KẾT LUẬN
1. Acinetobacter baumannii có tỷ lệ đề kháng
rất cao với imipenem (91,76%) và meropenem
(94,12%). Acinetobacter baumannii vẫn còn rất
nhạy cảm với colistin (92,94%).
2. Colistin khi phối hợp với imipenem hay
meropenem có khả năng tạo các tác dụng hiệp
đồng với tỷ lệ cao (lần lượt là 32,94% và 45,88%)
đối với Acinetobacter baumannii.
3. Colistin khi phối hợp với imipenem hay
meropenem có khả năng tạo các tác dụng cộng
lực với tỷ lệ cao (lần lượt là 58,82% và 51,76%)
đối với Acinetobacter baumannii.
4. Colistin khi phối hợp với imipenem hay
meropenem có khả năng chuyển các chủng
không nhạy imipenem hay meropenem thành
nhạy ở các nồng độ colistin dưới MIC có ý nghĩa
về mặt lâm sàng.
5. So sánh giữa imipenem và meropenem thì
meropenem khi phối hợp với colistin cho tác
dụng chuyển chủng từ không nhạy meropenem
thành nhạy meropenem mạnh hơn tác dụng
tương tự của phối hợp imipenem/colistin đối với
Acinetobacter baumannii. Về tác dụng hiệp đồng
và cộng lực thì trong nghiên cứu này không thấy
có sự khác biệt giữa hai phối hợp kháng sinh.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tác dụng hiệp đồng in vitro của imipenem/colistin và meropenem / colistin đối với vi khuẩn acinetobacter baumannii trong viêm phổi bệnh viện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 438
KHẢO SÁT TÁC DỤNG HIỆP ĐỒNG IN VITRO
CỦA IMIPENEM/COLISTIN VÀ MEROPENEM / COLISTIN
ĐỐI VỚI VI KHUẨN ACINETOBACTER BAUMANNII
TRONG VIÊM PHỔI BỆNH VIỆN
Nguyễn Hồng Tâm*, Phạm Hùng Vân**, Nguyễn Thanh Bảo***, Cao Minh Nga***
TÓM TẮT
Mở đầu: Acinetobacter baumannii đang là vi khuẩn hàng đầu gây viêm phổi bệnh viện và có tính đa kháng
kháng sinh. Việc tìm ra giải pháp điều trị hiệu quả đối với Acinetobacter baumannii đang là vấn đề cấp thiết của
các nhà lâm sàng hiện nay.
Mục tiêu: Đánh giá tình hình đề kháng của Acinetobacter baumannii đối imipenem, meropenem và colistin
và tác dụng phối hợp của colistin với imipenem hay meropenem đối với vi khuẩn này.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang, phân tích. Các chủng Acinetobacter baumannii gây viêm phổi
bệnh viện tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương được lấy mẫu trong thời gian từ tháng 11/2013 đến tháng 05/2014.
Kết quả: Số chủng Acinetobacter baumannii được nghiên cứu là 85. Tỷ lệ đề kháng với imipenem,
meropenem, colistin lẩn lượt là 91,76%, 94,12% và 7,06%. Có 91,76% chủng đề kháng đồng thời imipenem và
meropenem. Các phối hợp kháng sinh imipenem/colistin và meropenem/colistin hầu hết cho tác dụng hiệp đồng và
cộng lực, tác dụng độc lập rất ít và không có tác dụng đối kháng. Hai phối hợp kháng sinh cho các tỷ lệ hiệp đồng
và cộng lực khác nhau không có ý nghĩa thống kê. Colistin ở các nồng độ dưới MIC có tác dụng chuyển các chủng
Acinetobacter baumannii không nhạy imipenem hay meropenem thành nhạy. Ở tác dụng này,
meropenem/colistin cho tỷ lệ chuyển đổi cao hơn imipenem/colistin.
Kết luận: Acinetobacter baumannii đề kháng imipenem, meropenem với tỷ lệ rất cao. Phối hợp imipenem
hay meropenem với colistin cho các tác dụng diệt khuẩn hiệu quả đối với Acinetobacter baumannii.
Từ khóa: imipenem, meropenem, colistin, phối hợp.
ABSTRACT
IN VITRO EFFECTS OF IMIPENEM OR MEROPENEM IN COMBINATION WITH COLISTIN
AGAINST ACINETOBACTER BAUMANNII
Nguyen Hong Tam, Pham Hung Van, Nguyen Thanh Bao, Cao Minh Nga
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 438 - 444
Background: Acinetobacter baumannii are becoming a major cause of hospital acquired pneumonia and
having multi-drug resistance ability. Nowadays, an effective treatment for Acinetobacter baumannii is the most
important problem for the clinicians.
Objective: To investigate the resistance ability of Acinetobacter baumannii to imipenem, meropenem and
colistin and the effectiveness of their combinations.
Method: Retrospective descriptive analysis study. Samples were collected from patients with HAP in
Nguyen Tri Phuong Hospital from November 2013 to May 2014.
* Trung tâm Kiểm dịch Quốc tế TP. HCM ** Khoa Vi sinh, Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
*** Bộ môn Vi sinh, Khoa Y - Đại học Y Dược TP. HCM
Tác giả liên lạc: ThS. BS. Nguyễn Hồng Tâm ĐT: 0903 913 084 Email: tam_nh@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 439
Results: 85 strains were studied. The resistance rate to imipenem, meropenem, colistin were 91,76%,
94,12%, 7,06% respectively. There were 91,76% of the strains resistant to imipenem and meropenem
simultaneously. Synergy effects and additive effects of two combinations were found in the majority of strains,
there were a few indifference effects and no antagonism effect. The differences between the effect rates of two
combinations was not statistically significant. Colistin in concentrations below the MIC had the transfer effect to
make imipenem- or meropenem-nonsusceptible strains to susceptible ones. Meropenem/colistin had the transfer
rates higher than imipenem/colistin.
Conclusion: Acinetobacter baumannii had very high resistance rates to imipenem and meropenem. The
combination of imipenem or meropenem with colistin showed positive effects on Acinetobacter baumannii.
Key words: imipenem, meropenem, colistin, combination.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn bệnh viện đang trở thành một
trong những thách thức lớn đối với ngành y tế
của mọi quốc gia trên thế giới. Điều đáng lo ngại
nhất của nhiễm khuẩn bệnh viện là làm trầm
trọng hơn tình trạng đề kháng kháng sinh, và đề
kháng kháng sinh tăng sẽ làm cho nhiễm khuẩn
bệnh viện càng nan giải hơn, tạo thành vòng lẩn
quẩn khó tìm thấy lối ra(1,14,15).
Trong nhiễm khuẩn bệnh viện thì viêm
phổi bệnh viện là bệnh lý nhiễm khuẩn đứng
hàng thứ hai về mức độ phổ biến nhưng có tỷ
lệ tử vong đứng hàng đầu, nhất là đối với
những bệnh nhân được hỗ trợ thông khí cơ
học. Acinetobacter baumannii là một trong
những tác nhân gây bệnh thường gặp nhất
hiện nay(4,15,16). Trong những năm gần đây,
Acinetobacter baumannii tăng rất nhanh khả
năng đề kháng kháng sinh, đặt ra những thách
thức vô cùng lớn cho các nhà lâm sàng cũng
như vi sinh y học(3,10,15). Tìm ra giải pháp đối
phó hợp lý với Acinetobacter baumannii là vấn
đề đầu tiên phải nghĩ đến khi muốn cải thiện
tình trạng viêm phổi bệnh viện nói riêng và
nhiễm khuẩn bệnh viện nói chung, ít nhất là
trong giai đoạn hiện nay.
Trước đây, để điều trị nhiễm khuẩn do
Acinetobacter baumannii, người ta dùng thường
dùng hai loại kháng sinh thuộc nhóm
carbapenem là imipenem và meropenem.
Nhưng trong vài năm gần đây, Acinetobacter
baumannii bắt đầu đề kháng carbapenem với tỷ
lệ cao buộc chúng ta phải có giải pháp mới thay
thế, một trong số đó là giải pháp phối hợp
colistin với imipenem hay meropenem và giải
pháp này đã chứng tỏ được tính hiệu quả và khả
thi ở nhiều nơi trên thế giới. Riêng tại Việt Nam,
cho đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh
giá hiệu quả của các phối hợp kháng sinh trên
đối với Acinetobacter baumannii(2,3,5,7,8,12,13,14,17,18,19).
Việc tiến hành đề tài nghiên cứu “Khảo sát
tác dụng hiệp đồng in vitro của imipenem /
colistin và meropenem / colistin đối với vi khuẩn
Acinetobacter baumannii trong viêm phổi bệnh
viện” nhằm các mục tiêu:
1. Đánh giá tình hình đề kháng hiện nay của
Acinetobacter baumannii đối với imipenem,
meropenem và colistin.
2. Khảo sát các tác dụng phối hợp của các
phối hợp kháng sinh imipenem/colistin,
meropenem/colistin đối với Acinetobacter
baumanni gây viêm phổi bệnh viện.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Là các chủng Acinetobacter baumannii gây
viêm phổi bệnh viện tại Bệnh viện Nguyễn Tri
Phương được chọn mẫu và xét nghiệm trong
thời gian từ tháng 11/2013 đến tháng 05/2014.
Tiêu chuẩn chọn mẫu
Các mẫu vi khuẩn Acinetobacter baumannii
sau khi phân lập và định danh từ đàm và dịch
hút phế quản của những bệnh nhân nội trú của
Bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong thời gian từ
tháng 11/2013 đến tháng 05/2014 được chẩn đoán
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 440
viêm phổi bệnh viện theo tiêu chuẩn chẩn đoán
của ATS 2005.
Tiêu chuẩn loại trừ
Mẫu không được bảo quản đúng cách trong
quá trình vận chuyển và định danh lại không
phải Acinetobacter baumannii.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, cắt ngang, phân tích.
Định danh Acinetobacter baumannii bằng bộ định
danh IDS14 GNR của Công ty Nam Khoa. Phân
loại kháng, nhạy, trung gian với kháng sinh dựa
theo tiêu chuẩn phân loại CLSI 2013. Đánh giá
tác dụng phối hợp kháng sinh bằng phương
pháp vi pha loãng trên khay 96 giếng và tính chỉ
số FIC để kết luận phối hợp kháng sinh có tác
dụng hiệp đồng, cộng lực, độc lập hay đối
kháng. So sánh các tỷ lệ bằng các test thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tổng số chủng Acinetobacter baumannii thu
thập được từ các mẫu đàm và dịch hút phế quản
phù hợp với tiêu chuẩn chọn mẫu của nghiên
cứu này là 85 chủng.
Tính đề kháng của Acinetobacter
baumannii đối với imipenem, meropenem,
colistin
Các chủng Acinetobacter baumannii kháng
imipenem và meropenem với tỷ lệ rất cao (lần
lượt là 91,76% và 94,12%), đồng thời chúng nhạy
với colistin cũng với tỷ lệ rất cao (92,94%).
91,76% chủng đề kháng đồng thời imipenem và
meropenem.
Các phối hợp imipenem/colistin và
meropenem/colistin đều cho tác dụng hiệp đồng
và cộng lực khá cao, tác dụng độc lập rất ít và
không có tác dụng đối kháng. Khi xét riêng
những chủng kháng imipenem hay meropenem
thì các tỷ lệ tác dụng cũng tương tự. Như vậy
tính chất đề kháng của Acinetobacter baumannii
không ảnh hưởng đến kết quả phối hợp kháng
sinh. So sánh giữa 2 phối hợp với nhau thì sự
khác nhau không có ý nghĩa về mặt thống kê, tức
là tác dụng của phối hợp imipenem/colistin và
của phối hợp meropenem/colistin trên
Acinetobacter baumannii là tương đương nhau.
Các tác dụng phối hợp của colistin với
imipenem hay meropenem
32.94
58.82
8.24
45.88
51.76
2.36
0
20
40
60
80
100
Hiệp đồng Cộng lực Độc lập Đối khángBiểu đồ 1: Phân bố theo tỷ lệ % các kiểu tác dụng đối
với Acinetobacter baumannii của hai phối hợp kháng
sinh
Tác dụng của colistin ở nồng độ thấp hơn
MIC chuyển Acinetobacter baumannii từ
không nhạy imipenem hay meropenem
thành nhạy
0 0 4.11
66.67
100
1.25
8.75
22.67
100 100
0
20
40
60
80
100
Imi/Col Mer/Col
Biểu đồ 2: Phân bố theo tỷ lệ % các chủng
Acinetobacter baumannii chuyển từ không nhạy
imipenem hay meropenem thành nhạy khi có sự phối
hợp với colistin ở các mức nồng độ thấp hơn MIC
Colistin ở các nồng độ dưới MIC có khả năng
chuyển các chủng Acinetobacter baumannii không
nhạy imipenem hoặc meropenem thành nhạy.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 441
Cụ thể ở mức nồng độ 0,5µg/mL colistin, tỷ lệ
chuyển chủng bắt đầu rõ rệt và tăng dần theo
nồng độ colistin. Khi meropenem phối hợp
colistin ở mức nồng độ 1µg/mL colistin, 100%
các chủng Acinetobacter baumannii không nhạy
meropenem đều chuyển thành nhạy. So sánh tác
dụng chuyển chủng của imipenem/colistin với
meropenem/colistin ở các mức nồng độ dưới
MIC của colistin, thì ở nồng độ 0,5µg/mL colistin
trở xuống thì sự khác nhau có ý nghĩa về mặt
thống kê (α = 0,05); còn ở nồng độ từ 1µg/mL
colistin trở lên thì sự khác nhau không có ý
nghĩa về mặt thống kê.
BÀN LUẬN
Tính đề kháng của Acinetobacter baumannii
Các chủng Acinetobacter baumannii trong
nghiên cứu có tính đề kháng rất cao với
imipenem (91,76%) và meropenem (94,12%), phù
hợp với các nghiên cứu tương tự gần đây ở Việt
Nam và nước ngoài(6,12,16). Một điểm đáng lưu ý là
meropenem tuy được đưa vào điều trị sau
imipenem nhưng tỷ lệ đề kháng của
Acinetobacter baumannii đối với hai kháng sinh
này hiện nay đã tương đương nhau.
Kết quả này thống nhất với nhiều công trình
nghiên cứu khác cả trong và ngoài nước(6,13,14,16).
Một số nghiên cứu khác cho tỷ lệ đề kháng
imipenem và meropenem thấp hơn một ít, từ
60% đến 80%(4,8,10,11,14,15), có thể do khác biệt về dân
số nghiên cứu và có thể là thời điểm nghiên cứu.
Các chủng được đưa vào nghiên cứu này là
những chủng được phân lập từ đàm và dịch hút
phế quản của những bệnh nhân viêm phổi bệnh
viện, là những chủng Acinetobacter baumannii đã
được chứng minh là có tính kháng thuốc mạnh
nhất(6,10,11). Ngoài ra, một số cuộc nghiên cứu đã
được tiến hành cách nay tương đối đã lâu (2008
trở về trước)(4,6,14), trong khi gần đây, Acinetobacter
baumannii đang tăng rất nhanh tỷ lệ đề kháng
với carbapenem(4,11,14). Về khả năng diệt khuẩn
của colistin, kết quả này hoàn toàn thống nhất
với tất cả các nghiên cứu trước đây là loại kháng
sinh này còn rất hiệu quả với Acinetobacter
baumannii trong cả in vitro lẫn in vivo, với tỷ lệ
rất cao - trên 90%, và duy trì khả năng này qua
nhiều năm(4,5,6,7,9,11,13,15,16). So sánh hoạt tính của
từng loại thuốc đối với Acinetobacter baumannii
thông qua giá trị MIC90, chúng tôi nhận thấy
meropenem có hoạt tính mạnh hơn imipenem.
Kết quả phù hợp với nghiên cứu của Phạm
Hùng Vân và nhóm MIDAS(14). Colistin cho hoạt
tính mạnh nhất trong cả ba loại thuốc. Khi
nghiên cứu về tính chất cùng kháng với nhiều
loại thuốc, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ các chủng
đề kháng cùng lúc với imipenem và meropenem
đặc biệt cao, chiếm đại đa số trong số các chủng
kháng imipenem hay meropenem. Kết quả này
cũng tương đối phù hợp với một số nghiên cứu
khác tại Việt Nam(12,14).
Qua kết quả này, kết hợp với các công trình
nghiên cứu tham khảo, có thể thấy xu hướng
tăng dần tính đề kháng với carbapenem của
Acinetobacter baumannii ở Việt Nam cũng như
nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt trong vài năm
gần đây(3,9,10,11,12,13,14,15,19). Đây thực sự là một thông
tin đáng báo động buộc chúng ta phải thường
xuyên theo dõi tình hình đề kháng kháng sinh
của Acinetobacter baumannii cũng như quản lý
việc sử dụng kháng sinh chặt chẽ hơn.
Tác dụng hiệp đồng và cộng lực của colistin
với imipenem hay meropenem đối với
Acinetobacter baumannii
Imipenem/colistin và meropenem/colistin
đều cho các tác dụng phối hợp tốt - hiệp đồng
hoặc cộng lực - đối với Acinetobacter baumannii
với tỷ lệ rất cao, và không có tác dụng đối kháng.
Một nghiên cứu của Ziad Daoud và cộng
sự(5) với phương pháp tương tự cũng cho kết quả
tương tự về tỷ lệ cộng lực và hiệp đồng của phối
hợp meropenem/colistin. Ngược lại, với phối
hợp imipenem/colistin, trong khi nghiên cứu của
chúng tôi cho tỷ lệ cộng lực gấp đôi hiệp đồng
thì nghiên cứu của Ziad Daoud cho tỷ lệ cộng
lực áp đảo - gấp 8 lần. Tuy nhiên, do số mẫu của
nghiên cứu trên khá ít (n=11) nên kết quả này có
thể không mang tính đại diện cao.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 442
Một nghiên cứu tương tự khác của Alex van
Belkum(18) mới được thực hiện cũng dùng kỹ
thuật bàn cờ để đánh giá tác dụng phối hợp
kháng sinh meropenem/colistin đối với 27 mẫu
Acinetobacter baumannii đa kháng được thu thập
từ một bệnh viện tại Thụy Sĩ, thì các phối hợp
kháng sinh cũng không cho tác dụng đối kháng
và độc lập, trong khi tỷ lệ hiệp đồng gấp đôi tỷ lệ
cộng lực. Sự khác biệt giữa kết quả của chúng tôi
với nghiên cứu này có thể là do sự khác biệt về
tình trạng sử dụng kháng sinh giữa hai nơi thực
hiện nghiên cứu dẫn đến khác biệt về tính nhạy
cảm của Acinetobacter baumannii đối với
meropenem.
Một tham khảo đáng giá khác là công trình
của Oren Zusman(19) đã tổng hợp kết quả từ rất
nhiều công trình nghiên cứu và báo cáo khoa
học từ năm 1987 đến 2013 về tác dụng hiệp
đồng in vitro của các phối hợp kháng sinh
giữa polymyxin với các kháng sinh thuộc
nhóm carbapenem đối với các vi khuẩn Gram
âm, thì kết quả cho thấy tỷ lệ hiệp đồng và
cộng lực của các phối hợp tính chung – kể cả
doripenem/colistin – đối với Acinetobacter
baumannii khi phát hiện bằng kỹ thuật bàn cờ
lần lượt là 32% và 39%, trong đó tỷ lệ hiệp
đồng của các phối hợp chứa meropenem và
doripenem là tương đương nhau. Khi sử dụng
kỹ thuật theo dõi thời gian diệt khuẩn thì tỷ lệ
hiệp đồng của các phối hợp trên là 77%. Như
vậy, xét trên nhiều mặt, kết quả nghiên cứu
của chúng tôi có nhiều điểm rất phù hợp với
kết quả nghiên cứu này.
Tác dụng chuyển chủng Acinetobacter
baumannii từ không nhạy imipenem hay
meropenem thành nhạy khi phối hợp với
colistin
Colistin có tác dụng chuyển các chủng
Acinetobacter baumannii từ không nhạy
imipenem hay meropenem thành nhạy ở các
mức nồng độ dưới MIC của colistin. Kết quả
này tương đối phù hợp với một nghiên cứu
tương tự của Hsieh-Shong Leu(8) đối với phối
hợp imipenem/colistin. Tuy nhiên, colistin
trong nghiên cứu của chúng tôi cần có mức
nồng độ cao hơn một bậc mới đạt được tỷ lệ
chuyển đổi tương đương với nghiên cứu của
tác giả Leu. Sự không đồng nhất này có thể là
do nghiên cứu của tác giả Leu đã được thực
hiện cách nay khá lâu (từ 1998 đến 2005) nên
khi đó, tính đề kháng của Acinetobacter
baumannii chưa ở mức cao như hiện nay.
Riêng đối với phối hợp meropenem/colistin,
cho đến nay chúng tôi chưa tìm thấy tài liệu
nghiên cứu nào xem xét về tác dụng chuyển
đổi này nên không có điều kiện so sánh.
Việc chứng minh colistin ở các hai nồng độ
0,5µg/mL và 1µg/mL và dưới MIC có khả năng
giúp chuyển đổi các chủng Acinetobacter
baumannii từ không nhạy imipenem hay
meropenem thành nhạy cũng rất có ý nghĩa về
mặt thực tiễn vì đây là mức nồng độ mà colistin
dễ dàng đạt được trong dịch cơ thể sau vài giờ
điều trị với liều thông thường, có nghĩa là các
phối hợp kháng sinh trên hứa hẹn mang lại hiệu
quả điều trị cao và khả thi, đặc biệt là phối hợp
meropenem/colistin.
So sánh tác dụng của imipenem và
meropenem trong các phối hợp với colistin
đối với Acinetobacter baumannii.
Trong nghiên cứu này, imipenem tương
đương với meropenem trong việc tạo ra các tác
dụng hiệp động hay cộng lực với colistin. Trong
nghiên cứu của Oren Zusman(19), khi xét chung
các kết quả được tiến hành bằng nhiều kỹ thuật –
bàn cờ, Etest, theo dõi thời gian diệt khuẩn, thì tỷ
lệ hiệp đồng của imipenem/colistin là 56% so với
meropenem/colistin là 86% và tác giả đã chứng
minh sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Như
vậy, sự khác biệt so với kết quả của chúng tôi có
thể lý giải là do nghiên cứu của Oren Zusman
được khảo sát trên một quãng thời gian khá dài –
16 năm kể từ 1987 – nên tính đề kháng của
Acinetobacter baumannii có sự biến động lớn,
đồng thời tác giả tính chung cả kỹ thuật theo dõi
thời gian diệt khuẩn là kỹ thuật đã được công
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 443
nhận là cho tỷ lệ hiệp đồng cao hơn và chính xác
hơn(2,19). Ngoài ra, có một điểm cần lưu ý là kết
quả của chúng tôi cũng cho các số liệu khá chênh
lệch giữa tỷ lệ hiệp đồng của
meropenem/colistin so với imipenem/colistin,
trong đó meropenem có sự vượt trội hơn, tuy về
mặt thống kê thì sự chênh lệch này không có ý
nghĩa. Mặc dù vậy, điều này cũng gợi ý đến hai
khả năng. Một là, theo thời gian, Acinetobacter
baumannii đã thay đổi tính nhạy cảm đối với
meropenem nên tác dụng của imipenem và tác
dụng của meropenem đối với Acinetobacter
baumannii không còn có sự khác biệt rõ rệt như
trước. Hai là, do số mẫu trong nghiên cứu của
chúng tôi khá khiêm tốn và chỉ thu thập từ một
bệnh viện duy nhất nên chưa đủ sức làm rõ sự
khác biệt có ý nghĩa giữa meropenem và
imipenem. Như vậy, bất kể khả năng nào, chúng
tôi thiết nghĩ một cuộc nghiên cứu tiếp theo quy
mô hơn về vấn đề này là rất cần thiết.
Về tác dụng chuyển các chủng, meropenem
khi phối hợp với colistin ở các mức nồng độ từ
0,5µg/mL trở xuống và dưới MIC đều cho các tỷ
lệ chuyển đổi cao hơn imipenem một cách có ý
nghĩa thống kê. Từ mức 1µg/mL colistin trở lên
thì sự khác biệt giữa meropenem và imipenem
không có ý nghĩa. Tuy nhiên, để tác dụng phối
hợp có ý nghĩa, chúng tôi chỉ xét đến những phối
hợp ở những mức nồng độ colistin dưới MIC.
Do đó, số chủng được xét ở mức 1µg/mL trở lên
rất ít – chỉ từ 7 chủng trở xuống – nên có thể
chưa đủ để làm nổi bật sự khác nhau có ý nghĩa
về mặt thống kê giữa meropenem và imipenem
về mặt tác dụng này. Nhìn chung, ta có thể thấy
meropenem có ưu thế hơn imipenem khi cùng
với colistin làm cho các chủng Acinetobacter
baumannii từ không nhạy thành nhạy với
meropenem hay imipenem.
Do chúng tôi không tìm thấy tài liệu nghiên
cứu nào về tác dụng chuyển đổi chủng của phối
hợp meropenem/colistin nên không có điều kiện
kiểm chứng so sánh của chúng tôi về hai kháng
sinh carbapenem này.
Tuy nhiên, với những kết quả có được, cùng
với các kết quả tương tự của các công trình
nghiên cứu khác, chúng ta có thêm cơ sở để ưu
tiên lựa chọn meropenem hơn là imipenem
trong điều trị lâm sàng đối với Acinetobacter
baumannii.
Các kết quả trên đây là những thử nghiệm in
vitro nên chỉ mang tính tham khảo cho việc lựa
chọn kháng sinh điều trị. Chúng ta cũng cần có
thêm những nghiên cứu tương tự về mặt lâm
sàng để có thể khẳng định hiệu quả của giải
pháp phối hợp giữa colistin với imipenem hay
meropenem khi áp dụng vào điều trị cho bệnh
nhân viêm phổi bệnh viện do Acinetobacter
baumannii.
KẾT LUẬN
1. Acinetobacter baumannii có tỷ lệ đề kháng
rất cao với imipenem (91,76%) và meropenem
(94,12%). Acinetobacter baumannii vẫn còn rất
nhạy cảm với colistin (92,94%).
2. Colistin khi phối hợp với imipenem hay
meropenem có khả năng tạo các tác dụng hiệp
đồng với tỷ lệ cao (lần lượt là 32,94% và 45,88%)
đối với Acinetobacter baumannii.
3. Colistin khi phối hợp với imipenem hay
meropenem có khả năng tạo các tác dụng cộng
lực với tỷ lệ cao (lần lượt là 58,82% và 51,76%)
đối với Acinetobacter baumannii.
4. Colistin khi phối hợp với imipenem hay
meropenem có khả năng chuyển các chủng
không nhạy imipenem hay meropenem thành
nhạy ở các nồng độ colistin dưới MIC có ý nghĩa
về mặt lâm sàng.
5. So sánh giữa imipenem và meropenem thì
meropenem khi phối hợp với colistin cho tác
dụng chuyển chủng từ không nhạy meropenem
thành nhạy meropenem mạnh hơn tác dụng
tương tự của phối hợp imipenem/colistin đối với
Acinetobacter baumannii. Về tác dụng hiệp đồng
và cộng lực thì trong nghiên cứu này không thấy
có sự khác biệt giữa hai phối hợp kháng sinh.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 444
ĐỀ XUẤT
Thường xuyên theo dõi tình hình đề kháng
và đáp ứng điều trị của Acinetobacter baumannii,
đặc biệt đối với colistin và carbapenem để có biện
pháp đối phó kịp thời nhằm hạn chế làm gia tăng
chủng đề kháng.
Có thể sử dụng colistin phối hợp với
imipenem hoặc meropenem để điều trị
Acinetobacter baumannii, trong đó nên ưu tiên sử
dụng meropenem hơn imipenem.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. American Thoracic Society (2005), “Guidelines for the
management of adult with hospital required, ventilator-
associated, and healthcare-associated pneumonia 2004”,
American Journal of Respiratory and Critical Care Medicine, 171,
pp. 388-416.
2. Bonapace CR, White RL, Friedrich LV, Bosso JA (2000),
“Evaluation of antibiotic synergy against Acinetobacter
baumannii: a comparison with Etest, time-kill, and
checkerboard methods”, Diagnostic Microbiology And Infectious
Disease, 38 (1), pp.43-50.
3. Cao Minh Nga, Nguyễn Thanh Bảo, Vũ Thị Kim Cương
(2008), “Nhiễm khuẩn do Acinetobacter và tính kháng thuốc”,
Y học TP. Hồ Chí Minh, Đại học Y dược TP.HCM, tập 12 (1),
tr.188-193.
4. Cao Xuân Minh, Cao Xuân Thục, Trần Văn Ngọc, Phạm
Hùng Vân (2010), “Đặc điểm lâm sàng và mối liên quan giữa
kiểu gen và tính kháng thuốc của vi khuẩn Acinetobacter
baumannii trong viêm phổi bệnh viện tại Bệnh viện Chợ
Rẫy”, Y học TP. Hồ Chí Minh, Đại học Y Dược TP.HCM, tập 14
(1), tr. 128-134.
5. Daoud Z, Mansour N, Masri K (2013), “Synergistic
combination of carbapenems and colistin against P. aeruginosa
and A. baumannii”, Open Journal of Medical Microbiology, 3 (4),
pp.253-258.
6. Dizbay M, Altuncekic A, Sezer BE, Ozdemir K, Arman D
(2008), “Colistin and tigecycline susceptibility among
multidrug-resistant Acinetobacter baumannii isolated from
ventilator-associated pneumonia”, International Journal of
Antimicrobial Agents, 32 (1), pp.29-32.
7. Hsiang LC, Fen TY, Hui SL, Chih CC, Wei LJ (2008),
“Antimicrobial effects of varied combinations of meropenem,
sulbactam, and colistin on a multidrug-resistant Acinetobacter
baumannii isolate that caused meningitis and bacteremia”,
Microbial Drug Resistance, 14 (3), pp.233-237.
8. Leu HS, Ye JJ, Lee MH, Su LH, Huang PY, Wu TL, Huang CT
(2013), “Synergy of imipenem/colistin methanesulfonate
combinations against imipenem-nonsusceptible multidrug-
resistant Acinetobacter baumannii”, Journal of Microbiology,
Immunology and Infection, 47 (5), pp.406-411.
9. Liang-Yu C, Chen KS, Yu LC, Syun LB, Ju HL, Tzu LY, Pei
CC, Li CT, Phone FC (2011), “Difference in imipenem,
meropenem, sulbactam, and colistin nonsusceptibility trends
among three phenotypically undifferentiated Acinetobacter
baumannii complex in a medical center in Taiwan, 1997-2007”,
Journal of Microbiology, Immunology and Infection, 44, pp.358-
363.
10. Necati Hakyemez I, Kucukbayrak A, Tas T, Burcu Yikilgan A,
Akkaya A, Yasayacak A, Akdeniz H (2013), “Nosocomial
Acinetobacter baumannii infections and changing antibiotic
resistance”, Pakistan Journal of Medical Sciences, 29 (5), pp.1245-
1248.
11. Nguyễn Phú Hương Lan, Nguyễn Văn Vĩnh Châu, Đinh
Nguyễn Huy Mẫn, Lê Thị Dưng, Nguyễn Thị Thu Yến (2012),
“Khảo sát mức độ đề kháng kháng sinh của Acinetobacter và
Pseudomonas phân lập tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới năm
2010”, Thời sự Y học, Hội Y học TP.HCM, (68), tr. 9-12.
12. Nguyễn Sử Minh Tuyết, Nguyễn Thùy Trang, Trần Thị Hồng
Ngọc, Nguyễn Thị Lệ (2009), “Khảo sát tính nhạy cảm đối với
carbapenem của các vi khuẩn Gram âm gây nhiễm khuẩn
bệnh viện bằng nồng độ ức chế tối thiểu của meropenem và
imipenem tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định”, Y học TP.Hồ
Chí Minh, tập 13 (6), tr.301-304.
13. Pongpech P, Amornnopparattanakul S, Panapakdee S, et al.
(2010), “Antibacterial activity of carbapenem-based
combinations againts multidrug-resistant Acinetobacter
baumannii”, Journal of the Medical Association of Thailand, 93 (2),
pp. 161-171.
14. Phạm Hùng Vân, nhóm nghiên cứu MIDAS (2010), “Nghiên
cứu đa trung tâm về tình hình đề kháng imipenem và
meropenem của trực khuẩn Gram âm dễ mọc – Kết quả trên
16 bệnh viện tại Việt Nam”, Y học TP.Hồ Chí Minh, Đại học Y
Dược TP.HCM, tập 14 (2), tr. 280-286.
15. Sieniawski K, Kaczka K, Rucinska M, Gagis L, Pomorski L
(2013), “Acinetobacter baumannii nosocomial infections”, Polski
Przeglad Chirurgiczny, 85 (9), pp.483-490.
16. Somily AM, Absar MM, Arshad MZ, et al (2012),
“Antimicrobial susceptibility patterns of multidrug-resistant
Pseudomonas aeruginosa and Acinetobacter baumannii against
carbapenems, colistin, and tigecycline”, Saudi Medical Journal,
33 (7), pp.750-755.
17. Sopirala MM, Mangino JE, Gebreyes WA, et al (2010),
“Synergy testing by Etest, microdilution checkerboard, and
time-kill methods for pan-drug-resistant Acinetobacter
baumannii”, Antimicrobial Agents and Chemotherapy, 54 (11),
pp. 4678-4683.
18. Van Belkum A, Bonetti EJ, Cherkaoui A, et al (2014),
“Meropenem/colistin synergy testing for multidrug-resistant
Acinetobacter baumannii strains by a two-dimensional
gradient technique applicable in routine microbiology”,
Journal of Antimicrobial Chemotherapy, DOI:
10.1093/jac/dku342.
19. Zusman O, Avni T, Leibovici L, et al (2013), “Systematic
review and meta-analysis of in vitro synergy of polymyxins
and carbapenems”, Antimicrobial Agent and Chemotherapy, 57
(10), pp. 5104-5111.
Ngày nhận bài báo: 27/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khao_sat_tac_dung_hiep_dong_in_vitro_cua_imipenemcolistin_va.pdf