Như vậy, dựa vào kết quả trên, nhiệt
độ hồ hóa của mẫu nghiên cứu ở khoảng
trung bình, vì khi ở 40oC các hạt tinh bột
đã bắt đầu bị phá vỡ và khoảng 80oC thì bị
phá vỡ gần như hoàn toàn. Trong khi đó,
trong thí nghiệm mối tương quan giữa độ
nhớt và nhiệt độ, kết quả cho thấy, độ nhớt
và nhiệt độ hồ hóa của tinh bột tỉ lệ thuận
với nhau và khi nhiệt độ hồ hóa đạt đến
80oC thì độ nhớt đạt ngưỡng rất cao là
12,51cP (Bảng 2). Như đã đề cập đến ở
phần 3.2 về cơ sở của phương pháp xác
định và dự đoán khoảng nhiệt độ hồ hoá
tinh bột, vì thế khi dựa vào kết quả thu
được ở Bảng 2, chúng tôi kết luận rằng,
nhiệt độ hồ hóa của mẫu tinh bột từ củ của
loài A. opertus có giá trị trung bình từ lúc
diễn ra hồ hóa là khoảng từ 60 đến 70oC.
Vì ở khoảng nhiệt độ này, mật độ hạt và độ
nhớt có sự thay đổi lớn do sự phá vỡ cấu
trúc màng và trương nở của hạt tinh bột
giúp tạo thành dung dịch keo, có độ nhớt
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy hạt tinh
bột của loài A. lanceolatus có kích thước
trung bình khoảng 213,3 ± 0,05 µm, có
cấu trúc dạng tinh thể, dạng hình cầu hoặc
hình đa giác, các mặt của hạt tinh bột hợp
với nhau thành nhiều hình dạng khác nhau,
một số hạt có dạng tròn cạnh, nhiệt độ hồ
hóa tinh bột khoảng từ 50 đến 60oC. Trong
khi đó, hạt tinh bột A. opertus có kích
thước trung bình khoảng 319,33 ± 0,05
µm, có cấu trúc hình lập phương tâm khối,
các mặt của hạt tinh bột hợp với nhau
thành dạng chóp nhọn, một số hạt có dạng
tròn cạnh, nhiệt độ hồ hóa tinh bột khoảng
từ 60 đến 70oC.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát nhiệt độ hồ hoá và cấu trúc tinh bột từ củ của hai loài thuộc chi nưa (amorphophallus), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1842-1850
1842 Văn Hồng Thiện và cs.
KHẢO SÁT NHIỆT ĐỘ HỒ HOÁ VÀ CẤU TRÚC TINH BỘT TỪ CỦ
CỦA HAI LOÀI THUỘC CHI NƯA (Amorphophallus)
Trần Ngọc Bửu1, Trịnh Trần Tiến1, Võ Thị Như Trúc1, Nguyễn Ngọc Thuần1,
Lê Văn Sơn2, Lưu Hồng Trường3, Nguyễn Phi Ngà4, Văn Hồng Thiện1*
1Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh;
2Khu bảo tồn thiên nhiên Bình Châu - Phước Bửu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu;
3Viện Sinh thái học Miền Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam;
4Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
*Tác giả liên hệ: vanhongthien@iuh.edu.vn
Nhận bài:18/11/2019 Hoàn thành phản biện: 21/02/2020 Chấp nhận bài: 12/02/2020
TÓM TẮT
Amorphophallus lanceolatus và Amorphophallus opertus là hai loài hiếm thuộc họ Ráy
(Araceae) và được ghi nhận là những loài đặc hữu của Việt Nam. Trong nghiên cứu này, chúng tôi
khảo sát đặc điểm cấu trúc và nhiệt độ hồ hóa của tinh bột có trong củ của hai loài A. lanceolatus và
A. opertus. Bằng phương pháp đo độ nhớt ở các nhiệt độ khảo sát cũng như quan sát cấu trúc hạt tinh
bột bằng kính hiển vi quang học OLYMBUS BX53 (USA) dưới vật kính 100X kết hợp với phần mềm
OLYMBUS cellSens Standard đi kèm thiết bị. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hạt tinh bột của loài A.
lanceolatus có kích thước trung bình là 213,3 ± 0,05 µm, có dạng tinh thể hình cầu hoặc hình đa giác,
nhiệt độ hồ hóa là khoảng từ 50 đến 60oC. Trong khi đó, hạt tinh bột của loài A. opertus có kích thước
trung bình là 319,33 ± 0,05 µm, dạng hình lập phương tâm khối, nhiệt độ hồ hóa tinh bột khoảng từ
60 đến 70oC.
Từ khóa: A. lanceolatus, A. opertus, Araceae, Cấu trúc tinh bột, Nhiệt độ hồ hoá
A STUDY ON THE STRUCTURE AND GELATINIZATION TEMPERATURE OF
STARCH GRANULES FROM TUBERS OF TWO SPECIES OF GENUS
Amorphophallus
Tran Ngoc Buu1, Trinh Tran Tien1, Vo Thi Nhu Truc1, Nguyen Ngoc Thuan1,
Le Van Son2, Luu Hong Truong3, Nguyen Phi Nga4, Van Hong Thien1
1Industrial University of Ho Chi Minh City;
2Binh Chau-Phuoc Buu Nature Reserve, Ba Ria-Vung Tau Province;
3Southern Institute of Ecology, Vietnam Academy of Science and Technology;
4University of Science, Vietnam National University Ho Chi Minh City.
ABSTRACT
Amorphophallus lanceolatus and Amorphophallus opertus were rare members belonging to
Araceae family and were recorded as the endemic species of Vietnam. In this study, the structure and
gelatinization temperature of starch granules from tubers of two studied species were analysed using
microscope and viscosity measurement method. Consequently, the medium - size of A. lanceolatus
starch granule is 213,3 ± 0,05 µm, starch crystals are sphere or polygon; gelatinization temperature of
starch granule is from 50 to 60oC. The medium - size of A. opertus starch granule is 319,33 ± 0,05
µm, starch crystals are cube; gelatinization temperature of starch granule is from 60 to 70oC.
Keywords: A. lanceolatus, A. opertus, Araceae, Structure of starch granule, Gelatinization temperature
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1842-1850
1843
1. MỞ ĐẦU
Chi Nưa (Amorphophallus) là một
chi có số lượng loài lớn trong họ Ráy với
khoảng 200 loài trên thế giới và khoảng 30
loài ở Việt Nam (Phạm Hoàng Hộ, 2000;
Boyce và cs., 2012; Nguyen, 2017; Tran và
cs., 2017). Nhiều loài thuộc chi
Amorphophallus có phần củ được sử dụng
làm nguồn nguyên liệu để sản xuất bột
(Tran và cs., 2017). Nhiều nghiên cứu
trước đây đã cho thấy tính ứng dụng trong
thực phẩm và y học của một số loài trong
chi này. Điển hình, Singh và Wadhwa
(2014) đã cho thấy rằng, củ của loài A.
paeoniifolius có chứa hàm lượng đường,
tinh bột và nhiều loại khoáng chất cần
thiết. Ngoài ra dịch chiết methanol từ củ
của loài này còn có tác dụng giảm đau
cũng như kháng được nhiều chủng vi
khuẩn gram dương và âm. Gần đây, Tran
và cs. (2017) đã xác định 6 loài
Amorphophallus phân bố ở phía Bắc Việt
Nam gồm A. konjac, A. corrugatus, A.
krausei, A. yunnanensis, A. yuloensis và A.
paeoniifolius có hàm lượng glucomannan
trong tinh bột rất cao, một loại đường ít
năng lượng, có hàm lượng xơ cao và hấp
thu nước hiệu quả đã được ứng dụng trong
việc ăn kiêng.
A. lanceolatus và A. opertus là
những loài hiếm của họ Ráy, đã được ghi
nhận như là loài đặc hữu của Việt Nam và
mới được ghi nhận vùng phân bố ở Xuyên
Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũng như tỉnh
Đắk Lắk, Việt Nam (Hetterscheid, 1994;
Serebryany, 1995; Hetterscheid và
Claudel, 2012; Văn Hồng Thiện, 2017).
Cho đến thời điểm hiện tại, trên thế giới
ngoài các nghiên cứu về phân loại học thì
vẫn chưa có nghiên cứu nào cho thấy tính
chất để ứng dụng của loài A. lanceolatus
và A. opertus vào thực phẩm, dược liệu.
Gần đây, nhóm nghiên cứu của bài báo này
đã xác định được 12 hợp chất có trong cao
chiết ethanol từ củ loài A. lanceolatus gồm
polyethylene glycol-diglycidyl ether,
lycopersin, heptacosane, n-
heneicosylcyclopentane, homalomenol F,
maltitol, pyrinuron, octadecane, 2(1H)
naphthalenone, 3,5,6,7,8,8a-hexahydro-
4,8a-dimethyl-6-(1-methylethenyl), 2-
methylfluoranthene, quinic acid, 1H-
imidazole. Ngoài ra, cao chiết này còn có
khả năng kháng được các chủng vi khuẩn
như B. cereus, E. coli, P. aeruginosa, S.
enteritidis, S. typhimurium, and S. aureus
(Van và cs., 2019). Nhiệt độ hồ hóa và tính
chất dịch hóa của tinh bột có liên quan đến
chất lượng và chức năng của các sản phẩm
thực phẩm như bánh mì, bánh quy, mì
sợi,(Takahiro và cs., 2001; Baik và cs.,
2003; Vignaux và cs., 2005; Ragaee và
Abdel-Aal, 2006). Khi tinh bột đun ở nhiệt
độ cao thì amylopectin và amylose sẽ được
giải phóng, hàm lượng này liên quan đến
nhiệt độ hồ hoá khi củ được đun chín và
nhiều tính chất trong các ứng dụng công
nghiệp. Khả năng hồ hoá và độ nhớt của
tinh bột thể hiện sự mạnh, yếu của lực liên
kết giữa các phân tử tinh bột trong cấu trúc
hạt. Vì vậy, việc xử lý hoá học và vật lý
(gia nhiệt, xử lý bằng áp xuất hơi, thay đổi
pH, phương pháp DSC, siêu âm, quan sát
và chụp SEM,), sự có mặt của protein,
chất béo, chất hoạt động bề mặt đều gây
tác động ảnh hưởng đến tinh bột (Hoàng
Kim Anh và cs., 2005).
A. lanceolatus và A. opertus là hai
loài có hàm lượng tinh bột cao, tuy nhiên
chưa có một nghiên cứu nào trước đây cho
thấy đặc điểm về hình dạng và kích thước
cũng như tính chất về nhiệt độ hồ hoá và
độ nhớt của hai loài này. Chính vì vậy,
trong nghiên cứu này, bằng việc sử dụng
phương pháp cơ học để phá vỡ cấu trúc và
xử lý bằng cách gia nhiệt độ, chúng tôi tiến
hành khảo sát nhiệt độ hồ hóa cũng như
cấu trúc hạt tinh bột, từ đó cho thấy tiềm
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1842-1850
1844 Văn Hồng Thiện và cs.
năng ứng dụng của tinh bột thu được từ hai
loài nghiên cứu vào thực tiễn trong tương
lai.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.1.1 Mẫu thực vật
Mẫu của hai loài A. lanceolatus và
A. opertus được thu tại Khu bảo tồn thiên
nhiên Bình Châu - Phước Bửu, xã Bưng
Riềng, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu, ở vị trí tọa độ tương ứng là tọa
độ 10032’53”N; 107030’39”E và
10030’42”N; 107029’28”E, ngày 21 tháng
11 năm 2018, độ cao khoảng 41 m so với
mực nước biển (Hình 1).
2.1.2. Mẫu đối chứng
Mẫu tinh bột gạo, khoai tây trong
việc so sánh với hạt tinh bột của hai loài
nghiên cứu được xem là mẫu đối chứng.
Trong đó, mẫu gạo Hạt ngọc trời của tập
đoàn Lộc Trời, tiền thân là Công ty Cổ
phần Bảo vệ thực vật An Giang và mẫu
khoai tây đều được mua từ nhà phân
phối bán lẻ Bách hoá Xanh ở phường
Bến Thành, quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh đạt tiêu chuẩn về chất lượng và an
toàn sinh học để tiến hành các thí nghiệm
đối chứng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Chuẩn bị mẫu
Củ tươi, rửa sạch, gọt bỏ phần vỏ,
bào mỏng, sấy khô đối lưu ở nhiệt độ 45
đến 500C đến khi độ ẩm đạt 6,2% tiến hành
nghiền thành bột đến kích thước hạt 20
mesh.
2.2.2. Phương pháp thu tinh bột
Cân 25 g bột mẫu, hòa với 250 ml
nước cất vô trùng. Tiến hành xay, giã
nhuyễn để phá vỡ cấu trúc thành tế bào,
giải phóng tinh bột, loại bỏ phần dịch nổi
phía trên. Tiếp tục cho 100 ml nước cất và
thực hiện tương tự khoảng 5 đến 7 lần để
thu được lượng cặn lắng phía dưới có màu
trắng, ly tâm lạnh cặn lắng tốc độ 3000
vòng/phút trong thời gian 5 phút để loại bỏ
tạp chất, phần còn lại thu được chính là
tinh bột thô. Việc thu tinh bột trong mẫu
đối chứng thực hiện tương tự (Hoàng Kim
Anh và cs., 2005).
2.2.3. Phương pháp quan sát cấu trúc và
xác định kích thước, mật độ tinh bột
Cấu trúc, kích thước hạt tinh bột
được quan sát và chụp lại dưới kính hiển vi
quang học OLYMBUS BX53 (Mỹ) dưới
vật kính 100X kết hợp với phần mềm đi
kèm thiết bị OLYMBUS cellSens Standard
ở Phòng nghiên cứu sinh học, Viện Công
nghệ Sinh học & Thực phẩm, Đại học
Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh.
Phần mềm OLYMBUS cellSens Standard
cho phép xác định được chính xác kích
thước hạt tinh bột đến đơn vị vài µm,
ngoài ra căn cứ vào hình ảnh quét được có
thể đếm và dự đoán được mật độ hạt tinh
bột ở đơn vị diện tích mm2 ở điều kiện
Hình 1. Loài A. opertus: (A) cây ngoài thực
địa, (B) củ và hoa. Loài A. lanceolatus: (C)
cây ngoài thực địa, (D) củ.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1842-1850
1845
đồng nhất mẫu và nồng độ pha loãng thập
phân là 10-1.
2.2.4. Phương pháp khảo sát nhiệt độ hồ
hóa của tinh bột
Nhiệt độ có tác động ảnh hưởng lớn
đến cấu trúc tinh bột, còn được gọi là
phương pháp làm biến tính tinh bột. Khi
tác dụng nhiệt, lớp màng ngoài hạt tinh bột
bị phá vỡ, có thể quan sát được các rãnh
tạo cấu trúc xốp hạt. Các lỗ xốp này được
hình thành thông qua các rãnh vô định hình
kéo dài từ bề mặt tới tâm của hạt. Chính vì
vậy, nước từ bên ngoài đi được vào bên
trong làm trương nở tinh bột, đồng thời
phá vỡ các liên kết hydro giữa các phân tử
trong cấu trúc tinh thể, tạo điều kiện cho
tác dụng phân huỷ enzyme, giải phóng
amylosepectin và amylose gây cho môi
trường xung quanh có một độ nhớt nhất
định. Ở mỗi khoảng nhiệt độ khác nhau sẽ
duy trì độ nhớt khác nhau, do khả năng phá
vỡ cấu trúc và giải phóng amylosepectin và
amylose. (Hoàng Kim Anh và cs., 2005).
Ở nghiên cứu này, tiến hành cân 1 g tinh
bột cho vào 20ml nước cất vô trùng sau đó
đun ở các nhiệt độ từ 40 đến 80oC với
bước nhảy là 10oC. Mỗi mẫu tinh bột sẽ
khảo sát 5 thí nghiệm, mỗi thí nghiệm lặp
lại 3 lần, các mẫu sau khi đun sẽ được giữ
trong bể ổn nhiệt 20 phút để cho quá trình
hồ hóa được diễn ra. Cho mẫu vào lam
kính, quan sát dưới kính hiển vi dưới vật
kính 100x để quan sát sự hồ hóa của tinh
bột, từ đó xác định nhiệt độ hồ hóa ứng với
mỗi loại. Ghi nhận độ nhớt bằng máy đo
độ nhớt tự động (model HBDV-III U hãng
sản xuất Brookfield (Mỹ), sử dụng spindle
s61, tốc độ quay 100 vòng/phút).
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu
Phân tích thống kê được thực hiện
bằng phần mềm Statgraphics Centurion
XVI (Statpoint Technologies Inc.,
Warrenton, Virginia, USA). Dữ liệu được
trình bày dưới dạng trung bình ± sai số
chuẩn của giá trị trung bình.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả khảo sát cấu trúc tinh bột
Hình 2 cho thấy, hạt tinh bột của
loài A. lanceolatus (Hình 2A) có sự khác
biệt so với tinh bột khoai tây và gạo. Về
hình dạng, hạt tinh bột khoai tây có bản
chất là tinh thể dạng hình dẹt, tạo một tâm
hình xoắn ốc trên bề mặt quanh một điểm
gọi là rốn hạt; hạt tinh bột gạo có hình đa
giác, một số có dạng hình tròn, gần đúng
với mô tả của (Soest và cs.,1995; Cleven
và cs., 1978; Han và Hamaker, 2001).
Trong khi đó, hạt tinh bột của loài A.
lanceolatus có dạng hình cầu hoặc hình đa
giác, các mặt của hạt tinh bột hợp với nhau
thành nhiều hình dạng khác nhau, một số
hạt có dạng tròn cạnh, cho thấy hạt tinh
bột A. lanceolatus có sự đa dạng về cấu
trúc. Về kích thước, hạt tinh bột của loài
A. lanceolatus có kích thước trung bình
khoảng 213,30 ± 0,07 µm, lớn hơn nhiều
so với hạt tinh bột gạo (khoảng 63,77 ±
0,05 µm) và nhỏ hơn hạt tinh bộ khoai tây
(khoảng 1009,64 ± 0,12 µm) (Hình 2).
Hình 2. Hình dạng và cấu trúc hạt tinh bột. (A) A. lanceolatus, (B) Khoai tây, (C) Gạo
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1842-1850
1846 Văn Hồng Thiện và cs.
Hình 3 cho thấy, hạt tinh bột của
loài A. opertus (Hình 3A) có sự khác biệt
so với tinh bột khoai tây và gạo. Về hình
dạng, hạt tinh bột khoai tây có bản chất là
tinh thể dạng hình dẹt, tạo một tâm hình
xoắn ốc trên bề mặt quanh một điểm gọi là
rốn hạt; hạt tinh bột gạo có hình đa giác,
một số có dạng hình tròn (Soest và
cs.,1995; Cleven và cs., 1978; Han và
Hamaker, 2001). Trong khi đó, hạt tinh
bột của loài A. opertus có dạng hình lập
phương tâm khối, các mặt của hạt tinh bột
hợp với nhau thành dạng chóp nhọn, một
số hạt có dạng tròn cạnh, cho thấy hạt tinh
bột A. opertus có sự đa dạng về cấu trúc.
Về kích thước, hạt tinh bột của loài A.
opertus có kích thước trung bình khoảng
319,33 ± 0,05 µm, lớn hơn rất nhiều so
với hạt tinh bột gạo (khoảng 63,77 ± 0,05
µm) và nhỏ hơn hạt tinh bột khoai tây
(khoảng 1009,64 ± 0,12 µm) (Hình 3).
Hình 3. Hình dạng và cấu trúc hạt tinh bột. (A) A. opertus, (B) Khoai tây, (C) Gạo
Khi so sánh kích thước trung bình
hạt tinh bột giữa hai loài nghiên cứu, hạt
tinh bột loài A. lanceolatus có kích thước
nhỏ hơn so với tinh bột A. opertus khoảng
1,5 lần (213,3 ± 0,05 µm so với 319,33 ±
0,05 µm). Cấu trúc hạt giữa hai loài có
nhiều khác biệt, các hạt tinh bột A. opertus
tương đối đồng nhất về hình dạng và kích
thước, còn hạt tinh bột A. lanceolatus
mảnh và mật độ dày đặc hơn. Kết quả
nghiên cứu này lần đầu tiên cung cấp
những dữ liệu về hình thái và đặc điểm
của hạt tinh bột, có ý nghĩa lớn trong việc
thực hiện các nghiên cứu tiếp theo để mở
ra hướng ứng dụng mới từ tinh bột của hai
loài này vào thực phẩm, dược liệu.
3.2. Kết quả khảo sát nhiệt độ hồ hóa
tinh bột của loài A. lanceolatus
Dựa vào bảng kết quả thu được
(Bảng 1), ở 40oC, hạt tinh bột đã bắt đầu
ngậm nước, sau đó trương nở và quá trình
hồ hóa bắt đầu diễn ra (Hình 4B), số lượng
tinh bột bị hồ hóa ở nhiệt độ này giảm đi
một nửa, do những hạt tinh bột có kích
thước lớn sẽ bị phá vỡ trước do các dây nối
hydro bị đứt (Hoàng Kim Anh và cs.,
2005; Đàm Sao Mai và cs., 2012), hạt tinh
bột có sự thay đổi về hình dạng, mật độ hạt
là khoảng 282 hạt/mm2. Khi tăng nhiệt độ
đến 50oC, sự hồ hóa diễn ra nhanh hơn và
mật độ giảm rõ rệt (Hình 4C). Ở 60oC, các
amylosepectin và amylose được giải phóng
do màng tế bào bị phá vỡ, điển hình ở
Hình 4D, màng tế bào không còn giữ được
hình dạng cấu trúc ban đầu, chỉ còn vài hạt
trương nở. Ở nhiệt độ 70oC, màng tế bào
không còn được quan sát rõ, amylose và
amylopectin được giải phóng nhiều, không
còn thấy cấu trúc hạt tinh bột (Hình 4E).
Khi đạt 80oC quá trình hồ hóa diễn ra hoàn
toàn, không còn xuất hiện cấu trúc hạt tinh
bột (Hình 4F).
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1842-1850
1847
Bảng 1. Kích thước và mật độ hạt tinh bột củ A. lanceolatus khi tiến hành khảo sát
theo độ tăng nhiệt độ
*Căn cứ vào diện tích lam kính cố định và số hạt tinh bột đếm được trên diện tích quan sát từ đầu
quét kính hiển vi, đã dự đoán được số mật độ hạt tinh bột trên đơn vị diện tích mm2
Như vậy, dựa vào kết quả trên, nhiệt
độ hồ hóa của mẫu nghiên cứu ở khoảng
trung bình thấp, vì khi ở 40oC các hạt tinh
bột đã bắt đầu bị phá vỡ và bị phá vỡ gần
như hoàn toàn khoảng 70oC. Trong thí
nghiệm mối tương quan giữa độ nhớt và
nhiệt độ, kết quả cho thấy độ nhớt và nhiệt
độ hồ hóa của tinh bột tỉ lệ thuận với nhau
và khi nhiệt độ hồ hóa đạt đến 80oC, độ
nhớt đạt ngưỡng rất cao là 14,73 cP (Bảng
1). Nhiệt độ để phá vỡ hạt tinh bột chuyển
từ trạng thái đầu có mức oxi hoá khác nhau
thành dung dịch keo được gọi là nhiệt độ
hồ hoá. Trong quá trình hồ hoá diễn ra,
một loạt các biến đổi hoá lí từ lúc hạt tinh
bột bắt đầu trương nở lên, tăng độ trong
suốt và độ nhớt, các phân tử mạch thẳng và
nhỏ được hoà tan và sau đó liên kết với
nhau tạo thành gel. Nhiệt độ hồ hoá là một
khoảng nhiệt độ nhất định, được xác định
từ lúc độ nhớt có sự tăng đột ngột và số
lượng hạt tinh bột bị phá vỡ nhiều đáng kể.
Giá trị về nhiệt độ hồ hoá mang tính chất
dự đoán về đặc tính hoá lý của tinh bột, tuỳ
vào điều kiện hồ hoá như nhiệt độ, nguồn
gốc tinh bột, kích thước hạt, pH mà nhiệt
độ phá vỡ và trương nở của tinh bột có thể
biến đổi rộng hơn. Chính vì vậy, dựa vào
kết quả thu được ở Bảng 1, chúng tôi kết
luận rằng, nhiệt độ hồ hóa của mẫu tinh bột
từ củ của loài A. lanceolatus có giá trị
trung bình từ lúc diễn ra hồ hóa là khoảng
từ 50 đến 60oC. Vì ở khoảng nhiệt độ này,
mật độ hạt và độ nhớt có sự thay đổi lớn
do sự phá vỡ cấu trúc màng và trương nở
của hạt tinh bột giúp tạo thành dung dịch
keo, có độ nhớt cao. Khi tiến hành so sánh
với các nguồn tinh bột khác, nhiệt độ hồ
hóa của mẫu nghiên cứu thấp hơn ngô, đậu
đỗ, khoai tây, khoai lang, lúa mì, đại
mạch, nếu tính từ lúc bắt đầu hồ hóa là
50oC (Đàm Sao Mai và cs., 2012). Đặc biệt
là nhiệt độ hồ hóa của mẫu nghiên cứu
thấp hơn so với yến mạch vốn là một ngũ
cốc được sử dụng rất phổ biến trong việc
ăn kiêng (Đàm Sao Mai và cs., 2012). Như
vậy, có thể thấy rằng, tinh bột từ củ của
loài A. lanceolatus rất có tiềm năng trong
việc bổ sung làm thực phẩm giảm cân dành
cho người ăn kiêng. Ngoài ra, với khoảng
nhiệt độ hồ hóa này sẽ lý tưởng cho việc
ứng dụng vào lĩnh vực công nghệ thực
phẩm làm phụ gia như chất độn, tạo cấu
trúc gel trong sản xuất bánh kẹo, nhũ hóa,
ổn định, lựa chọn được công nghệ chế biến
phù hợp khi ứng dụng thực phẩm. (Đàm
Sao Mai và cs., 2012).
Nhiệt độ khảo sát
(oC)
Kích thước (µm) Mật độ hạt*
(hạt/mm2)
Độ nhớt
(cP) Lớn nhất Nhỏ nhất
Chưa đun (23) 369,43 ± 0,14 57,17 ± 0,10 547 0,23
40 343,04 ± 0,11 80,63 ± 0,12 282 4,53
50 252,15 ± 0,07 161,26 ± 0,07 46 6,82
60 791,64 ± 0,18 180,32 ± 0,05 12 8,14
70 - - - 12,46
80 - - - 14,73
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1842-1850
1848 Văn Hồng Thiện và cs.
3.3. Kết quả khảo sát nhiệt độ hồ hóa
tinh bột của loài A. opertus
Dựa vào bảng kết quả thu được
(Bảng 2), ở 40oC hạt tinh bột đã bắt đầu
ngậm nước, sau đó trương nở và quá trình
hồ hóa bắt đầu diễn ra (Hình 5B). Tuy
nhiên, do những hạt tinh bột có kích thước
lớn sẽ bị phá vỡ trước do các liên kết
hydro bị đứt vì vậy số lượng tinh bột bị hồ
hóa ở nhiệt độ này còn ít, (Hoàng Kim
Anh và cs., 2005; Đàm Sao Mai và cs.,
2012). Ở nhiệt độ 40oC này, hạt tinh bột có
sự thay đổi về hình dạng, mật độ hạt là 89
hạt/mm2. Khi tăng nhiệt độ đến 50oC, sự
hồ hóa diễn ra nhanh hơn và mật độ giảm
rõ rệt (Hình 5C). Ở 60oC (Hình 5D), các
chất được giải phóng do màng tế bào bị
phá vỡ, màng tế bào không còn giữ được
hình dạng cấu trúc ban đầu, chỉ còn vài hạt
trương nở, kích thước tăng dần, lên đến
1221,18 ± 0,12 µm. Ở nhiệt độ 70oC,
màng tế bào không còn được quan sát rõ,
amylose và amylopectin được giải phóng
nhiều, khi đạt 80oC quá trình hồ hóa diễn
ra hoàn toàn, không còn xuất hiện cấu trúc
hạt tinh bột.
Bảng 2. Kích thước và mật độ hạt tinh bột củ A. opertus khi tiến hành khảo sát theo độ tăng nhiệt độ
Nhiệt độ khảo sát
(oC)
Kích thước (µm) Mật độ hạt*
(hạt/mm2)
Độ nhớt
(cP)
Lớn nhất Nhỏ nhất
Chưa đun (23) 1345,79 ± 0,15 118,75 ± 0,06 207 0,18
40 1222,64 ± 0,12 281,47 ± 0,10 89 2,87
50 1178,66 ± 0,10 180,32 ± 0,08 43 5,40
60 1221,18 ± 0,12 341,58 ± 0,12 14 6,72
70 2408,64 ± 0,17 656,77 ± 0,15 5 8,58
80 - - - 12,51
*Căn cứ vào diện tích lam kính cố định và số hạt tinh bột đếm được trên diện tích quan sát từ đầu
quét kính hiển vi, đã dự đoán được số mật độ hạt tinh bột trên đơn vị diện tích mm2
Như vậy, dựa vào kết quả trên, nhiệt
độ hồ hóa của mẫu nghiên cứu ở khoảng
trung bình, vì khi ở 40oC các hạt tinh bột
đã bắt đầu bị phá vỡ và khoảng 80oC thì bị
phá vỡ gần như hoàn toàn. Trong khi đó,
trong thí nghiệm mối tương quan giữa độ
nhớt và nhiệt độ, kết quả cho thấy, độ nhớt
và nhiệt độ hồ hóa của tinh bột tỉ lệ thuận
với nhau và khi nhiệt độ hồ hóa đạt đến
80oC thì độ nhớt đạt ngưỡng rất cao là
12,51cP (Bảng 2). Như đã đề cập đến ở
phần 3.2 về cơ sở của phương pháp xác
định và dự đoán khoảng nhiệt độ hồ hoá
tinh bột, vì thế khi dựa vào kết quả thu
được ở Bảng 2, chúng tôi kết luận rằng,
nhiệt độ hồ hóa của mẫu tinh bột từ củ của
loài A. opertus có giá trị trung bình từ lúc
diễn ra hồ hóa là khoảng từ 60 đến 70oC.
Vì ở khoảng nhiệt độ này, mật độ hạt và độ
nhớt có sự thay đổi lớn do sự phá vỡ cấu
trúc màng và trương nở của hạt tinh bột
giúp tạo thành dung dịch keo, có độ nhớt
Hình 4. Trạng thái cấu trúc tinh bột theo độ
tăng nhiệt độ của A. lanceolatus.
(A) Ban đầu, (B) 40oC, (C) 50oC, (D)
60oC, (E) 70oC, (F) 80oC
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(2)-2020:1842-1850
1849
cao. Khi tiến hành so sánh với các nguồn
tinh bột khác, nhiệt độ hồ hóa của mẫu
nghiên cứu thấp hơn ngô, lúa, đậu đỗ,
khoai tây, khoai lang, đại mạch nếu tính từ
lúc bắt đầu hồ hóa là 45oC (Đàm Sao Mai
và cs., 2012). Như vậy, có thể thấy rằng,
tinh bột từ củ của loài A. opertus rất có
tiềm năng trong việc bổ sung làm thực
phẩm giảm cân dành cho người ăn kiêng.
Ngoài ra, với khoảng nhiệt độ hồ hóa này
sẽ lý tưởng cho việc ứng dụng vào lĩnh vực
công nghệ thực phẩm làm phụ gia như chất
độn, tạo cấu trúc gel trong sản xuất bánh
kẹo, nhũ hóa, ổn định, lựa chọn được công
nghệ chế biến phù hợp khi ứng dụng thực
phẩm. (Đàm Sao Mai và cs., 2012).
Hình 5. Trạng thái cấu trúc tinh bột theo độ tăng nhiệt độ của A. opertus.
(A) Ban đầu, (B) 40oC, (C) 50oC, (D) 60oC, (E) 70oC, (F) 80oC
4. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy hạt tinh
bột của loài A. lanceolatus có kích thước
trung bình khoảng 213,3 ± 0,05 µm, có
cấu trúc dạng tinh thể, dạng hình cầu hoặc
hình đa giác, các mặt của hạt tinh bột hợp
với nhau thành nhiều hình dạng khác nhau,
một số hạt có dạng tròn cạnh, nhiệt độ hồ
hóa tinh bột khoảng từ 50 đến 60oC. Trong
khi đó, hạt tinh bột A. opertus có kích
thước trung bình khoảng 319,33 ± 0,05
µm, có cấu trúc hình lập phương tâm khối,
các mặt của hạt tinh bột hợp với nhau
thành dạng chóp nhọn, một số hạt có dạng
tròn cạnh, nhiệt độ hồ hóa tinh bột khoảng
từ 60 đến 70oC.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
Đàm Sao Mai, Nguyễn Thị Hoàng Yến và Bùi
Đặng Khuê. (2012). Phụ gia thực phẩm.
Nhà xuất bản Đại học quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh, 374-383.
Hoàng Kim Anh, Ngô Kế Sương và Nguyễn
Xích Liên. (2005). Tinh bột sắn và các sản
phầm từ tinh bột sắn. Hà Nội: Nhà xuất bản
khoa học và kĩ thuật, 102-103.
Phạm Hoàng Hộ. (2000). “Araceae”, Cây cỏ
Việt Nam, Tập 3. Thành phố Hồ Chí Minh:
Nhà xuất bản Trẻ, 356-363.
Văn Hồng Thiện, Lê Văn Sơn, Lê Văn Khanh,
Nguyễn Đăng Quang, Bùi Quốc Vương và
Bùi Trọng Thuấn. (2018). Một số kết quả
điều tra về thành phần loài thuộc họ Ráy
(Araceae) ở khu Bảo tồn Thiên nhiên Bình
Châu – Phước Bửu. Chuyên san thông tin
khoa học công nghệ, Sở Khoa học và Công
nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu.
Văn Hồng Thiện. (2017). Xây dựng cây phả hệ
cho họ Ráy (Araceae) ở khu vực phía Nam
Việt Nam dựa trên hình thái và marker phân
tử, Luận án tiến sĩ Sinh học, Học viện khoa
học và Công nghệ, Viện Hàn lâm khoa học
và Công nghệ Việt Nam.
2. Tài liệu tiếng nước ngoài
Baik, B. K., Park, C. S., Paszczynska, B., &
Konzak, C. F. (2003). Characteristics of
Noodles and Bread Prepared from Double-
Null Partial Waxy Wheat. Cereal
Chemistry, (80), 627- 633.
Boyce, P. C., Sookchaloem, D., Hetterscheid,
W.L.A., Gusman, G., Jacobsen, N., Idei, T.,
& Nguyen, V. D. (2012). Araceae. The
Flora of Thailand, (11), 130-186.
Cleven, R., Berg, C. V. D., & Plas, L. V. D.
(1978). Crystal Structure of Hydrated
Potato Starch. Starch, (30), 223-228.
Han, X. Z., & Hamaker, B. R. (2001).
Amylopectin Fine Structure and Rice
Starch Paste Breakdown. Journal of Cereal
Science, (34), 279-284.
Hetterscheid, W. L. A. (1994). Notes on the
genus Amorphophallus (Araceae) 2: New
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(2)-2020:1842-1850
1850 Văn Hồng Thiện và cs.
species from tropical Asia, Blumea, (39),
237-281.
Hetterscheid, W. L. A., & Claudel, C. (2012).
The End of Pseudodracontium N. E. Br.,
Aroideana, (35), 40-46.
Nguyen, V. D. (2017). Flora of Vietnam -
Araceae Juss. Publishing House for Sciense
and Technology, (16), 192-241.
Ragaee, S., & Abdel-Aal, E. S. M. (2006).
Pasting properties of starch and protein in
selected cereals and quality of their food
products. Food Chemistry, (95), 9-18.
Serebryanyi, M. M. (1995). Taxonomic
revision of Pseudodracontium (Araceae-
Aroideae- Thomsonieae), Blumea, (40),
217-235.
Singh, A., & Wadhwa, N. A. (2014). Review
on Multiple Potential of Aroid:
Amorphophallus paeoniifolius.
International Journal of Pharmeceutical
Sciences Review and Research, (24), 55-60.
Soest, J. J. G. V., Tournois, H., Wit, D., &
Vliegenthart, J. F. G. (1995). Short-range
structure in (partially) crystalline potato
starch determined with attenuated total
reflectance Fourier-transform IR
spectroscopy. Carbohydrate Research,
(279), 201-214.
Takahiro, N., Takuji, T., Shozo, T., & Ikuo, S.
(2001). Relationship Between
Physicochemical Properties of Starches and
White Salted Noodle Quality in Japanese
Wheat Flours. Cereal Chemistry, (78), 395-
399.
Tran, V. T., Ha, V. H., Nguyen, M. Q., &
Nguyen, V. D. (2017). Research component
and distribution of species Amorphophallus
spp. With tubers containing glucomannan
in the Northern mountain Provinces of
Vietnam. Management of Forest Resources
and Environment, (5), 118-125.
Van, H. T., Tran, N. B., Trinh, T. T., Vo, T. N.
T., Le, V. S., Pham, T. V., Tran, G. B., &
Le, T. Q. P. (2019). Phytochemical
composition and antibacterial activity of
ethanol extract of Amorphophallus
lanceolatus tuber (Araceae). Banats
Journal of Biotechnology, (10), 5-12.
Vignaux, N., Doehlert, D. C., Elias, E. M.,
McMullen, M. S., Grant, L. A., & Kianian,
S. F. (2005). Quality of Spaghetti Made
from Full and Partial Waxy Durum Wheat.
Cereal Chemistry, (82), 93-100.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_nhiet_do_ho_hoa_va_cau_truc_tinh_bot_tu_cu_cua_hai.pdf