Bệnh lý sàn chậu thường liên quan đến cả rối loạn
hình thái và chức năng của các cấu trúc trong vùng
chậu. Hỏi bệnh sử, khám lâm sàng chính xác kết hợp
với X quang động trực tràng và đánh giá chức năng
sinh lý hậu môn trực tràng có thể đủ để chẩn đoán các
rối loạn tống phân. Tuy nhiên, không xác định đầy đủ
các bệnh lý sàn chậu dễ dẫn đến thiếu sót trong điều trị,
nhất là về mặt phẫu thuật.
Độ tuổi trung niên và số con trung bình 2-3 trong
nghiên cứu cũng gần tương đồng với đặc điểm chung
của nhiều nghiên cứu khác(2,7,11). Chúng tôi còn nhận
thấy rằng yếu tố tuổi và sinh con dù xét riêng lẻ hay
đồng thời thì đều có liên quan đến tăng nguy cơ hình
thành STTDT và sa các khoang chậu.
Nghiên cứu của chúng tôi có những trường hợp
bệnh nhân không có biểu hiện triệu chứng lẫn trên chẩn
đoán thăm khám của bác sĩ lâm sàng nhưng có biểu
hiện hình ảnh bệnh lý bất thường. Ví dụ như sa bàng
quang ở bệnh nhân không có són tiểu hoặc ngược lại
có STTDT trên bệnh nhân đến khám vì tiểu són, có hình
ảnh sa toàn bộ các khoang chậu kèm STTDT ở bệnh
nhân có triệu chứng đại tiện khó Kết quả này tương
tự với các nghiên cứu trước đây, cho thấy tính không
đặc hiệu của lâm sàng(4,15) và sự phức tạp của bệnh lý
sàn chậu(5,7,8,14).
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 24 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sự tương quan giữa sa trực tràng dạng túi với các bệnh lý sàn chậu thường gặp khác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 39
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
KHẢO SÁT SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA
SA TRỰC TRÀNG DẠNG TÚI VỚI CÁC
BỆNH LÝ SÀN CHẬU THƯỜNG GẶP KHÁC
Investigation of the relationship between rectocele and
other pelvic floor disorders
Võ Tấn Đức*
*Bộ môn Chẩn đoán hình ảnh –
Đại học Y dược TP.HCM
Background - Objectives: Pelvic floor dysfunction and
prolapse are common condition of women past the middle age,
with nonspecific clinical symptoms. Many cases of rectocele occurs
combine with other pelvic floor disorders. Failure to recognize the
complex set of pelvic floor defects leads to most therapy failures.
The aim of this study is order to evaluate the correlations between
age, number of birth and rectocele, and to define the role of
dynamic magnetic resonance defecography in diagnosis.
Methods: Cross-study description. Patients with pelvic floor
dysfunction had done clinical examinations and they were indicated
dynamic MR Defecography at University Medical Center, HCM City
by urologist or gynecologist and proctologist.
Results: MR Defecography of 1683 patients was evaluated
from 01/2008 to 6/2012. Most patients are about 40 to 50 years old
with 2 to 3 parity. 1218 patients with incontinence; 1311 patients
(77.9%) has rectocele. Prolapse of the posterior compartment
is the most common type of prolapse. Rectocele combines with
more than one pelvic organ prolapse 77.4%; 64.2% of the patients
with anismus had rectocele. There are statistically significant in
the correlation of age, the number of birth with rectocele or pelvic
organ prolapse (OR # 1.04-2.67 and p<0.005). Risk of rectocele
was higher in the patients with pelvic organ prolapse than in the
patients without pelvic organ prolapse (p<0.005).
Conclusions: Complex pelvic floor disorders often involve
several compartments. Dynamic MR Defecography allows
evaluating the both morphological and functional assessment of
the pelvic floor, selecting the most appropriate treatment.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 201440
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các bệnh lý vùng sàn chậu như sa trực tràng dạng
túi, sa các tạng chậu khá phổ biến ở nữ tuổi trung niên
đã từng sinh con, chiếm tỉ lệ khoảng 50% và hơn 10%
trong số này phải điều trị bằng phẫu thuật. Bệnh biểu
hiện với các triệu chứng rối loạn chức năng sàn chậu
như đau vùng chậu, cảm giác nặng vùng chậu, giao
hợp đau, rối loạn đi tiểu, đại tiện khó, không hết phân,
và khoảng 16% có sa tạng chậu ra bên ngoài (1,2).
Bệnh thường liên quan đến nhiều khoang chậu và
dễ tái phát do không đánh giá đầy đủ các tổn thương
phối hợp trước khi điều trị và do hiểu không đầy đủ sinh
lý bệnh học. Nếu chẩn đoán bệnh chỉ dựa vào khám
lâm sàng, có đến gần 50% trường hợp bỏ sót sa các
tạng chậu (3,4).
Trước đây, X quang động học tống phân đóng vai
trò chính trong chẩn đoán bệnh lý sàn chậu. Bệnh nhân
bị ảnh hưởng tia X và phương pháp này còn mang tính
xâm lấn khi muốn khảo sát các khoang chậu ở phía
trước (5). Đến những năm 1990, với sự phát triển của
cộng hưởng từ, kỹ thuật khảo sát động sàn chậu trở
thành phương tiện tốt có giá trị thay thế cho X quang
trong chẩn đoán các bệnh lý vùng sàn chậu.
Nghiên cứu này nhằm khảo sát mối tương quan
giữa STTDT và các bệnh lý khác của sàn chậu trên
bệnh nhân có biểu hiện rối loạn chức năng sàn chậu
bằng kỹ thuật chụp cộng hưởng từ động.
II. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả cắt ngang từ tháng 01/2008 đến
tháng 06/2012 (4 năm rưỡi) tại Bệnh viện Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng nghiên cứu là nữ với các biểu hiện rối
loạn chức năng sàn chậu được chỉ định chụp cộng
hưởng từ bởi các bác sĩ chuyên khoa tiết niệu, phụ
khoa hoặc hậu môn trực tràng. Các trường hợp không
hợp tác tốt hoặc phát hiện có khối u vùng chậu, u trực
tràng, bệnh Hirschprungs, bệnh do thần kinh được loại
bỏ.
Cách thức tiến hành
Bơm gel siêu âm vào trực tràng tạo cảm giác mắc
đại tiện.
Sử dụng máy cộng hưởng từ kín AVENTO 1.5T,
đặt bệnh nhân nằm tư thế FOWLER với cuộn thu tín
hiệu bụng quấn ngang vùng chậu. Dùng các chuỗi xung
T2 HASTE và TRUFISP ghi hình sàn chậu ở mặt cắt
ngang, dọc và dọc giữa qua các thì nghỉ, thót, rặn tống
phân và làm nghiệm pháp Valsalva.
Tiêu chuẩn chẩn đoán sa các khoang chậu vẫn
còn nhiều tranh cãi do nghiên cứu đánh giá động học
trên người bình thường với cỡ mẫu quá nhỏ, chưa đại
diện được cho dân số. Chúng tôi sử dụng đường mu -
cụt làm mốc với các định nghĩa và ứng dụng tiêu chuẩn
bên dưới để đánh giá sàn chậu (6-13).
- Chia sàn chậu thành các khoang: trước, giữa,
sau và túi cùng Douglas; tương ứng chứa các tạng
là bàng quang, tử cung / tiền liệt tuyến, hậu môn-trực
tràng và túi cùng có thể chứa ruột non, đại tràng chậu
hông hay mỡ phúc mạc.
- Góc hậu môn-trực tràng: là góc tạo bởi trục của
ống hậu môn và đường tiếp tuyến với thành sau đoạn
xa của trực tràng. Giao điểm của hai đường này chính
là chỗ nối hậu môn-trực tràng.
- Đường mu - cụt: đường nối bờ dưới khớp mu
đến khớp hai xương cụt cuối cùng.
- Sa các cơ quan sàn chậu: đánh giá khoảng cách
bằng đường vuông góc được nối từ chỗ thấp nhất của
các tạng chậu đến đường mu cụt.
Độ sa sàn chậu sau chia 4 mức: bình thường: 0 -
<2cm; độ I: 2-<4cm; độ II: 4-<6cm; độ III: ≥6cm. Đo từ
chỗ nối hậu môn-trực tràng đến vuông góc với đường
mu cụt.
Độ sa các cấu trúc khác chia 3 mức: độ I: <3cm; độ
II: 3-<6cm; độ III: ≥6cm.
- Sa trực tràng kiểu túi: sự phồng của thành trực
tràng ra phía trước > 0,5cm so với vị trí bình thường.
Phân loại theo độ sâu của túi: độ I: < 2cm; độ II: 2-4cm;
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 41
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
độ III: >4cm.
- Lồng trực tràng-hậu môn: là sự phát triển nếp
gấp > 0,3cm lõm vào thành trực tràng khi rặn. Nếp gấp
này có thể là niêm mạc hay toàn thành trực tràng. Phân
biệt lồng trực-trực tràng khi khối lồng còn nằm trong
trực tràng, lồng trực tràng-hậu môn khi khối lồng nằm
trong vùng ống hậu môn và gọi là sa trực tràng khi khối
lồng sa hẳn ra ngoài.
- Bệnh co thắt cơ mu trực tràng được chẩn đoán
dựa vào các yếu tố gợi ý sau:
Góc hậu môn-trực tràng giảm hoặc tăng ít
trong thì rặn so với thì nghỉ.
Có hình ảnh ấn lõm phía thành sau trực
tràng của cơ mu trực tràng hoặc cơ thắt hậu
môn trong thì rặn.
Tống gel ít hơn 2/3 lượng gel ban đầu trong
khoảng 60 giây.
Bề dày cơ mu trực tràng trong thì rặn lớn
hơn trong thì nghỉ.
Các triệu chứng lâm sàng chia 5 nhóm:
(TC1): Rối loạn đại tiện gồm đại tiện < 3 ngày /
lần hoặc đại tiện khó, rặn nhiều, thời gian đại tiện lâu,
không hết phân sau đại tiện, dùng tay trợ giúp khi đại
tiện.
(TC2): Rối loạn đi tiểu: tiểu són, tiểu không kiểm
soát.
(TC3): Cảm giác đau / trằn nặng hoặc có khối chèn
ép ở vùng chậu / hậu môn.
(TC4): Có khối sa sinh dục, sa trực tràng ra bên
ngoài.
(TC5): Giao hợp đau.
Ghi nhận các yếu tố: triệu chứng lâm sàng, số lần
sanh con, tiền sử cắt tử cung; độ sa các tạng, STTDT,
bệnh có thắt cơ mu trực tràng, lồng / sa trực tràng.
Số liệu được xử lý với phần mềm STATA, sử dụng
hồi qui logistis với giá trị p<0,05 có có ý nghĩa về mặt
thống kê.
III. KẾT QUẢ
Nghiên cứu gồm 1683 bệnh nhân, tuổi từ 14 đến
91, tuổi trung bình là 48 ± 15, phân phối tương đối bình
thường. Nhóm tuổi tập trung nhiều nhất là 40-49 tuổi
(25,4%).
1456 (86,5%) bệnh nhân đã từng sinh con với số
con từ 1-14. Nhóm có 2 và 3 con chiếm tỉ lệ cao nhất
là 37,6% và 20,6%. Có 50 trường hợp (3%) đã cắt tử
cung.
Nhóm triệu chứng rối loạn đại tiện nhiều nhất với
1218 trường hợp. Có 246 trường hợp có nhiều hơn một
nhóm triệu chứng.
Loại triệu chứng Số trường hợp
Rối loạn đại tiện
Rối loạn đi tiểu
Đau / nặng / khối vùng chậu
Khối sa ra ngoài vùng chậu
Giao hợp đau
1218
137
506
79
2
Bảng 1. Số trường hợp các loại triệu chứng
STTDT: tỉ lệ là 77,9% (1311 trường hợp), kích
thước túi trung bình là 2,8cm. Phân theo độ sâu của túi
cho thấy tỉ lệ STTDT mức độ II cao nhất 68,8% so với
độ I là 24,7% và độ III là 6,5%. Kích thước túi càng lớn
thì khả năng ứ đọng gel trong túi càng tăng (p<0,001).
Tỉ lệ sa các khoang chậu: khoang chậu sau có tỉ lệ
sa nhiều nhất 92,5%; sa bàng quang là 65,5% và sa tử
cung là 50,3%. Sa ruột non, đại tràng chậu hông tương
đối hiếm < 5%.
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
KCS BQ TC SIGMA RN MPM
I
II
III
Biểu đồ 1. Phân phối mức độ sa các tạng chậu trong
thì rặn
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 201442
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(KCS: khoang chậu sau, BQ: sa bàng quang, TC: sa
tử cung, SIGMA: sa đại tràng chậu hông, RN: ruột
non, MPM: mỡ phúc mạc)
Sa nhiều hơn một khoang chậu trong các trường
hợp có STTDT là khá cao.
Số khoang chậu sa Tần số (n=1311) Tỉ lệ %
0 53 4
1 283 21,6
2 261 19,9
3 540 41,2
4 174 13,3
Bảng 2. Tỉ lệ STTDT kết hợp sa nhiều khoang sàn
chậu
Bệnh co thắt cơ mu trực tràng: 165/1683 (9,8%)
trường hợp có dấu hiệu gợi ý chẩn đoán. Trong số này,
64,2% trường hợp có STTDT.
35 trường hợp có lồng trực tràng đơn thuần và 11
trường hợp sa trực tràng.
Mối liên quan giữa tuổi, số con với STTDT hay
sa các khoang chậu (trừ khoang túi cùng Douglas)
đều có ý nghĩa về mặt thống kê với OR # 1,04 -> 2,67
(p<0,005).
Nguy cơ hình thành STTDT ở nhóm có sa các
tạng chậu cao hơn nhóm không sa với PR # 1,16 ->
2,1 (p<0,005). Cắt tử cung là yếu tố làm tăng nguy cơ
sa các cấu trúc trong khoang túi cùng Douglas lên 3,1
lần (p<0,005).
Mối liên quan giữa sa khoang chậu sau ở thì nghỉ,
thì rặn và độ chênh giữa hai thì với tuổi và số con được
biểu diễn theo phương trình hồi qui với:
M(n) = 0,53 + 0,02t + 0,04sc
M(r) = 3,25 + 0,014t + 0,09sc hoặc
M(r) = 3,09 + 0,52M(n) + 0,08sc
DM = 2,721 – 0,007t + 0,048sc
(M(n) : độ hạ sàn chậu sau thì nghỉ, M(r): thì rặn,
DM: M(r) – M(n) ; t: tuổi, sc: số con)
Ở nhóm có STTDT, độ hạ xuống của sàn chậu
sau trong thì nghỉ hoặc thì rặn nhiều hơn so với nhóm
không có STTDT và ngược lại, khi độ hạ xuống của
khoang chậu tăng thêm 1 cm trong các thì nghỉ / rặn /
độ chênh lệch giữa thì rặn – thì nghỉ thì nguy cơ hình
thành STTDT cũng tăng tương ứng là 1,18 ;1,58 và
1,53 lần (p<0,005). Điều này cho thấy STTDT và độ hạ
xuống của sàn chậu sau có tác động qua lại lẫn nhau.
Hình 1. STTDT kèm sa ba khoang chậu lớn Hình 2. STTDT kèm sa toàn bộ 4 khoang chậu
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 43
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
IV. BÀN LUẬN
Bệnh lý sàn chậu thường liên quan đến cả rối loạn
hình thái và chức năng của các cấu trúc trong vùng
chậu. Hỏi bệnh sử, khám lâm sàng chính xác kết hợp
với X quang động trực tràng và đánh giá chức năng
sinh lý hậu môn trực tràng có thể đủ để chẩn đoán các
rối loạn tống phân. Tuy nhiên, không xác định đầy đủ
các bệnh lý sàn chậu dễ dẫn đến thiếu sót trong điều trị,
nhất là về mặt phẫu thuật.
Độ tuổi trung niên và số con trung bình 2-3 trong
nghiên cứu cũng gần tương đồng với đặc điểm chung
của nhiều nghiên cứu khác(2,7,11). Chúng tôi còn nhận
thấy rằng yếu tố tuổi và sinh con dù xét riêng lẻ hay
đồng thời thì đều có liên quan đến tăng nguy cơ hình
thành STTDT và sa các khoang chậu.
Nghiên cứu của chúng tôi có những trường hợp
bệnh nhân không có biểu hiện triệu chứng lẫn trên chẩn
đoán thăm khám của bác sĩ lâm sàng nhưng có biểu
hiện hình ảnh bệnh lý bất thường. Ví dụ như sa bàng
quang ở bệnh nhân không có són tiểu hoặc ngược lại
có STTDT trên bệnh nhân đến khám vì tiểu són, có hình
ảnh sa toàn bộ các khoang chậu kèm STTDT ở bệnh
nhân có triệu chứng đại tiện khó Kết quả này tương
tự với các nghiên cứu trước đây, cho thấy tính không
đặc hiệu của lâm sàng(4,15) và sự phức tạp của bệnh lý
sàn chậu(5,7,8,14).
Sự kết hợp STTDT kèm sa nhiều hơn một khoang
sàn chậu cũng như mối liên quan của chúng đã được
chứng minh trong nghiên cứu. STTDT và mức độ sa
sàn chậu sau có tác động qua lại lẫn nhau, có túi sa
thì mức độ sàn chậu càng nhiều và khi mức độ sa sàn
chậu sau tăng thì nguy cơ hình thành túi sa cũng tăng,
khó giải thích được đâu là nguyên nhân và đâu là hậu
quả. Qua đó càng thấy rõ sự phức tạp của bệnh lý sàn
chậu là do nhiều yếu tố nguy cơ tác động ảnh hưởng
chung đến toàn bộ hệ thống mạc, cân, dây chằng và
các cơ nâng đỡ sàn chậu, từ đó gây ra các bất thường
được biểu hiện đồng thời ở nhiều khoang. Điều này
cũng được các nhà phẫu thuật công nhận khi đối chiếu
trong lúc mổ (10,18).
Nghiên cứu này cũng như của các tác giả Timmons
MC(16), Symmonds RE và cs(17) cho thấy tăng nguy cơ
sa các cấu trúc vào khoang túi cùng Douglas ở bệnh
nhân sau phẫu thuật cắt tử cung.
Tỉ lệ STTDT ở nhóm bệnh nhân có dấu hiệu
chẩn đoán bệnh lý co thắt cơ mu trực tràng của chúng
tôi là 64,2%, tương tự với tác giả Siproudhis(19) và
Johansson(20) là 62 - 71%. Sự co thắt của cơ mu trực
tràng gây tắc nghẽn đường ra của phân, giảm khả năng
tống phân và đại tiện khó, tăng nguy cơ hình thành
STTDT.
V. KẾT LUẬN
Có mối tương quan giữa STTDT và các bệnh lý
khác của sàn vùng chậu cho thấy đây là vấn đề phức
tạp, cần được chẩn đoán đầy đủ và chính xác. Với chất
lượng hình ảnh cao rõ nét, bệnh nhân không bị ảnh
hưởng của tia xạ và chỉ trong một lần khảo sát có thể
đánh giá được đồng thời toàn bộ các khoang chậu,
cộng hưởng từ động sàn chậu thực sự là phương tiện
cần thiết không thể thiếu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Maglinte DD, Kelvin FM, Hale DS (1997).
Dynamic cystoproctography: a unifying diagnostic
approach to pelvic floor and anorectal dysfunction. AJR
Am J Roentgenol, 169(3):759–767.
2. Yang A, Mostwin JL, Rosenshein NB (1991).
Pelvic floor descent in women: dynamic evaluation
with fast MR imaging and cinematic display. Radiology,
179(1):25-33.
3. Healy JC, Halligan S, Reznek RH (1997).
Patterns of prolapse in women with symptoms of pelvic
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 201444
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
floor weakness: assessment with MR imaging, 203:77-
81.
4. Maglinte DD, Kelvin FM, Fitzgerald K (1999).
Association of compartment defects in pelvic floor
dysfunction. AJR, 172:439-444.
5. Maglinte DD, Kelvin FM, Hale DS (2000).
Female pelvic organ prolapse: A comparision of
triphasic dynamic MR imaging and triphasic fluoroscopic
cystocolpoproctography. AJR 174(1):81-88.
6. Van Dam JH, Ginai AZ, Gosselink MJ (1997).
Role of defecography in predicting clinical outcome of
rectocele repair. Dis Colon Rectum, 40:201-7.
7. Kruyt RH, Delemarre JB, Doornbos J, Vogel
HJ (1991). Normal anorectum: dynamic MR imaging
anatomy. Radiology, 179:159–163.
8. Healy JC, Halligan S, Reznek RH (1997).
Dynamic MR Imaging Compared with Evacuation
Proctography when Evaluating Anorectal Configuration
and Pelvic Floor Movement. AJR, 169: 775-779.
9. Fustus E.Roos, Dominik Weishaupt, Simon
Wildermuth (2002). Experience of 4 Years with Open
MR Defecography: Pictorial Review of Anorectal
Anatomy and Disease. RadioGraphics, 22: 817-832
10. Fielding JR (2002). Practical MR Imaging
of Female Pelvic Floor Weakness. RadioGraphics,
22:295-304
11. Lamb GM, De Jode MG, Guold SW (2000).
Upright dynamic MR defeacating proctography in an
open configuration MR system. The British Journal of
Radiology, 73:152-155
12. Barbaric ZL, Marumoto AK (2001). MRI of
the Perineum and Pelvic Floor. Topic in Magnetic
Resonance Imaging 12:83-92.
13. Chu WC, Tam YH, Lam WW (2007). Dynamic
MR assessment of the anorectal angle and puborectalis
muscle in pediatric patients with anismus: Technique
and feasibility. J Magn Reson Imaging, 25:1067-72.
14. Rentsch M, Lenhart M, Paetzel Ch (1999).
Dynamic MR imaging defecography: A diagnostic
alternative in the assessment of pelvic floor disorders in
proctology. Dis Colon Rectum, 44(7):999-1007.
15. Gupta S, Sharma JB (2012). Study of Dynamic
MR imaging in diagnosis of pelvic organ prolapse. Arch
Gyneco Obstet, 286:953-958
16. Timmons MC, Addition WA (1992). Abdominal
sacral colpopexy in 163 women with posthysterecomy
vaginal vault prolapse and enterocele. Evoluation of
operative techniques. J. Reprod Med, 37:323-327.
17. Symmonds RE, Williams TJ (1981).
Posthysterecomy enterocele and vaginal vault prolapse.
AmJ Obstet Gynecol, 140:852-859
18. Fernando G. DeAlmeida, Larissa V.Rodríguez,
Shlomo Raz. Magnetic Resonance Imaging in the
Diagnosis of pelvic floor disorders. Urological Neurology
2002; 28:553-559.
19. Siproudhis L., Dautrème S. (1993). Dyschezia
and rectocele-a marriage of convenience? Physiologic
evaluation of the rectocele in a group of 52 women
complaining of difficulty in evacuation. Dis Colon
Rectum, 36:1030-6.
20. Johansson C, Nilsson BY (1992). Association
between rectocele paradoxical sphincter responses.
Dis Colon Rectum, 35:503-9.
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn chức năng và sa các tạng vùng chậu thường gặp ở phụ nữ tuổi trung niên với triệu chứng
lâm sàng không đặc hiệu. Trong nhiều trường hợp, sa trực tràng dạng túi (STTDT) thường kết hợp với các bệnh lý
sàn chậu khác. Việc bỏ sót hoặc không nhận ra được tổn thương của sàn chậu là một tập hợp phức tạp thì dễ dẫn
đến thất bại trong việc điều trị. Nghiên cứu này nhằm khảo sát các mối tương quan giữa tuổi, số con và STTDT cũng
như khẳng định vai trò chẩn đoán bệnh của cộng hưởng từ động sàn chậu.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 45
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Các bệnh nhân có biểu hiện rối loạn chức năng sàn chậu được
khám và chỉ định chụp cộng hưởng từ động tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM bởi những bác sĩ chuyên khoa
hậu môn trực tràng, tiết niệu và phụ khoa.
Kết quả: Có 1683 bệnh nhân trong nghiên cứu từ tháng 01/2008 đến tháng 06/2012. Nữ tuổi 40-50 và có 2-3
con chiếm đa số. 1218 bệnh nhân có biểu hiện rối loạn đại tiện. 1311 trường hợp (77,9%) có STTDT. Bất thường sa
khoang chậu sau chiếm tỉ lệ cao nhất. Tỉ lệ có STTDT kèm sa nhiều hơn một khoang chậu là 74.4% và trong nhóm
bệnh lý co thắt cơ mu trực tràng là 64,2%.
Mối liên quan giữa tuổi, số con với STTDT hay sa các khoang chậu đều có ý nghĩa về mặt thống kê với OR #
1,04 - 2,67 (p<0,005). Nguy cơ có STTDT trong các nhóm có sa tạng chậu cũng cao hơn nhóm không có sa tạng
chậu (p<0,005).
Kết luận: Bệnh lý sàn chậu thường phức tạp, liên quan đến nhiều khoang chậu. Cộng hưởng từ động sàn chậu
cho phép chẩn đoán các bất thường về hình thái và chức năng vùng chậu, giúp chọn lựa kế hoạch điều trị thích hợp
nhất.
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS. TS. Hoàng Minh Lợi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_su_tuong_quan_giua_sa_truc_trang_dang_tui_voi_cac_b.pdf