KẾT LUẬN
Qua thực nghiệm nghiên cứu về tác động
kháng viêm khớp của bùn khoáng Đakai, chúng
tôi rút ra một số kết luận như sau:
Trên mô hình viêm khớp cấp tính: bùn
khoáng có tác động làm giảm sưng viêm
khớp gối trong quá trình thử nghiệm. Tác
động này thể hiện rõ rệt ở thời điểm 51 giờ
và 75 giờ.
Trên mô hình viêm khớp mạn tính: sau
khi gây viêm trong vòng 19 ngày, chúng tôi
tiến hành khảo sát từ ngày 20 đến ngày 26.
Bùn khoáng thể hiện tác động làm giảm
sưng viêm khớp từ ngày 21 và tác động này
kéo dài đến hết quá trình thử nghiệm.
Trên thang điểm đánh giá đau khớp cấp
và mạn tính bùn khoáng làm giảm điểm số
đau khớp ở thời điểm 27 giờ và 51 giờ sau
khi gây viêm. Tuy nhiên tác động giảm đau
này không có khác biệt có ý nghĩa thống kê
so với lô bệnh. Khi đánh giá trên mô hình
viêm khớp mạn tính mức đau của chuột ở lô
bùn khoáng có xu hướng giảm nhanh hơn so
với chuột lô bệnh, thể hiện rõ ở thời điểm từ
ngày 23 trở đi. Tuy nhiên điểm đau khớp gối
chân chuột ở lô bùn khoáng và lô bệnh trong
7 ngày không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 33 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tác động kháng viêm khớp cấp và mạn tính của bùn khoáng Đakai trên chuột nhắt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Dược Học 434
KHẢO SÁT TÁC ĐỘNG KHÁNG VIÊM KHỚP CẤP
VÀ MẠN TÍNH CỦA BÙN KHOÁNG ĐAKAI TRÊN CHUỘT NHẮT
Trần Như Quỳnh*, Lê Thị Xuân Mai**, Đỗ Thị Hồng Tươi*, Trần Thanh Nhãn*, Trần Mạnh Hùng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hiện nay, bùn khoáng được dùng phổ biến trên thế giới để hỗ trợ điều trị viêm khớp. Trong
nghiên cứu này chúng tôi tiến hành khảo sát tác động kháng viêm của bùn khoáng ĐaKai trên mô hình viêm khớp
cấp và mạn tính ở chuột nhắt.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trên chuột nhắt trắng chủng Swiss
albino; chất thử nghiệm là bùn khoáng ĐaKai và thuốc đối chiếu là Ketoprofen; mô hình thử nghiệm là mô hình
viêm khớp cấp và mạn tính gây bởi Carrageenan 2%.
Kết quả: Trên mô hình gây viêm khớp cấp: bùn khoáng ĐaKai làm giảm mức độ sưng viêm khớp khác biệt có
ý nghĩa thống kê so với lô bệnh vào thời điểm 51h, 75h sau gây viêm. Trên mô hình gây viêm khớp mạn: sau khi
gây viêm khớp trong 21 ngày, bùn khoáng Đakai có tác dụng làm giảm mức độ sưng viêm khớp trong quá trình
điều trị so với lô bệnh. Trên cả 2 mô hình, tác dụng kháng viêm của bùn khoáng Đakai tương đương với
ketoprofen. Bùn khoáng ĐaKai chưa thể hiện tác dụng giảm đau khớp trên cả 2 mô hình.
Kết luận: Bùn khoáng ĐaKai làm giảm sưng viêm khớp trên cả 2 mô hình viêm khớp cấp và mạn tính.
Từ khóa: Bùn khoáng Đakai, Carrageenan, Viêm khớp, chuột nhắt
ABTRACT
STUDY ON ANTI-INFLAMMATORY EFFECT OF MUD PACK DAKAI
IN THE MOUSE MODEL OF ARTHRITIS
Tran Nhu Quynh, Le Thi Xuan Mai, Do Thi Hong Tuoi, Tran Thanh Nhan, Tran Manh Hung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 4 - 2013: 434 - 439
Introduction: Recently, mud pack has been widely used for supportive treatment of arthritis. In this study,
we investigated the anti-inflammatory effect of mud pack DaKai in mouse models of acute and chronic arthritis.
Materials and Methods: Study was done in Swiss albino mice; anti-inflammatory effect of mud pack
DaKai was compared with ketoprofen in a mouse model of arthritis induced by carrageenan 2%.
Results: In the mouse model of acute arthritis: mud pack DaKai reduced join swelling at 51h and 75h after
the first intra-articular injection of carrageenan. In the mouse model of chronic arthritis: after 21 days inducing
join inflammation, mud pack DaKai reduced join swelling during treatment period. In both model, the anti-
inflammatory effect of mud pack was similar to ketoprofen. Mud pack DaKai did not reduce pain score.
Conclusions: Mud pack DaKai exerted anti-inflammatory effect manifested by reducing joint inflammation
in both models of acute and chronic arthritis.
Key words: Dakai mud pack, Carrageenan, Arthritis, Mouse
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay các bệnh về cơ xương khớp nhất là
thấp khớp, viêm khớp cấp, mạn, thoái hóa khớp,
gai cột sống, viêm đa khớp ngày càng trở nên
phổ biến ở các nước khí hậu nhiệt đới như Việt
Nam. Triệu chứng toàn phát thường là khớp bị
* Khoa Dược, ĐH Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất Đồng Nai
Tác giả liên lạc: PGS.TS. Trần Mạnh Hùng ĐT: 0937746596 Email: tranmanhhung@uphcm.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Học 435
viêm sưng, đau, đặc biệt đau nhiều về đêm,
cứng khớp buổi sáng dẫn đến hạn chế vận động.
Việc dùng thuốc hóa dược để điều trị những
bệnh này tồn tại một số nhược điểm nhất định
về vấn đề chi phí cũng như các tác dụng phụ của
thuốc trên dạ dày, ruột Chính vì thế, hiện nay
người ta có xu hướng dùng lại các phương pháp
thời xưa, gần gũi với thiên nhiên để hỗ trợ điều
trị, giảm số lượng sử dụng, hạn chế tác dụng
phụ của thuốc hóa dược. Một trong những
phương pháp đó là sử dụng nước khoáng và
bùn khoáng(1).
Việt Nam có hơn 400 nguồn nước khoáng
khác nhau với 280 nguồn đã được nghiên cứu
khá đầy đủ về thành phần, tính chất. Trong đó,
ngoài ứng dụng để thư giãn, chăm sóc sắc đẹp,
các nguồn khoáng nóng đã được một số trung
tâm nước khoáng như Mỹ Lâm, Tháp Bà (Khánh
Hòa), Bình Châu (Bà Rịa-Vũng Tàu) hay Tuyên
Quang dùng điều trị bệnh thấp khớp.
Nguồn nước khoáng ĐaKai đã được nghiên
cứu đầy đủ về tính chất lý hóa, vi sinh và đã
được sản xuất ở qui mô công nghiệp làm nước
uống đóng chai từ 1994(4). Tuy nhiên chưa có
nghiên cứu dược lý nào về tác dụng giảm đau,
giảm viêm của bùn khoáng được sản xuất từ
nguồn nước khoáng ĐaKai này.
Từ những lý do nêu trên, chúng tôi tiến hành
đề tài nghiên cứu “Khảo sát tác động kháng
viêm của bùn khoáng ĐaKai trên mô hình viêm
khớp cấp tính và mạn tính’’. Kết quả nghiên cứu
của đề tài này là cơ sở khoa học nhằm hướng
đến triển khai thử nghiệm lâm sàng hiệu quả hổ
trợ điều trị của bùn khoáng ĐaKai trên bệnh
nhân viêm khớp.
VẬT LIỆU - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thú vật thử nghiệm
Chuột nhắt trắng chủng Swiss albino, giống
đực, khỏe mạnh, không có biểu hiện bất thường,
có trọng lượng khoảng 24 ± 2 gam, do Viện
Vắc-xin và Sinh phẩm Y Tế Nha Trang
cung cấp. Hàng ngày chuột được cung cấp đầy
đủ thức ăn và nước uống.
Hóa chất và thuốc thử nghiệm
Carrageenan được cung cấp bởi Sigma
Aldrich và pha thành hỗn dịch carrageenan 2%;
bùn khoáng ĐAKAI do bộ môn Sinh hóa, Khoa
dược cung cấp. Thuốc đối chiếu: gel Ketoprofen
thoa da (Profenid gel 2,5%, Sanofi Aventis), một
NSAID có tác động kháng viêm, giảm đau, sốt.
Phương pháp thử nghiệm
Khảo sát tác động kháng viêm khớp cấp tính(3)
Chuột được gây viêm khớp cấp bằng cách
tiêm vào khớp gối ở chân phải sau liều duy nhất
5 µL hỗn dịch carrageenan 2%. Chu vi khớp gối
được đo trước khi tiêm và ở các thời điểm 3-27-
51-75 giờ sau khi tiêm carrageenan hoặc dung
dịch sinh lý. Bùn khoáng được đắp lên khớp gối
(100mg, 2 lần/ngày), thuốc đối chứng ketoprofen
2,5% dạng gel được thoa 10 mg, 2 lần/ngày. Theo
dõi và đánh giá mức độ kháng viêm khớp dựa
vào sự khác biệt của chu vi và mức độ đau của
khớp gối chân vào các thời điểm 3, 27, 51 và 75
giờ sau khi tiêm carrageenan.
Khảo sát tác động kháng viêm khớp mạn tính(2)
Chuột được gây viêm khớp mạn tính bằng
cách tiêm vào khớp gối chân phải sau 5 µL hỗn
dịch carrageenan 2%, 7 liều, cách mỗi 3 ngày
trong 19 ngày. Hiệu quả kháng viêm khớp mạn
tính của bùn khoáng Đakai hoặc thuốc đối
chứng ketoprofen được đánh giá từ ngày 21 đến
ngày 27 (sau khi đắp 100 mg bùn khoáng hoặc 10
mg ketoprofen lên khớp gối, mỗi ngày 2 lần cách
nhau 6 giờ vào thời điểm nhất định trong ngày).
Theo dõi và đánh giá mức độ kháng viêm khớp
dựa vào sự khác biệt của chu vi và mức độ đau
của khớp gối trong 1 tuần sau khi tiêm liều cuối
cùng carrageenan hoặc nước muối sinh lý (từ
ngày 21 đến ngày 27).
Đánh giá mức độ đau(2)
Chuột được đặt trong bocal thủy tinh trong
suốt đường kính 20 cm, cao 30 cm. Đặt máy quay
phim phía dưới bocal sao cho bao quát hết đáy
bocal. Tiến hành quay phim trong 5 phút khi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Dược Học 436
chuột hoạt động nhiều nhất. Đánh giá độ đau
của khớp theo thang điểm như sau:
0 = lực đặt chân bình thường, trọng lượng
đặt trên 2 chân như nhau.
1 = lực đặt lên chân nhẹ, bàn chân đặt hoàn
toàn trên sàn nhưng các ngón chân không trải
đều.
2 = lực đặt lên chân trung bình, bàn chân
cong với một phần chân chạm nhẹ lên đáy bocal.
3 = đau nặng, chân hoàn toàn đưa lên khỏi
đáy bocal.
Điểm 0,5-1,5- 2,5 cho biểu hiện ở giữa các
mức đã mô tả.
Phân tích kết quả và thống kê
Kết quả được trình bày dưới dạng giá trị
trung bình ± sai số chuẩn của giá trị trung bình
(Mean ± SEM) và được đánh giá ý nghĩa thống
kê bằng phép kiểm Mann-Whitney.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Khảo sát tác động kháng viêm khớp cấp
của bùn khoáng Đakai
Chuột thí nghiệm được chia thành 4 lô sau:
- Lô chứng: tiêm vào khớp gối chân phải sau
liều duy nhất 5 µL dung dịch NaCl 0,9%
- Lô gây viêm khớp: tiêm vào khớp gối chân
phải sau liều duy nhất 5 µL hỗn dịch
Carrageenan 2%.
- Lô bùn khoáng Đakai: chuột được tiêm
vào khớp gối chân phải sau liều duy nhất 5
µL hỗn dịch carrageenan 2% + đắp 100 mg
bùn khoáng lên khớp gối (2 lần/ngày).
- Lô ketoprofen: chuột được tiêm vào
khớp gối chân phải sau liều duy nhất 5 µL
hỗn dịch carrageenan 2% + thoa 10 mg
ketoprofen 2,5% dạng gel lên khớp gối chân
(2 lần/ngày).
Độ giảm chu vi khớp gối chân chuột ở lô
chứng, lô bệnh, lô thử và lô đối chứng tại các
thời điểm 3 giờ, 27 giờ, 51 giờ, 75 giờ sau khi
tiêm carrageenan hoặc nước muối được thể hiện
ở hình 1.
Sau khi gây viêm chúng tôi nhận thấy chu vi
khớp gối chân chuột ở lô gây viêm bằng
carrageenan tăng vào thời điểm 27 giờ, sau đó có
xu hướng giảm xuống. Còn ở lô đắp bùn khoáng
và lô bôi ketoprofen chu vi khớp gối chân chuột
thể hiện xu hướng giảm ngay sau khi tiêm
carrageenan 3 giờ.
Hình 1. Mức độ giảm chu vi khớp gối tính từ thời điểm 3 giờ sau khi gây viêm và bôi thuốc ở các lô thử nghiệm
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Học 437
Độ giảm chu vi khớp gối chân chuột giữa lô
gây viêm và lô đắp bùn khoáng khác biệt có ý
nghĩa thống kê (P<0,05) chứng tỏ bùn khoáng
góp phần làm giảm sưng viêm khớp gối chân
chuột trong mô hình gây viêm khớp cấp.
Tác động của bùn khoáng không khác biệt có
ý nghĩa thống kê so với ketoprofen.
Ở lô chứng, không có sự khác biệt về chu vi
khớp gối vì thế tiêm nước muối sinh lý không
gây ảnh hưởng đến kết quả gây viêm bằng
carrageenan.
Khảo sát tác động kháng viêm khớp mạn
tính của bùn khoáng Đakai
Thí nghiệm được tiến hành trên các lô thử
nghiệm sau:
- Lô chứng: tiêm vào khớp gối chân phải
sau 5 µL dung dịch NaCl 0,9% cách mỗi 3
ngày, với tổng số lần tiêm là 7 lần (từ ngày 1
đến ngày 19).
- Lô gây viêm khớp mạn tính: tiêm vào
khớp gối ở chân phải sau 5 µL hỗn dịch
carrageenan 2%, cách mỗi 3 ngày, với tổng
số lần tiêm là 7 lần (từ ngày 1 đến ngày 19).
- Lô bùn khoáng: tiêm vào khớp gối ở
chân phải sau 5 µL hỗn dịch carrageenan 2%,
cách mỗi 3 ngày, với tổng số lần tiêm là 7 lần
(từ ngày 1 đến ngày 19); từ ngày 21 đến ngày
27, đắp 100 mg bùn khoáng lên khớp gối,
mỗi ngày 2 lần cách nhau 6 giờ vào thời
điểm nhất định trong ngày.
- Lô ketoprofen: tiêm vào khớp gối ở
chân phải sau 5 µL hỗn dịch carrageenan 2%,
cách mỗi 3 ngày trong 19 ngày; từ ngày 21
đến ngày 27, thoa 10 mg ketoprofen 2,5%
dạng gel lên khớp gối chân, mỗi ngày 2 lần
cách nhau 6 giờ vào thời điểm nhất định
trong ngày.
Sau khi chuột được gây viêm khớp trong 19
ngày, hiệu quả kháng viêm của bùn khoáng
Đakai được đánh giá trong 7 ngày (từ ngày 21
đến ngày thứ 27) và so sánh với ketoprofen. Độ
giảm chu vi khớp gối ở lô chứng, lô bệnh, lô thử
và lô đối chứng trong thời gian điều trị 7 ngày so
với trước khi điều trị được thể hiện ở hình 2.
Hình 2. Mức độ giảm chu vi khớp gối tính từ ngày 21 đến ngày 27 sau khi gây viêm ở các lô thử nghiệm
Chúng tôi nhận thấy ở lô bùn khoáng, lô
ketoprofen chu vi khớp gối chân chuột giảm đều
từ ngày đầu cho đến suốt quá trình điều trị.
So với độ giảm chu vi khớp ở lô bệnh, chu
vi khớp ở lô bùn khoáng giảm nhanh và giảm
một cách khác biệt có ý nghĩa thống kê với
P<0,01 so với lô bệnh từ ngày điều trị thứ hai
đến ngày thứ bảy của đợt điều trị. Điều này
chứng tỏ bùn khoáng có tác dụng làm giảm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013
Chuyên Đề Dược Học 438
sưng viêm khớp gối chân chuột trong mô hình
gây viêm khớp mạn.
Tác động của bùn khoáng ở lô bùn khoáng
không khác biệt có ý nghĩa thống kê so với lô
ketoprofen.
Khảo sát tác động giảm đau của bùn
khoáng trên mô hình viêm khớp cấp và
mạn tính
Thí nghiệm được tiến hành trên các lô thử
nghiệm đã được mô tả ở trên. Thang điểm đau
được đánh giá thông qua thang điểm đánh giá
hành vi đau ở khớp chuột với các mức độ từ 0-4
với 0 là không đau (lực đặt bàn chân lên bocal
bình thường) và 4 là đau nặng (phải nhất chân
khỏi đáy bocal). Kết quả thử nghiệm được trình
bày ở bảng 1 và bảng 2.
Bảng 1. Điểm đau của lô chứng, lô bệnh, lô thử và lô đối chứng tại các thời điểm sau gây viêm khớp cấp
Lô
Điểm đau khớp gối
Sau 3 giờ Sau 27 giờ Sau 51 giờ Sau 75 giờ
Lô chứng (n=5) 0,6 ± 0,1 0,1 ± 0,1 0,0 ± 0,0 0,0 ± 0,0
Lô bệnh (n=5) 1,8 ± 0,2 1,8 ± 0,1 1,6 ± 0,2 1,5 ± 0,2
Lô bùn khoáng (n=5) 1,9 ± 0,5 1,4 ± 0,4 0,8 ± 0,2 0,7 ± 0,2
Lô ketoprofen (n=5) 1,6 ± 0,4 1,3 ± 0,2 1,2 ± 0,2 1,1 ± 0,19
Điểm đau khớp gối chân chuột ở lô chứng
cao nhất là 0,6 sau khi tiêm sau đó giảm về mức
0. Điều này cho thấy phương pháp tiêm nước
muối sinh lý không gây ảnh hưởng đến kết quả
đánh giá điểm đau ở ba lô còn lại.
Điểm đau khớp gối chân chuột ở lô bệnh
(carrageenan) vào thời điểm 3 giờ sau khi tiêm là
1,8 ± 0,2. Điểm đau này chỉ giảm nhẹ trong quá
trình thử nghiệm và đến thời điểm 75 giờ sau khi
tiêm là 1,5 ± 0,2. Mức độ giảm là 0,3 điểm.
Điểm đau khớp gối chân chuột ở lô bùn
khoáng vào thời điểm 3 giờ sau khi tiêm là 1,9 ±
0,5. Điểm đau này giảm nhiều và giảm nhanh
trong quá trình thử nghiệm. Đến thời điểm 75
giờ sau khi tiêm, điểm đau là 0,7 ± 0,2. Mức độ
giảm là 1,2 điểm.
Điểm đau khớp gối chân chuột ở lô
ketopfofen vào thời điểm 3 giờ sau khi tiêm là 1,6
± 0,4. Điểm đau này giảm trong quá trình thử
nghiệm. Đến thời điểm 75 giờ sau khi tiêm, điểm
đau là 1,1 ± 0,2. Mức độ giảm là 0,5 điểm.
Mặc dù không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê giữa lô thử, lô đối chiếu so với lô bệnh
nhưng thông qua hình vẽ có thể nhận thấy điểm
đau của lô thử và lô đối chiếu giảm nhanh hơn
so với lô bệnh, rõ rệt ở thời điểm 27 giờ và 51 giờ
sau khi tiêm trong khi ở lô bệnh điểm đau hầu
như giảm rất ít giữa các thời điểm.
Phương pháp chấm điểm chúng tôi dùng có
thể không đủ nhạy để đánh giá mức độ đau
khớp gối chân chuột, có thể do sự thay đổi mức
độ đau khớp và hành vi của chuột biểu hiện
không rõ ràng để có thể ghi nhận kết quả.
Bảng 2. Điểm đau của các lô thử nghiệm trong 7 ngày điều trị (ngày 21-27) ở mô hình viêm khớp mạn
Lô chuột
Điểm đau khớp gối
Ngày 19 Ngày 20 Ngày 21 Ngày 22 Ngày 23 Ngày 24 Ngày 25 Ngày 26
Lô chứng (n=6) 0,3 ± 0,2 0,3 ± 0,2 0,2 ± 0,1 0,2 ± 0,1 0,2 ± 0,1 0,2 ± 0,1 0,2 ± 0,1 0,1 ± 0,1
Lô bệnh (n=7) 1,7 ± 0,2 1,6 ± 0,2 1,6 ± 0,2 1,6 ± 0,2 1,4 ± 0,2 1,4 ± 0,2 1,2 ± 0,2 1,3 ± 0,2
Bùn khoáng (n=6) 1,7 ± 0,4 1,6 ± 0,4 1,5 ± 0,3 1,2 ± 0,4 1,2 ± 0,3 0,8 ± 0,4 0,8 ± 0,4 0,8 ± 0,3
Ketoprofen (n=7) 1,4 ± 0,2 1,4 ± 0,2 1,7 ± 0,2 1,5 ± 0,2 1,5 ± 0,2 1,1 ± 0,2 1,1 ± 0,2 0,9 ± 0,2
Điểm đau khớp gối chân chuột ở lô chứng
cao nhất là 0,3 sau khi tiêm sau đó giảm về mức
0,1. Điểm đau khớp gối chân chuột ở lô bùn
khoáng có xu hướng giảm dần qua các ngày. Cụ
thể vào ngày trước khi điều trị điểm đau lô này
là 1,7 ± 0,4. Sau điều trị một ngày điểm đau ở lô
này hầu như chưa có sự thay đổi đáng kể. Vào
ngày 21, ngày 22 điểm đau giảm nhẹ và đến
ngày 24 điểm đau là 0,8 ± 0,4. Mức giảm về độ
đau khá rõ và kéo dài đến hết quá trình điều trị.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Dược Học 439
Trong khi đó ở lô bệnh điểm đau trước khi
điều trị là 1,7 ± 0,2. Điểm đau này hầu như giảm
rất ít đến ngày 23 và ngày 24 điểm đau của lô
này là 1,4 ± 0,2. Mức giảm về độ đau có chuyển
biến nhưng không đáng kể.
Ở lô ketoprofen điểm đau ngày trước khi
điều trị là 1,4 ± 0,2 và có xu hướng tăng đến ngày
21 sau đó giảm xuống đến cuối đợt điều trị điểm
đau là 0,9 ± 0,2. Mức độ giảm là 0,5 điểm.
Điểm đau khớp gối chân chuột ở lô bùn
khoáng và lô bệnh trong 7 ngày không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Có thể sự thay
đổi độ đau của chuột kém nhạy và thể hiện
không rõ ràng.
KẾT LUẬN
Qua thực nghiệm nghiên cứu về tác động
kháng viêm khớp của bùn khoáng Đakai, chúng
tôi rút ra một số kết luận như sau:
Trên mô hình viêm khớp cấp tính: bùn
khoáng có tác động làm giảm sưng viêm
khớp gối trong quá trình thử nghiệm. Tác
động này thể hiện rõ rệt ở thời điểm 51 giờ
và 75 giờ.
Trên mô hình viêm khớp mạn tính: sau
khi gây viêm trong vòng 19 ngày, chúng tôi
tiến hành khảo sát từ ngày 20 đến ngày 26.
Bùn khoáng thể hiện tác động làm giảm
sưng viêm khớp từ ngày 21 và tác động này
kéo dài đến hết quá trình thử nghiệm.
Trên thang điểm đánh giá đau khớp cấp
và mạn tính bùn khoáng làm giảm điểm số
đau khớp ở thời điểm 27 giờ và 51 giờ sau
khi gây viêm. Tuy nhiên tác động giảm đau
này không có khác biệt có ý nghĩa thống kê
so với lô bệnh. Khi đánh giá trên mô hình
viêm khớp mạn tính mức đau của chuột ở lô
bùn khoáng có xu hướng giảm nhanh hơn so
với chuột lô bệnh, thể hiện rõ ở thời điểm từ
ngày 23 trở đi. Tuy nhiên điểm đau khớp gối
chân chuột ở lô bùn khoáng và lô bệnh trong
7 ngày không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê.
TÀI LIỆU TAM KHẢO
1. Carara C (2004), ‘’Anti-inflammatory effect of mud-bath
applications on adjuvant arthritis in rats’’, Clinical and
Experimental Rheumatology, 22:763-766.
2. Hansra P, et al (2000), ‘’Carrageenan-induced arthritis in the
rat’’, Inflammation, 24 (2):141-155.
3. Hwang HJ1, Lee HJ, Kim CJ, Shim I, Hahm DH. (2008),
‘’Inhibitory Effect of Amygdalin on Lipopolysaccharide-
Inducible TNF-α and IL-1β mRNA Expression and
Carrageenan-Induced Rat Arthritis’’, Journal of Microbiology
and Biotechnology, 18 (10):1641-1647.
4. Lê Thị Xuân Mai, Trần Thanh Nhãn (2008), ‘’ Khảo sát nước
khoáng và bùn khoáng tự nhiên từ nguồn ĐaKai’’, Thông tin
khoa học và công nghệ.
Ngày nhận bài: 14.12.2012
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 22.12.2012
Ngày bài báo được đăng: 10.03.2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_tac_dong_khang_viem_khop_cap_va_man_tinh_cua_bun_kh.pdf