Bộ câu hỏi bao gồm câu hỏi có nhiều lựa chọn, câu hỏi có/không và câu hỏi thăm dò được xây dựng trên cơ sở một số nghiên cứu trước đó [2, 6]. Mục tiêu nghiên cứu, cách thức trả lời bộ câu hỏi được thông tin trước cho NVYT và đảm bảo bí mật cho người tham gia. * Chỉ tiêu nghiên cứu: - Đặc điểm đối tượng nghiên cứu. - Nhận thức về phản ứng có hại của thuốc. - Thái độ của NVYT đối với hoạt động báo cáo ADR. - Thực trạng thực hành báo cáo ADR tại bệnh viện. - Biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động báo cáo ADR. * Xử lý số liệu: thu thập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0 và Microsoft Excel 2010. Số liệu được biểu diễn dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn hoặc tỷ lệ %. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Tổng số bộ câu hỏi phát ra 449 và thu về 359 tương ứng với tỷ lệ 80,0%. 1. Đặc điểm đối tƣợng nghiên cứu. Bảng 1: CHỈ TIÊU n Tû lÖ (%) Lĩnh vực chuyên môn Bác sỹ 72 20,1 Dược sỹ 9 2,5 ĐD/HS/KTV 246 68,5 Không rõ thông tin 32 8,9 Giới tính Nam 40 11,1 Nữ 264 73,6 Không rõ thông tin 55 15,3 Thời gian công tác (năm) < 5 99 27,6 5 - 15 118 32,9 > 15 53 14,8 Không rõ thông tin 89 24,8 Tuổi Trung bình ± ®ộ lệch chuẩn [nhỏ nhất - lớn nhất] 33,4 ± 8,0 [21 - 66] TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2015 25 Đa số NVYT tham gia phỏng vấn là nữ (73,6%). ĐD/HS/KTV là đối tượng tham gia nhiều nhất (68,5%), bác sỹ (20,1%) và dược sỹ (2,5%). Đối tượng khảo sát có độ tuổi trung bình 33,4 với thời gian công tác chủ yếu < 15 năm. * Nhận thức của NVYT vÒ ADR: Nhận thức về độ an toàn của các loại thuốc lưu hành trên thị trường: 325 ng-êi (90,5%); nhận thức đúng về phản ứng có hại của thuốc: 293 ng-êi (81,6%); nhận thức về các thông tin tối thiểu cần điền trong mẫu báo cáo: 238 ng-êi (66,3%). 90,5% NVYT cho rằng không phải tất cả các loại thuốc lưu hành trên thị trường đều an toàn; 81,6% NVYT hiểu đầy đủ khái niệm về ADR theo định nghĩa của WHO. Tuy nhiên, chỉ 66,3% NVYT nhận thức đúng về các thông tin tối thiểu cần điền trong mẫu báo cáo bao gồm: thông tin về bệnh nhân, về ADR, thông tin về thuốc nghi ngờ gây ADR và thông tin về người và đơn vị báo cáo [1]. * Thái độ của NVYT đối với hoạt động báo cáo ADR: 91,4% NVYT cho rằng báo cáo ADR là một phần trách nhiệm trong thực hành chuyên môn của mình và báo cáo ADR là quan trọng (97,2%). * Thực trạng việc thực hiện báo cáo ADR: Hình 1: Tỷ lệ NVYT đã gặp ADR và tỷ lệ NVYT đã từng làm báo cáo ADR. 75,2% người trả lời đã từng gặp ADR, tuy nhiên, chỉ có 38,7% trong số đó đã từng làm báo cáo ADR. Tỷ lệ gặp ADR ở dược sỹ lâm sàng cao hơn ĐD/HS/KTV (77,8% so với 74%), nhưng tỷ lệ làm báo cáo lại thấp hơn (33,3% so với 37%). 0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100 Bác sĩ Dược sĩ ĐD/HS/KTV Tổng 91.7 77.8 74 75.2 51.4 33.3 37 38.7 Đã từng gặp ADR Đã từng báo cáo ADR TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2015 26 Bảng 3: Lý do NVYT không làm báo cáo ADR. LÝ DO KHÔNG LÀM BÁO CÁO ARD SỐ LƯỢNG (n = 359) TỶ LỆ (%) Việc báo cáo không ảnh hưởng đến phác đồ điều trị 106 29,5 Mất thời gian 89 24,8 Thiếu kinh phí 44 12,3 Phản ứng này đã được biết quá rõ 88 24,5 Không có sẵn mẫu báo cáo 135 37,6 Không biết cách báo cáo 158 44,0 Phản ứng nhẹ không đáng để báo cáo 167 46,5 Sợ bị quy kết trách nhiệm 89 24,8 Không biết 51 14,2 Những lý do NVYT không làm báo cáo ADR. Theo đó, phản ứng nhẹ không đáng để báo cáo, không biết cách báo cáo và không có sẵn mẫu báo cáo là 3 lý do chính với lần lượt 46,5%, 44,0%, 37,6% số người đồng ý. Phân tích những khó khăn NVYT gặp phải khi báo cáo ADR thu được kết quả như sau (tổng số bộ câu hỏi: n = 359): Khó xác định thuốc nghi ngờ: 239 (66,6%); không có thời gian: 89 (24,8%); mẫu báo cáo phức tạp: 72 (20,0%); khó xác định mức độ nghiêm trọng của ADR: 195 (54,3%); thiếu kiến thức lâm sàng: 99 (27,6%); không có khó khăn nào: 42 (11,7%). Hai khó khăn lớn nhất được NVYT lựa chọn là khó xác định thuốc nghi ngờ và khó xác định mức độ nghiêm trọng của phản ứng với tỷ lệ lần lượt là 66,6% và 54,3%. Bảng 4: Biện pháp nâng cao hoạt động báo cáo ADR. BIỆN PHÁP SỐ LƯỢNG (n = 359) Tû lÖ (%) Nâng cao nhận thức của NVYT thông qua đào tạo và tập huấn 339 94,4 Phối hợp với dược sỹ lâm sàng để hỗ trợ báo cáo ADR 317 88,3 Xây dựng cơ chế phản hồi thông tin thẩm định báo cáo ADR 301 83,8 Quy định bằng văn bản quy trình giám sát ADR 265 73,8 Hầu hết NVYT đồng ý với các phương án mà bộ câu hỏi đưa ra, trong đó, nâng cao nhận thức của NVYT thông qua đào tạo và tập huấn và phối hợp với dược sỹ lâm sàng để hỗ trợ báo cáo ADR là những biện pháp được quan tâm nhiều nhất (94,4% và 88,3%). TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2015 27 Bµn luËn 80% bộ câu hỏi phát ra cho NVYT của 14 khoa, phòng, trung tâm đã thu được câu trả lời. Chúng tôi lựa chọn hình thức phát bộ câu hỏi tại buổi giao ban khoa và thu lại sau khi NVYT hoàn thiện. Hình thức này sẽ giảm thiểu nguy cơ thất lạc khi gửi qua đường bưu điện hay nguy cơ giảm sự quan tâm của NVYT với hình thức gửi qua email đã được sử dụng trong một số nghiên cứu trước đó đây [5, 8]. Tuy nhiên, hình thức này không tránh khỏi hạn chế là làm giảm tính độc lập của đối tượng khảo sát. Phần lớn đối tượng tham gia khảo sát là ĐD/HS/KTV (68,5%), trong khi dược sỹ chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ (2,5%) nhưng đã bao gồm toàn bộ nhân lực của khoa dược. Bên cạnh đó, 73,6% NVYT tham gia trả lời bộ câu hỏi là nữ. Những đặc điểm trên phản ánh đúng cơ cấu nhân sự hiện nay của Bệnh viện Phụ sản Trung -ơng. Nhìn chung, NVYT của bệnh viện có nhận thức tốt về ADR, tuy nhiên > 30% NVYT vẫn chưa nắm được các thông tin tối thiểu cần điền trong mẫu báo cáo. Nghiên cứu tương tự tại Bệnh viện Nhi Trung ương thậm chí còn ghi nhận tỷ lệ cao hơn, 53% [2]. Việc NVYT không nắm được đầy đủ các thông tin cần điền trong báo cáo ADR sẽ dẫn đến tình trạng báo cáo thiếu thông tin, chất lượng kém và gây khó khăn trong việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa thuốc và ADR. Kết quả cho thấy, đa số NVYT đều cho rằng báo cáo ADR là một phần trong thực hành chuyên môn của mình, hiểu rõ tầm quan trọng của việc báo cáo ADR (tỷ lệ đồng ý trên 90%). Chỉ có 2,4% NVYT bỏ trống, không có trường hợp nào cho rằng việc báo cáo ADR là không quan trọng. Việc xác định công tác báo cáo ADR có vai trò quan trọng trong thực hành chuyên môn của NVYT, góp phần quan trọng nâng cao số lượng cũng như chất lượng báo cáo. Tại Việt Nam, Hướng dẫn chi tiết về việc Giám sát và báo cáo ADR tại các cơ sở khám, chữa bệnh được Bộ Y tế ban hành năm 2013 theo quyết định số 1088/QĐ-BYT [1]. Tuy nhiên, thực trạng hoạt động báo cáo ADR tại bệnh viện vẫn còn nhiều hạn chế. Kết quả cho thấy, số NVYT đã từng làm báo cáo ADR thấp hơn nhiều so với số NVYT đã từng gặp ADR (139 so với 270). Con số thực tế có thể còn thấp hơn khi khảo sát trên báo cáo lưu trữ tại Trung tâm DI & ADR Quốc gia trong 2 năm (2012, 2013), chỉ có 40 NVYT tham gia báo cáo [3, 4]. Câu hỏi 8 và 9 trong bộ câu hỏi của chúng tôi tìm hiểu nguyên nhân không báo cáo và những khó khăn khi thực hiện báo cáo giúp phần nào làm sáng tỏ tỷ lệ. Theo đó, 3 nguyên nhân chính khiến NVYT không làm báo cáo ADR là phản ứng nhẹ không đáng để báo cáo, không biết cách báo cáo và không có sẵn mẫu báo cáo (tương ứng 46,5%, 44,0% và 37,6%). Kết quả trên tương tự với nghiên cứu thực hiện tại các Tiểu Vương quốc Ả Rập thống nhất khi 48% bác sỹ được hỏi không biết cách báo cáo ADR và 34% dược sỹ không báo cáo vì phản ứng đã được biết quá rõ [7]. Bên cạnh đó, khó xác định thuốc nghi ngờ và khó xác định mức độ nghiêm trọng của phản ứng được coi là 2 khó khăn lớn nhất khi làm báo cáo ADR (tương ứng 66,6% và 54,3%). Trên thực tế, việc bệnh nhân sử dụng nhiều thuốc cùng lúc với đặc tính dược lý, dược động học đa dạng cũng TẠP CHÍ Y - DƯỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 4-2015 28 như mối quan hệ về thời gian giữa thời điểm dùng thuốc và thời điểm xuất hiện ADR đều gây phức tạp cho chẩn đoán ADR. Các giải pháp đề xuất đều được đa số NVYT đồng ý, trong đó tập trung vào nâng cao năng lực của NVYT trong thực hành báo cáo như đào tạo, tập huấn, trao đổi thông tin và phối hợp với dược sỹ lâm sàng, xây dựng hệ thống văn bản quy định. KÕt luËn Đa số NVYT tại bệnh viện có nhận thức và thái độ đúng đối với hoạt động báo cáo ADR. Tuy vậy, nhiều NVYT vẫn chưa nắm được các thông tin tối thiểu cần điền trong mẫu báo cáo, tỷ lệ NVYT làm báo cáo/NVYT gặp ADR còn chưa cao, gặp không ít khó khăn trong thực hành báo cáo. Việc đào tạo, tập huấn và thường xuyên trao đổi thông tin những biện pháp quan trọng mà NVYT đề xuất nhằm đẩy mạnh hoạt động Cảnh giác Dược tại bệnh viện. Tµi liÖu tham kh¶o 1. Bộ Y tế. Hướng dẫn hoạt động giám sát phản ứng có hại của thuốc (ADR) tại các cơ sở khám chữa bệnh. Ban hành kèm theo Quyết định số 1088 của Bộ trưởng Bộ Y tế. 2013. 2. Lại Quang Phương. Khảo sát tình hình báo cáo ADR trên bệnh nhi trong cơ sở dữ liệu Quốc gia và khảo sát nhận thức, thái độ của cán bộ y tế đối với hoạt động Cảnh giác Dược tại một bệnh viện chuyên khoa nhi. Khóa luận Tốt nghiệp Dược sỹ. Trường Đại học Dược Hà Nội. 2013. 3. Trung tâm DI & ADR Quốc gia. Tổng kết công tác báo cáo ADR năm 2012. 4. Trung tâm DI & ADR Quốc gia. Tổng kết công tác báo cáo ADR năm 2013. 5. Hasford J et al. Physicians’ knowledge and attitudes regarding the spontaneous reporting system for adverse drug reactions, Journal of Clinical Epidemiology. 2002, 55, pp.945-950. 6. Santosh KC et al. Attitudes among healthcare professionals to the reporting of adverse drug reactions in Nepal. BMC Pharmacology and Toxicity. 2013, 14, 16. 7. Sathvik BS et al. Adverse drug reaction monitoring and reporting: knowledge, attitude and belief of physicians & pharmacists of Ras Al Khaimah, United Arab Emirates (UAE), International Journal of Pharmaceutical sciences and research. 2014, Vol 5, Issue 2. 8. Willian D, Feely J. Underreporting of adverse drug reactions: attitudes of Irish doctors, Irish Journal of Medical Science. 1999, Vol 168, No 4.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_nhan_thuc_thai_do_va_thuc_hanh_bao_cao_phan_ung_co.pdf
Tài liệu liên quan