Bệnh lý sàn chậu thường liên quan đến cả rối
loạn hình thái và chức năng của các cấu trúc
trong vùng chậu. Hỏi bệnh sử, khám lâm sàng
chính xác kết hợp với X quang động trực tràng
và đánh giá chức năng sinh lý hậu môn trực
tràng có thể đủ để chẩn đoán các rối loạn tống
phân. Tuy nhiên, không xác định đầy đủ các
bệnh lý sàn chậu dễ dẫn đến thiếu sót trong điều
trị, nhất là về mặt phẫu thuật.
Độ tuổi trung niên và số con trung bình 2-3
trong nghiên cứu cũng gần tương đồng với đặc
điểm chung của nhiều nghiên cứu khác(10,11,20).
Chúng tôi còn nhận thấy rằng yếu tố tuổi và sinh
con dù xét riêng lẻ hay đồng thời thì đều có liên
quan đến tăng nguy cơ hình thành STTKT và sa
các khoang chậu.
Nghiên cứu của chúng tôi có những trường
hợp bệnh nhân không có biểu hiện triệu chứng
lẫn trên chẩn đoán thăm khám của bác sĩ lâm
sàng nhưng có biểu hiện hình ảnh bệnh lý bất
thường. Ví dụ như sa bàng quang ở bệnh nhân
không có són tiểu, hoặc ngược lại có STTKT trên
bệnh nhân đến khám vì tiểu són, có hình ảnh sa
toàn bộ các khoang chậu kèm STTKT ở bệnh
nhân có triệu chứng đại tiện khó Kết quả này
tương tự với các nghiên cứu trước đây, cho thấy
tính không đặc hiệu của lâm sàng(6,12)và sự phức
tạp của bệnh lý sàn chậu(7,10,14,15).
Sự kết hợp STTKT kèm sa nhiều hơn một
khoang sàn chậu cũng như mối liên quan của
chúng đã được chứng minh trong nghiên cứu.
STTKT và mức độ sa sàn chậu sau có tác động
qua lại lẫn nhau, có túi sa thì mức độ sàn chậu
càng nhiều và khi mức độ sa sàn chậu sau
tăng thì nguy cơ hình thành túi sa cũng tăng,
khó giải thích được đâu là nguyên nhân và
đâu là hậu quả. Qua đó càng thấy rõ sự phức
tạp của bệnh lý sàn chậu là do nhiều yếu tố
nguy cơ tác động ảnh hưởng chung đến toàn
bộ hệ thống mạc, cân, dây chằng và các cơ
nâng đỡ sàn chậu, từ đó gây ra các bất thường
được biểu hiện đồng thời ở nhiều khoang.
Điều này cũng được các nhà phẫu thuật công
nhận khi đối chiếu trong lúc mổ(3,4).
Nghiên cứu này cũng như của các tác giả
Timmons MC(18), Symmonds RE và cs(17) cho thấy
tăng nguy cơ sa các cấu trúc vào khoang túi cùng
Douglas ở bệnh nhân sau phẫu thuật cắt tử cung.
Tỉ lệ STTKT ở nhóm bệnh nhân có dấu hiệu
chẩn đoán bệnh lý co thắt cơ mu trực tràng của
chúng tôi là 64,2%, tương tự với tác giả
Siproudhis(16) và Johansson(9) là 62 - 71%. Sự co
thắt của cơ mu trực tràng gây tắc nghẽn đường
ra của phân, giảm khả năng tống phân và đại
tiện khó, tăng nguy cơ hình thành STTKT.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 130 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát sự tương quan giữa sa trực tràng kiểu túi với các bệnh lý sàn chậu thường gặp khác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 525
KHẢO SÁT SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA SA TRỰC TRÀNG KIỂU TÚI
VỚI CÁC BỆNH LÝ SÀN CHẬU THƯỜNG GẶP KHÁC
Võ Tấn Đức*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Rối loạn chức năng và sa các tạng vùng chậu thường gặp ở phụ nữ tuổi trung niên với triệu
chứng lâm sàng không đặc hiệu. Trong nhiều trường hợp, STTKT thường kết hợp với các bệnh lý sàn chậu khác.
Việc bỏ sót hoặc không nhận ra được tổn thương của sàn chậu là một tập hợp phức tạp thì dễ dẫn đến thất bại
trong việc điều trị. Nghiên cứu này nhằm khảo sát các mối tương quan và khẳng định vai trò chẩn đoán bệnh của
cộng hưởng từ động sàn chậu.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Các bệnh nhân có biểu hiện rối loạn chức năng sàn chậu được
khám và chỉ định chụp cộng hưởng từ động tại Bệnh viện Đại học Y Dược TPHCM bởi những bác sĩ chuyên
khoa hậu môn trực tràng, tiết niệu và phụ khoa.
Kết quả: Có 1683 bệnh nhân trong nghiên cứu từ tháng 01/2008 đến tháng 06/2012. Nữ tuổi 40-50 và có 2-
3 con chiếm đa số. 1218 bệnh nhân có biểu hiện rối loạn đại tiện. 1311 trường hợp (77,9%) có STTKT. Bất
thường sa khoang chậu sau chiếm tỉ lệ cao nhất. Tỉ lệ có STTKT kèm sa nhiều hơn một khoang chậu là 74,4% và
trong nhóm bệnh lý co thắt cơ mu trực tràng là 64,2%. Mối liên quan giữa tuổi, số con với STTKT hay sa các
khoang chậu đều có ý nghĩa về mặt thống kê với OR # 1,042,67 (p<0,005). Nguy cơ có STTKT trong các nhóm
có sa tạng chậu cũng cao hơn nhóm không có sa tạng chậu (p<0,005).
Kết luận: Bệnh lý sàn chậu thường phức tạp, liên quan đến nhiều khoang chậu. Cộng hưởng từ động sàn
chậu cho phép chẩn đoán các bất thường về hình thái và chức năng vùng chậu, giúp chọn lựa kế hoạch điều trị
thích hợp nhất.
Từ khóa: Cộng hưởng từ động sàn chậu, sa trực tràng kiểu túi, sa tạng vùng chậu, co thắt cơ mu-trực
tràng.
ABSTRACT
INVESTIGATION OF THE RELATIONSHIP BETWEEN RECTOCELE AND OTHER PELVIC FLOOR
DISORDERS
Vo Tan Duc * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 2 - 2014: 525 - 530
Background - Objectives: Pelvic floor dysfunction and prolapse is a common condition of women past
middle age, with clinical symptoms are nonspecific. Many cases of rectocele occur along with other pelvic floor
disorders. Failure to recognize the complex set of pelvic floor defects leads to most therapy failures. The present
study evaluated correlations and defined the role of dynamic magnetic resonance defecography in diagnosis.
Methods: Describing cross-study. Patients with pelvic floor dysfunction had gone clinical examinations and
they were indicated dynamic MR defecography at University Medical Center HCM City by urologist or
gynecologist and proctologist.
Results: MR defecography of 1683 patients were evaluated from 01/2008 to 6/2012. Most patient are 40 to
50 years old with 2 to 3 parity. 1218 patients with incontinence. 1311 patients (77.9%) had rectocele. Prolapse of
the posterior compartment is the most common type of prolapse. Rectocele combined with more than one pelvic
* Bộ môn chẩn đoán hình ảnh – Đại học Y dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Võ Tấn Đức ĐT: 0903.633.186 Email: tanducvodhyd@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 526
organ prolapse 77.4%; 64.2% of the patients with anismus had rectocele. There are statistically significant in the
correlation of age, the number of birth with rectocele or pelvic organ prolapse (OR # 1.042.67 and p<0.005).
Risk of rectocele was higher in patients with pelvic organ prolapse than in patients without pelvic organ prolapse
(p<0.005).
Conclusions: Complex pelvic floor disorders often involve several compartments. Dynamic MR
Defecography allows both morphological and functional assessment of the pelvic floor, selecting the most
appropriate treatment.
Key words: Dynamic MR defecography, rectocele, pelvic organ prolapse, anismus.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các bệnh lý vùng sàn chậu như sa trực tràng
kiểu túi, sa các tạng chậu khá phổ biến ở nữ tuổi
trung niên đã từng sinh con, chiếm tỉ lệ khoảng
50% và hơn 10% trong số này phải điều trị bằng
phẫu thuật. Bệnh biểu hiện với các triệu chứng
rối loạn chức năng sàn chậu như đau vùng chậu,
cảm giác trằn nặng vùng chậu, giao hợp đau, rối
loạn đi tiểu, đại tiện khó, không hết phân, và
khoảng 16% có sa tạng chậu ra bên ngoài(13,20).
Bệnh thường liên quan đến nhiều khoang
chậu và dễ tái phát do không đánh giá đầy đủ
các tổn thương phối hợp trước khi điều trị và do
hiểu không đầy đủ sinh lý bệnh học. Nếu chẩn
đoán bệnh chỉ dựa vào khám lâm sàng, có đến
gần 50% trường hợp bỏ sót sa các tạng chậu(8,12).
Trước đây, X quang động học tống phân
đóng vai trò chính trong chẩn đoán bệnh lý sàn
chậu. Bệnh nhân bị ảnh hưởng tia X và phương
pháp này còn mang tính xâm lấn khi muốn khảo
sát các khoang chậu ở phía trước(14). Đến những
năm 1990, với sự phát triển của cộng hưởng từ,
kỹ thuật khảo sát động sàn chậu trở thành
phương tiện tốt có giá trị thay thế cho X quang
trong chẩn đoán các bệnh lý vùng sàn chậu.
Nghiên cứu này nhằm khảo sát mối tương
quan giữa STTKT và các bệnh lý khác của sàn
chậu trên bệnh nhân có biểu hiện rối loạn chức
năng sàn chậu bằng kỹ thuật chụp cộng hưởng
từ động.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu mô tả cắt ngang từ tháng
01/2008 đến tháng 06/2012 (4 năm rưỡi) tại Bệnh
viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng nghiên cứu là nữ với các biểu hiện
rối loạn chức năng sàn chậu được chỉ định chụp
cộng hưởng từ bởi các bác sĩ chuyên khoa tiết
niệu, phụ khoa hoặc hậu môn trực tràng. Các
trường hợp không hợp tác tốt hoặc phát hiện có
khối u vùng chậu, u trực tràng, bệnh
Hirschprungs, bệnh do thần kinh được loại bỏ.
Cách thức tiến hành
Bơm gel siêu âm vào trực tràng tạo cảm giác
mắc đại tiện.
Sử dụng máy cộng hưởng từ kín AVENTO
1.5T, đặt bệnh nhân nằm tư thế FOWLER với
cuộn thu tín hiệu bụng quấn ngang vùng chậu.
Dùng các chuỗi xung T2 HASTE và TRUFISP ghi
hình sàn chậu ở mặt cắt ngang, dọc và dọc giữa
qua các thì nghỉ, thót, rặn tống phân và làm
nghiệm pháp Valsalva.
Tiêu chuẩn chẩn đoán sa các khoang chậu
vẫn còn nhiều tranh cãi do nghiên cứu đánh giá
động học trên người bình thường với cỡ mẫu
quá nhỏ, chưa đại diện được cho dân số Chúng
tôi sử dụng đường mu cụt làm mốc với các định
nghĩa và ứng dụng tiêu chuẩn bên dưới để đánh
giá sàn chậu(1,2.4,5,7,10,11,19).
Chia sàn chậu thành các khoang: trước, giữa,
sau và túi cùng Douglas; tương ứng chứa các
tạng là bàng quang, tử cung / tiền liệt tuyến, hậu
môn-trực tràng và túi cùng có thể chứa ruột non,
đại tràng chậu hông hay mỡ phúc mạc.
Góc hậu môn-trực tràng: là góc tạo bởi trục
của ống hậu môn và đường tiếp tuyến với thành
sau đoạn xa của trực tràng. Giao điểm của hai
đường này chính là chỗ nối hậu môn-trực tràng.
Đường mu cụt: đường nối bờ dưới khớp mu
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 527
đến khớp hai xương cụt cuối cùng.
Sa các cơ quan sàn chậu: đánh giá khoảng
cách bằng đường vuông góc được nối từ chỗ
thấp nhất của các tạng chậu đến đường mu cụt.
Độ sa sàn chậu sau chia 4 mức: bình thường:
0<2cm; độ I: 2<4cm; độ II: 4<6cm; độ III:
≥6cm. Đo từ chỗ nối hậu môn-trực tràng đến
vuông góc với đường mu cụt.
Độ sa các cấu trúc khác chia 3 mức: độ I:
<3cm; độ II: 3<6cm; độ III: ≥6cm.
Sa trực tràng kiểu túi: sự phồng của thành
trực tràng ra phía trước > 0,5cm so với vị trí bình
thường. Phân loại theo độ sâu của túi: độ I: <
2cm; độ II: 24cm; độ III: >4cm.
Lồng trực tràng-hậu môn: là sự phát triển
nếp gấp > 0,3cm lõm vào thành trực tràng khi
rặn. Nếp gấp này có thể là niêm mạc hay toàn
thành trực tràng. Phân biệt lồng trực-trực tràng
khi khối lồng còn nằm trong trực tràng, lồng trực
tràng-hậu môn khi khối lồng nằm trong vùng
ống hậu môn và gọi là sa trực tràng khi khối
lồng sa hẳn ra ngoài.
Bệnh co thắt cơ mu trực tràng được chẩn
đoán dựa vào các yếu tố gợi ý sau:
Góc hậu môn-trực tràng giảm hoặc tăng ít
trong thì rặn so với thì nghỉ
Có hình ảnh ấn lõm phía thành sau trực
tràng của cơ mu trực tràng hoặc cơ thắt hậu môn
trong thì rặn
Tống gel ít hơn 2/3 lượng gel ban đầu trong
khoảng 60 giây
Bề dày cơ mu trực tràng trong thì rặn lớn
hơn trong thì nghỉ
Các triệu chứng lâm sàng chia 5 nhóm:
(TC1): Rối loạn đại tiện gồm đại tiện < 3 ngày
/ lần hoặc đại tiện khó, rặn nhiều, thời gian đại
tiện lâu, không hết phân sau đại tiện, dùng tay
trợ giúp khi đại tiện.
(TC2): Rối loạn đi tiểu: tiểu són, tiểu không
kiểm soát
(TC3): Cảm giác đau / trằn nặng hoặc có khối
chèn ép ở vùng chậu / hậu môn
(TC4): Có khối sa sinh dục, sa trực tràng ra
bên ngoài
(TC5): Giao hợp đau
Ghi nhận các yếu tố: triệu chứng lâm sàng,
số lần sanh con, tiền sử cắt tử cung; độ sa các
tạng, STTKT, bệnh có thắt cơ mu trực tràng, lồng
/ sa trực tràng.
Số liệu được xử lý với phần mềm STATA, sử
dụng hồi qui logistis với giá trị p<0,05 có có ý
nghĩa về mặt thống kê.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu gồm 1683 bệnh nhân, tuổi từ 14
đến 91, tuổi trung bình là 48 ± 15, phân phối
tương đối bình thường. Nhóm tuổi tập trung
nhiều nhất là 40-49 tuổi (25,4%).
1456 (86,5%) bệnh nhân đã từng sinh con với
số con từ 1-14. Nhóm có 2 và 3 con chiếm tỉ lệ
cao nhất là 37,6% và 20,6%. Có 50 trường hợp
(3%) đã cắt tử cung.
Nhóm triệu chứng rối loạn đại tiện nhiều
nhất với 1218 trường hợp. Có 246 trường hợp có
nhiều hơn một nhóm triệu chứng.
Bảng 1: Số trường hợp các loại triệu chứng
Loại triệu chứng Số trường hợp
Rối loạn đại tiện
Rối loạn đi tiểu
Đau / nặng / khối vùng chậu
Khối sa ra ngoài vùng chậu
Giao hợp đau
1218
137
506
79
2
Sa trực tràng kiểu túi
Tỉ lệ là 77,9% (1311 trường hợp), kích thước
túi trung bình là 2,8cm. Phân theo độ sâu của túi
cho thấy tỉ lệ STTKT mức độ II cao nhất 68,8% so
với độ I là 24,7% và độ III là 6,5%. Kích thước túi
càng lớn thì khả năng ứ đọng gel trong túi càng
tăng (p<0,001).
Tỉ lệ sa các khoang chậu
Khoang chậu sau có tỉ lệ sa nhiều nhất
92,5%; sa bàng quang là 65,5% và sa tử cung là
50,3%. Sa ruột non, đại tràng chậu hông tương
đối hiếm < 5%.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 528
0
100
200
300
400
500
600
700
800
900
KCS BQ TC SIGMA RN MPM
I
II
III
Biểu đồ 1: Phân phối mức độ sa các tạng chậu trong
thì rặn. (KCS : khoang chậu sau, BQ : sa bàng quang, TC :
sa tử cung, SIGMA : sa đại tràng chậu hông, RN : ruột
non, MPM : mỡ phúc mạc)
Sa nhiều hơn một khoang chậu trong các
trường hợp có STTKT là khá cao.
Bảng 2: Tỉ lệ STTKT kết hợp sa nhiều khoang sàn
chậu
Số khoang chậu sa Tần số (n=1311) Tỉ lệ %
0 53 4
1 283 21,6
2 261 19,9
3 540 41,2
4 174 13,3
Bệnh co thắt cơ mu trực tràng
165/1683 (9,8%) trường hợp có dấu hiệu gợi ý
chẩn đoán. Trong số này, 64,2% trường hợp có
STTKT.
35 trường hợp có lồng trực tràng đơn thuần
và 11 trường hợp sa trực tràng.
Mối liên quan giữa tuổi, số con với STTKT
hay sa các khoang chậu (trừ khoang túi cùng
Douglas) đều có ý nghĩa về mặt thống kê với OR
# 1,042,67 (p<0,005).
Nguy cơ hình thành STTKT ở nhóm có sa các
tạng chậu cao hơn nhóm không sa với PR #
1,162,1 (p<0,005). Cắt tử cung là yếu tố làm
tăng nguy cơ sa các cấu trúc trong khoang túi
cùng Douglas lên 3,1 lần (p<0,005).
Mối liên quan giữa sa khoang chậu sau ở thì
nghỉ, thì rặn và độ chênh giữa hai thì với tuổi và
số con được biểu diễn theo phương trình hồi qui
với:
M(n) = 0,53 + 0,02t + 0,04sc
M(r) = 3,25 + 0,014t + 0,09sc hoặc M(r) = 3,09 +
0,52M(n) + 0,08sc
DM = 2,721 – 0,007t + 0,048sc
(M(n): độ hạ sàn chậu sau thì nghỉ, M(r) : thì
rặn, DM: M(r) – M(n) ; t: tuổi, sc: số con).
STTKT kèm sa ba khoang chậu lớn STTKT kèm sa toàn bộ 4 khoang chậu
Ở nhóm có STTKT, độ hạ xuống của sàn
chậu sau trong thì nghỉ hoặc thì rặn nhiều hơn so
với nhóm không có STTKT; và ngược lại, khi độ
hạ xuống của khoang chậu tăng thêm 1 cm trong
các thì nghỉ / rặn / độ chênh lệch giữa thì rặn –
thì nghỉ thì nguy cơ hình thành STTKT cũng
tăng tương ứng là 1,18; 1,58 và 1,53 lần (p<0,005).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 529
Điều này cho thấy STTKT và độ hạ xuống của
sàn chậu sau có tác động qua lại lẫn nhau.
BÀN LUẬN
Bệnh lý sàn chậu thường liên quan đến cả rối
loạn hình thái và chức năng của các cấu trúc
trong vùng chậu. Hỏi bệnh sử, khám lâm sàng
chính xác kết hợp với X quang động trực tràng
và đánh giá chức năng sinh lý hậu môn trực
tràng có thể đủ để chẩn đoán các rối loạn tống
phân. Tuy nhiên, không xác định đầy đủ các
bệnh lý sàn chậu dễ dẫn đến thiếu sót trong điều
trị, nhất là về mặt phẫu thuật.
Độ tuổi trung niên và số con trung bình 2-3
trong nghiên cứu cũng gần tương đồng với đặc
điểm chung của nhiều nghiên cứu khác(10,11,20).
Chúng tôi còn nhận thấy rằng yếu tố tuổi và sinh
con dù xét riêng lẻ hay đồng thời thì đều có liên
quan đến tăng nguy cơ hình thành STTKT và sa
các khoang chậu.
Nghiên cứu của chúng tôi có những trường
hợp bệnh nhân không có biểu hiện triệu chứng
lẫn trên chẩn đoán thăm khám của bác sĩ lâm
sàng nhưng có biểu hiện hình ảnh bệnh lý bất
thường. Ví dụ như sa bàng quang ở bệnh nhân
không có són tiểu, hoặc ngược lại có STTKT trên
bệnh nhân đến khám vì tiểu són, có hình ảnh sa
toàn bộ các khoang chậu kèm STTKT ở bệnh
nhân có triệu chứng đại tiện khó Kết quả này
tương tự với các nghiên cứu trước đây, cho thấy
tính không đặc hiệu của lâm sàng(6,12) và sự phức
tạp của bệnh lý sàn chậu(7,10,14,15).
Sự kết hợp STTKT kèm sa nhiều hơn một
khoang sàn chậu cũng như mối liên quan của
chúng đã được chứng minh trong nghiên cứu.
STTKT và mức độ sa sàn chậu sau có tác động
qua lại lẫn nhau, có túi sa thì mức độ sàn chậu
càng nhiều và khi mức độ sa sàn chậu sau
tăng thì nguy cơ hình thành túi sa cũng tăng,
khó giải thích được đâu là nguyên nhân và
đâu là hậu quả. Qua đó càng thấy rõ sự phức
tạp của bệnh lý sàn chậu là do nhiều yếu tố
nguy cơ tác động ảnh hưởng chung đến toàn
bộ hệ thống mạc, cân, dây chằng và các cơ
nâng đỡ sàn chậu, từ đó gây ra các bất thường
được biểu hiện đồng thời ở nhiều khoang.
Điều này cũng được các nhà phẫu thuật công
nhận khi đối chiếu trong lúc mổ(3,4).
Nghiên cứu này cũng như của các tác giả
Timmons MC(18), Symmonds RE và cs(17) cho thấy
tăng nguy cơ sa các cấu trúc vào khoang túi cùng
Douglas ở bệnh nhân sau phẫu thuật cắt tử cung.
Tỉ lệ STTKT ở nhóm bệnh nhân có dấu hiệu
chẩn đoán bệnh lý co thắt cơ mu trực tràng của
chúng tôi là 64,2%, tương tự với tác giả
Siproudhis(16) và Johansson(9) là 62 - 71%. Sự co
thắt của cơ mu trực tràng gây tắc nghẽn đường
ra của phân, giảm khả năng tống phân và đại
tiện khó, tăng nguy cơ hình thành STTKT.
KẾT LUẬN
Có mối tương quan giữa STTKT và các bệnh
lý khác của sàn vùng chậu cho thấy đây là vấn
đề phức tạp, cần được chẩn đoán đầy đủ và
chính xác. Với chất lượng hình ảnh cao rõ nét,
bệnh nhân không bị ảnh hưởng của tia xạ và chỉ
trong một lần khảo sát có thể đánh giá được
đồng thời toàn bộ các khoang chậu, cộng hưởng
từ động sàn chậu thực sự là phương tiện cần
thiết không thể thiếu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barbaric ZL, Marumoto AK (2001). MRI of the Perineum and
Pelvic Floor. Topic in Magnetic Resonance Imaging 12:83-92.
2. Chu WC, Tam YH, Lam WW (2007). Dynamic MR assessment
of the anorectal angle and puborectalis muscle in pediatric
patients with anismus: Technique and feasibility. J Magn
Reson Imaging, 25:1067-72
3. Fernando G. De Almeida, Larissa V.Rodríguez, Shlomo Raz.
Magnetic Resonance Imaging in the Diagnosis of pelvic floor
disorders. Urological Neurology 2002; 28:553-559
4. Fielding JR (2002). Practical MR Imaging of Female Pelvic
Floor Weakness. RadioGraphics, 22:295-304
5. Fustus E.Roos, Dominik Weishaupt, Simon Wildermuth
(2002). Experience of 4 Years with Open MR Defecography:
Pictorial Review of Anorectal Anatomy and Disease.
RadioGraphics, 22: 817-832
6. Gupta S, Sharma JB (2012). Study of Dynamic MR imaging in
diagnosis of pelvic organ prolapse. Arch Gyneco Obstet,
286:953-958
7. Healy JC, Halligan S, Reznek RH (1997). Dynamic MR
Imaging Compared with Evacuation Proctography when
Evaluating Anorectal Configuration and Pelvic Floor
Movement. AJR, 169: 775-779.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 2 * 2014
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2013 530
8. Healy JC, Halligan S, Reznek RH (1997). Patterns of prolapse
in women with symptoms of pelvic floor weakness:
assessment with MR imaging, 203:77-81.
9. Johansson C, Nilsson BY (1992). Association between rectocele
paradoxical sphincter response. Dis Colon Rectum, 35:503-9
10. Kruyt RH, Delemarre JB, Doornbos J, Vogel HJ (1991). Normal
anorectum: dynamic MR imaging anatomy. Radiology,
179:159–163.
11. Lamb GM, De Jode MG, Guold SW (2000). Upright dynamic
MR defeacating proctography in an open configuration MR
system. The British Journal of Radiology, 73:152-155
12. Maglinte DD, Kelvin FM, Fitzgerald K (1999). Association of
compartment defects in pelvic floor dysfunction. AJR, 172:439-
444.
13. Maglinte DD, Kelvin FM, Hale DS (1997). Dynamic
cystoproctography: a unifying diagnostic approach to pelvic
floor and anorectal dysfunction. AJR Am J Roentgenol,
169(3):759–767.
14. Maglinte DD, Kelvin FM, Hale DS (2000). Female pelvic organ
prolapse: A comparision of triphasic dynamic MR imaging
and triphasic fluoroscopic cystocolpoproctography. AJR
174(1):81-88.
15. Rentsch M, Lenhart M, Paetzel Ch (1999). Dynamic MR
imaging defecography: A diagnostic alternative in the
assessment of pelvic floor disorders in proctology. Dis Colon
Rectum, 44(7):999-1007
16. Siproudhis L., Dautrème S. (1993). Dyschezia and rectocele-a
marriage of convenience? Physiologic evaluation of the
rectocele in a group of 52 women complaining of difficulty in
evacuation. Dis Colon Rectum, 36:1030-6
17. Symmonds RE, Williams TJ (1981). Posthysterecomy
enterocele and vaginal vault prolapse. AmJ Obstet Gynecol,
140:852-859
18. Timmons MC, Addition WA (1992). Abdominal sacral
colpopexy in 163 women with posthysterecomy vaginal vault
prolapse and enterocele. Evoluation of operative techniques. J.
Reprod Med, 37:323-327.
19. Van Dam JH, Ginai AZ, Gosselink MJ (1997). Role of
defecography in predicting clinical outcome of rectocele
repair. Dis Colon Rectum, 40:201-7.
20. Yang A, Mostwin JL, Rosenshein NB (1991). Pelvic floor
descent in women: dynamic evaluation with fast MR imaging
and cinematic display. Radiology, 179(1):25-33.
Ngày nhận bài báo: 24/02/2014
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 07/03/2014
Ngày bài báo được đăng: 30/05/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_su_tuong_quan_giua_sa_truc_trang_kieu_tui_voi_cac_b.pdf