Khảo sát sự thay đổi nồng độ kẽm huyết thanh của bệnh nhân viêm da cơ địa trẻ em tại bệnh viện Da liễu trung ương

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có sự khác biệt giữa nồng độ kẽm với giai đoạn bệnh hoặc tuổi khởi phát của bệnh và tuổi bệnh nhân. Nồng độ kẽm trung bình của nhóm VDCĐ là 0,67 ± 0,11 mg/L, của nhóm chứng là 0,61 ± 0,13 mg/L với sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu ở Irắc trên 101 bệnh nhân VDCĐ 3-65 tuổi và nghiên cứu của Hinks L.J [4,5] nhưng lại khác biệt so với nghiên cứu của T.J.David thực hiện trên 65 trẻ em viêm da cơ địa khi cùng sử dụng phương pháp quang phổ hấp thu nguyên tử [6]. Kết quả các nghiên cứu còn chưa thống nhất vì có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ kẽm huyết thanh mà khó kiểm soát được như: stress, sự thay đổi hormone, tình trạng nhiễm trùng, mức độ tăng trưởng [7]. Hiện nay, một số tác giả đo nồng độ kẽm trong hồng cầu để đánh giá chính xác hơn tình trạng thiếu kẽm và thấy rằng nồng độ kẽm trong hồng cầu ở nhóm VDCĐ thấp hơn so với nhóm chứng [8,9]. Trong nghiên cứu không thấy sự liên quan giữa nồng độ kẽm huyết thanh và mức độ nặng của bệnh. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Ercan Karabacak trên 67 bệnh nhân VDCĐ [8]. Toyran và cộng sự khi nghiên cứu trên 92 trẻ em VDCĐ cũng không thấy mối liên quan giữa nồng độ kẽm trong hồng cầu với mức độ nặng của bệnh [9]. Tuy nhiên nghiên cứu của Ercan Karabacak lại cho thấy mức độ nặng của bệnh không có sự liên quan giữa nồng độ kẽm huyết thanh nhưng có mối liên quan với nồng độ kẽm trong hồng cầu. Cùng đo nồng độ kẽm trong hồng cầu nhưng sự khác biệt này được lý giải do đo kẽm bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử đc sử dụng trong nghiên cứu của Ercan Karabacak có độ nhạy cao hơn so với phương pháp đo trắc quang được sử dụng trong nghiên cứu của Toyran [8]. Gần đây tác giả Kim JE đã xác định nồng độ kẽm trong tóc bệnh nhân viêm da cơ địa trẻ em, sau đó chia làm 2 nhóm, bổ sung kẽm đường uống cho 1 nhóm trong 8 tuần và thấy được sự cải thiện triệu chứng lâm sàng trong nhóm được bổ sung [10]. Chính vì vậy, vai trò của kẽm trong bệnh viêm da cơ địa cần nhiều nghiên cứu để làm sáng tỏ.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 2 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sự thay đổi nồng độ kẽm huyết thanh của bệnh nhân viêm da cơ địa trẻ em tại bệnh viện Da liễu trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 27 72,1212 (08(7718 %(111,(0 75( (0 7,%(1,(1/,(87581 Trịnh Thị Linh, Đặng Văn Em TÓM TẮT Mục tiêu: khảo sát nồng độ kẽm huyết thanh của bệnh nhân viêm da cơ địa trẻ em tại viện Da liễu Trung Ương so với nhóm chứng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang trên 90 bệnh nhân viêm da cơ địa trẻ em 2-12 tuổi tại viện Da liễu Trung Ương và 30 trẻ khoẻ mạnh. Tiến hành đo nồng độ kẽm huyết thanh của 2 nhóm và so sánh. Kết quả: nồng độ kẽm huyết thanh trung bình là 0,67 ± 0,11mg/l, không có sự khác biệt so với nhóm chứng là 0,61 ± 0,13 mg/l và không có mối liên quan giữa nồng độ kẽm với mức độ nặng của bệnh. Kết luận: Không thấy sự liên quan giữa nồng độ kẽm huyết thanh và bệnh VDCĐ ở trẻ em, nên làm thêm xét nghiệm nồng độ kẽm trong hồng cầu để phản ánh rõ hơn tình trạng kẽm trong cơ thể. Từ khoá: viêm da cơ địa, nồng độ kẽm huyết thanh 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Viêm da cơ địa (atopic dermatitis - VDCĐ) là một bệnh viêm da mạn tính tái phát thường gặp chủ yếu ở trẻ em với tỉ lệ mắc bệnh khoảng 10- 20% và ngày càng có xu hướng gia tăng[1]. Bệnh khởi phát sớm với khoảng 45% trường hợp xuất hiện trong 6 tháng đầu tiên và 85% trường hợp xuất hiện trước 5 tuổi [2]. Căn nguyên và cơ chế bệnh sinh của VDCĐ cho thấy có sự kết hợp của nhiều yếu tố, bao gồm đột biến gen gây khiếm khuyết hàng rào bảo vệ da, khiếm khuyết của hệ thống miễn dịch và đáp ứng miễn dịch với các yếu tố dị nguyên do vi khuẩn, nấm, virut hay hóa chất gây nên hiện tượng viêm da, ngứa [1]. Kẽm là một trong những nguyên tố vi lượng quan trọng nhất, là yếu tố cần thiết cho sự hoạt động bình thường của rất nhiều enzym liên quan đến chuyển hoá và phát triển của tế bào, có mặt ở hầu hết các mô. Chính vì chức năng của nó trong cân bằng nội môi, chống oxi hóa, hệ thống miễn dịch nên nhiều tác giả trên khắp thế giới nghiên cứu vai trò của nó trong bệnh viêm da cơ địa [3]. Tuy nhiên kết quả các báo cáo này còn nhiều khác biệt. Hiện nay ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào khảo sát về các yếu tố vi lượng trong bệnh viêm da cơ địa ở trẻ em. Để tìm hiểu vấn đề này chúng tôi thực hiện nghiên cứu với mục tiêu: “Khảo sát nồng độ kẽm huyết thanh của bệnh nhân viêm da cơ địa trẻ em tại Bệnh viện Da liễu Trung Ương (BVDLTW)”. Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu 90 bệnh nhân từ 2-12 tuổi được chẩn đoán viêm da cơ địa đến khám tại BVDLTW từ tháng 10/2017 đến tháng 7/2018, loại trừ trẻ bị suy dinh dưỡng, có nhiễm trùng cấp tính. 30 trẻ em khoẻ mạnh từ 2-12 tuổi. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 2.2.2. Các bước tiến hành nghiên cứu - Lập bệnh án nghiên cứu - Hỏi bệnh, thu thập thông tin về: tuổi, giới, tuổi khởi phát, tiền sử dị ứng, các yếu tố khởi phát. - Khám đánh giá các triệu chứng lâm sàng và mức độ nặng của bệnh. - Lấy huyết thanh của bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu vào buổi sáng rồi đi làm xét nghiệm nồng độ kẽm. - Xử lý số liệu 2.2.3. Một số tiêu chuẩn sử dụng trong nghiên cứu - Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định VDCĐ theo bộ tiêu chuẩn của Hanin và Rajka 1980 trong đó bệnh nhi phải đạt ≥ 3 triệu chứng chính và ≥ 3 triệu chứng phụ. - Chẩn đoán mức độ nặng của bệnh: SCORAD = A/5 + 7B/2 + C. Trong đó: + A: độ lan rộng của thương tổn tính bằng “luật số 9” theo % diện tích cơ thể. + B: mức độ tổn thương, được đánh giá bằng các triệu chứng ban đỏ, sẩn/phù, tiết dịch/vảy tiết, xước da, lichen hóa và khô da ở vùng không có tổn thương. Sử dụng thang điểm 0-3 để tính cho mỗi triệu chứng trên và B là tổng điểm của các triệu chứng + C: độ ngứa và mất ngủ trong 3 ngày đêm gần đây. Bệnh nhân đánh giá mức độ nặng dựa trên thang điểm từ 0-10 cho mỗi triệu chứng. Tổng điểm SCORAD từ 0-103 điểm, được phân thành 3 mức: Nhẹ: 50 điểm. 2.3. Xử lý số liệu Số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm thống kê SPSS 16.0, sử dụng thuật toán t-test và tính hệ số tương quan. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu Bảng 3.1: Phân bố nhóm VDCĐ theo giới, tuổi Đặc điểm n % Giới - Nam - Nữ 44 46 49 51 Tuổi 2 – 5 6 - 9 10 -12 42 30 18 46,67 33,33 20 Tổng 90 100 DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC Nhận xét: tỷ lệ VDCĐ ở nữ (51%) cao hơn so với nam (49%). Nhóm tuổi gặp nhiều nhất là từ 2-5 (46,67%), sau đó là nhóm từ 6-9 tuổi (33,33%), cuối cùng là nhóm từ 10 – 12 tuổi (20%). Bảng 3.2: Đặc điểm tuổi và giới giữa nhóm VDCĐ và nhóm chứng Đặc điểm Nhóm VDCĐ Nhóm chứng p Giới - Nam - Nữ 44 46 18 12 0,29 Tuổi 6,29 ± 2,94 6,20 ± 2,8 0,89 Nhận xét: không có sự khác biệt về tuổi và giới giữa nhóm VDCĐ và nhóm chứng. 3.2. Nồng độ kẽm huyết thanh trong bệnh VDCĐ 3.2.1. Liên quan nồng độ kẽm huyết thanh và giai đoạn bệnh Bảng 3.3: Liên quan nồng độ kẽm với gian đoạn bệnh Giai đoạn bệnh n Kết quả ( )X±SD (mg/l) p Cấp 11 0,68 ± 0,14 0,80Bán cấp 63 0,66 ± 0,11 Mãn tính 16 0,68 ± 0,11 Nhận xét: nồng độ kẽm ở các giai đoạn bệnh là không có sự khác biệt. 3.2.2. Liên quan nồng độ kẽm với tuổi khởi phát bệnh Bảng 3.4: Liên quan nồng độ kẽm với tuổi khởi phát bệnh Tuổi khởi phát n Kết quả ( )X ±SD (mg/l) p < 2 tuổi 56 0,67 ± 0,11 0,8842-12 tuổi 34 0,67 ± 0,12 Nhận xét: không có sự khác biệt giữa nồng độ kẽm của bệnh nhân với tuổi khởi phát bệnh. 3.2.3. Liên quan nồng độ kẽm với nhóm tuổi Bảng 3.5: Liên quan nồng độ kẽm huyết thanh với nhóm tuổi Tuổi n Kết quả ( )X±SD (mg/l) p 2-5 tuổi 43 0.68 ± 0.12 0,3926-9 tuổi 29 0.65 ± 0.10 10 -12 tuổi 18 0.66 ± 0.13 Nhận xét: nồng độ kẽm giữa các nhóm tuổi không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 3.2.3. Nồng độ kẽm trung bình giữa bệnh VDCĐ và nhóm đối chứng Bảng 3.5. So sánh nồng độ kẽm với nhóm đối chứng Nồng độ kẽm n Kết quả ( )X ±SD (mg/l) p Nhóm nghiên cứu 90 0,67 ± 0,11 0,29Nhóm đối chứng 30 0,61 ± 0,13 Nhận xét: nồng độ kẽm huyết thanh của nhóm bệnh nhân VDCĐ và nhóm đối chứng không có sự khác biệt. 3.2.3. Liên quan nồng độ kẽm huyết thanh và mức độ bệnh (SCORAD) Biểu đồ 3.1. Nồng độ kẽm với mức độ bệnh (SCORAD) Nhận xét: Không có mối tương quan giữa nồng độ kẽm và mức độ nặng của bệnh (p=0,13) Nồng độ kẽm huyết thanh bệnh nhân VDCĐ Điể m SC OR AD 4. BÀN LUẬN 4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Trong VDCĐ, tỉ lệ mắc của nữ thường cao hơn của nam với tỉ lệ 1,3;1 và bệnh thường khởi phát sớm, thường gặp ở trẻ em với hơn 60% VDCĐ khởi phát trong năm đầu tiên của cuộc sống, 85 % bệnh nhân khởi phát trước 5 tuổi [1]. Nghiên cứu của chúng tôi cũng có đặc điểm dịch tễ phù hợp khi trong nhóm nghiên cứu có tỷ lệ trẻ nữ cao hơn nam và nhóm tuổi gặp nhiều nhất là 2-5 tuổi. Sự khác biệt giữa tuổi và giới của nhóm VDCĐ và nhóm chứng không có ý nghĩa thống kê. DALIỄUHỌCSố27(Tháng09/2018) NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 4.2. Nồng độ kẽm trong huyết thanh bệnh nhân VDCĐ Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có sự khác biệt giữa nồng độ kẽm với giai đoạn bệnh hoặc tuổi khởi phát của bệnh và tuổi bệnh nhân. Nồng độ kẽm trung bình của nhóm VDCĐ là 0,67 ± 0,11 mg/L, của nhóm chứng là 0,61 ± 0,13 mg/L với sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu ở Irắc trên 101 bệnh nhân VDCĐ 3-65 tuổi và nghiên cứu của Hinks L.J [4,5] nhưng lại khác biệt so với nghiên cứu của T.J.David thực hiện trên 65 trẻ em viêm da cơ địa khi cùng sử dụng phương pháp quang phổ hấp thu nguyên tử [6]. Kết quả các nghiên cứu còn chưa thống nhất vì có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ kẽm huyết thanh mà khó kiểm soát được như: stress, sự thay đổi hormone, tình trạng nhiễm trùng, mức độ tăng trưởng [7]. Hiện nay, một số tác giả đo nồng độ kẽm trong hồng cầu để đánh giá chính xác hơn tình trạng thiếu kẽm và thấy rằng nồng độ kẽm trong hồng cầu ở nhóm VDCĐ thấp hơn so với nhóm chứng [8,9]. Trong nghiên cứu không thấy sự liên quan giữa nồng độ kẽm huyết thanh và mức độ nặng của bệnh. Kết quả của chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Ercan Karabacak trên 67 bệnh nhân VDCĐ [8]. Toyran và cộng sự khi nghiên cứu trên 92 trẻ em VDCĐ cũng không thấy mối liên quan giữa nồng độ kẽm trong hồng cầu với mức độ nặng của bệnh [9]. Tuy nhiên nghiên cứu của Ercan Karabacak lại cho thấy mức độ nặng của bệnh không có sự liên quan giữa nồng độ kẽm huyết thanh nhưng có mối liên quan với nồng độ kẽm trong hồng cầu. Cùng đo nồng độ kẽm trong hồng cầu nhưng sự khác biệt này được lý giải do đo kẽm bằng phương pháp phổ hấp thụ nguyên tử đc sử dụng trong nghiên cứu của Ercan Karabacak có độ nhạy cao hơn so với phương pháp đo trắc quang được sử dụng trong nghiên cứu của Toyran [8]. Gần đây tác giả Kim JE đã xác định nồng độ kẽm trong tóc bệnh nhân viêm da cơ địa trẻ em, sau đó chia làm 2 nhóm, bổ sung kẽm đường uống cho 1 nhóm trong 8 tuần và thấy được sự cải thiện triệu chứng lâm sàng trong nhóm được bổ sung [10]. Chính vì vậy, vai trò của kẽm trong bệnh viêm da cơ địa cần nhiều nghiên cứu để làm sáng tỏ. 5. KẾT LUẬN Khi khảo sát sự thay đổi nồng độ kẽm trong máu 90 bệnh nhân viêm da cơ địa trẻ em tại Bệnh viện Da liễu Trung Ương từ tháng 10/2017 đến tháng 7/2018, chúng tôi đưa ra một số kết luận sau: Không có sự khác biệt giữa nồng độ kẽm huyết thanh của nhóm bệnh và nhóm chứng. Không có mối liên quan của nồng độ kẽm huyết thanh với mức độ nặng của bệnh Không có sự khác biệt của nồng độ kẽm với tuổi khởi phát và giai đoạn bệnh TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Leung D.Y.M, Eicheneld L.F., Boguniewiczn M. (2012). Atopic dermatitis. Dermatology in general medicin of Fitzpatrick, Mac Graw-Hill, 8thedn,165-182. 2. Jean L.Bololognia, Joseph L. Jorizzo, Julie V. Schaer (2012) Atopic dermatitis. Dermatology, 3rd edn, 203-219. 3. Christos T. Chasapis, Ariadni C. Loutsidou, Chara A. Spiliopoulou (2012) Zinc and human health: an update. Springer, 86, 521- 534. Số27(Tháng09/2018)DALIỄUHỌC NGHIÊNCỨUKHOAHỌC 4. Batool H. Al-Ghurabi, Ahmed A. Al-Hassan, Mukarrum M. Al-Waiz. (2007). Serum levels of copper and zinc in patients with atopic dermatitis in Iraq. Iraq Acadermic Scientic Journals, 20, 69- 72. 5. Hinks L.J., Young. S. and Calyton B. (1987). Trace element status in eczema and psoriasis.Clin. Exp. Dermatol, 12, 93-107 6. David T.j., Wells F.E., Sharpe T.C.and Gibbs A.C.C.(1987). Low serum zinc in children with AD. Br.J. Dermatol, III, 597-601, 7. Kim JE, Yoo SR, Jeong MG, et al. Hair zinc levels and the ef- cacy of oral zinc supplementation in patients with atopic dermatitis. (2014). Acta Derm Venereol; 94: 558-62. 8. Karabacak E, Aydin E, Kutlu A, et al. Erythrocyte zinc level in patients with atopic dermatitis and its relation to SCORAD index. (2016). Postepy Dermatol Alergol. 33(5):349-352 9. Toyran M, Kaymak M, Vezir E, et al. Trace element levels in children with atopic dermatitis. (2012). J Investig Allergol Clin Immunol, 22:341– 4 10. Kim JE, Yoo SR, Jeong MG, et al. Hair zinc levels and the ecacy of oral zinc supplementation in patients with atopic dermatitis. (2014). Acta Derm Venereol; 94: 558-62. SUMMARY EVALUATING LEVEL OF SERUM ZINC IN CHILDREN WITH ATOPIC DERMATITIS AT NATIONAL HOSPITAL OF DERMATOLOGY AND VENEREOLOY Object: in this study, we measure the level of serum zinc in children with a topic dermatitis (AD) then compare our result with those of a healthy control group. Method: A cross-sectional descriptive study with 90 AD patients and 30 controls from 10/2017 to 7/2018. Result: we found that the mean level of serum zinc was 0,67 ± 0,11mg/l in the AD patients group and 0,61 ± 0,13 mg/l in the control group. The level of serum zinc did not dier between two groups. In the AD patient group, there was no statistical correlation between the SCORAD index and serum zinc levels. Conclusion: The level of serum zinc did not dier between two groups. The role of zinc in the pathogenesis and course of AD warrants futher study. Key words: serum zinc, atopic dermatitis.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_su_thay_doi_nong_do_kem_huyet_thanh_cua_benh_nhan_v.pdf