- Ảnh hưởng của tăng glucose máu lên kết
quả điều trị: tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm lần lượt
là: 49,5% và 9,9% (p<0,001; OR: 8,92; 95% CI:
5,21-15,28). Như vậy bệnh nhân tăng glucose
máu có nguy cơ tử vong cao gấp 8,92 lần bệnh
nhân không tăng glucose máu.
Nghiên cứu của Srinivasan [6] cho thấy nguy
cơ vong ở bệnh nhân tăng glucose máu cao
gấp 3,4 lần bệnh nhân không tăng glucose
máu (OR= 3,3; 95%CI: 1,4-8,6). Faustino và CS
[7], kết quả bệnh nhân tăng glucose máu có tỷ lệ
tử vong cao gấp 2,5 lần bệnh nhân không tăng
glucose máu (RR= 2,5; 95%CI: 1,3-4,9).
Hishberg và CS [8], thì bệnh nhân tăng glucose
máu có nguy cơ tử vong cao gấp 11,1 lần bệnh
nhân không tăng glucose máu (OR= 11,1; 95%CI:
1,5-85,6).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn
của Hishberg, nhưng cao Srinivasan (cùng dùng
chỉ số OR). Sự khác nhau này theo chúng tôi có
thể do: mức glucose định nghĩa tăng glucose
máu khác nhau; cỡ mẫu khác nhau, đối tượng
nghiên cứu khác nhau; cách thức xét nghiệm
glucose máu khác nhau; tiêu chuẩn chọn bệnh
nhân khác nhau , các tác giả đều có chung
nhận xét: Bệnh nhân tăng glucose máu có nguy
có tử vong cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
bệnh nhân không tăng glucose máu.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tần suất tăng Glucose máu và ảnh hưởng đến kết quả điều trị bệnh nhân tại khoa hồi sức cấp cứu, bệnh viện Nhi trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạp chí nhi khoa 2017, 10, 3
44
KHẢO SÁT TẦN SUẤT TĂNG GLUCOSE MÁU
VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN
TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU, BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Nguyễn Văn Thiện1, Phạm Văn Thắng2
1. Khoa HSCC,BV Bắc Giang; 2. Khoa HSCC, BV Nhi TƯ
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm khảo sát tần suất và một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị tăng
glucose máu ở bệnh nhân tại khoa Hồi sức cấp cứu (HSCC) Bệnh viện Nhi Trung ương (BVNTW).
Đối tượng gồm 202 bệnh nhân tăng glucose máu >7,0mmol/l điều trị tại khoa HSCC từ 1/6/2013
đến 31/5/2014. Kết quả cho thấy: tần suất bệnh nhân có tăng glucose máu khá cao 17,4%. Nhóm
tuổi 1 tháng đến 12 tháng chiếm 78,0%. Nhóm bệnh hô hấp 63,9%, nhóm bệnh truyền nhiễm
15,7%, tiếp đến nhóm bệnh thần kinh 12,4%, nhóm bệnh nhân có sốc nhiễm khuẩn 79,7%. Ảnh
hưởng của tăng glucose máu đến kết quả điều trị: thời gian nằm HSCC trung bình (TB) của nhóm
tăng glucose máu (NTGM) và nhóm không tăng glucose máu (NKTGM) là 8,7 ± 7,1 ngày và 5,2 ±
3,3 (p<0,001), thời gian thở máy dài hơn 7,9 ± 6,8 ngày và 4,1 ± 2,9 ngày (p< 0.001), thời gian và
phối hợp nhiều thuốc vận mạch hơn 3,8 ±1,9 và 2,3 ± 0,8 ngày(p< 0.001). Nguy cơ tử vong của
NTGM cao hơn (49,5% và 9,9%, p < 0,001, OR: 8,92, 95% CI: 5,21- 15,28). Kết luận: Tăng glucose
máu ở bệnh nhân tại HSCC gặp tỷ lệ khá cao, có ảnh hưởng tới kết quả điều trị và tiên lượng.
Từ khóa: Tăng đường máu, hồi sức cấp cứu trẻ em.
ASBTRACT
THE RESEARCH ON THE RATE Of HyPERGLyCEMIA ANd THE fACTORS THAT INfLUENCE
THE RESULTS Of THE TREATMENT Of THE PATIENTS IN THE PEdIATRIC INTENSIVE CARE
UNIT Of THE NATIONAL HOSPITAL Of PEdIATRICS
Nguyen Van Thien, Pham Van Thang
The aim of the research is to identify the rate of hyperglycemia and the factors that contribute to
the results of the treatment of the patients in the pediatric intensive care unit of the National Hospital
of Pediatrics. The subjects consist of 202 patients whose glycaemia increased above 7 mmol/l and
were treated in the intensive care unit of the National Hospital of Pediatrics from 06/01/2013 to
05/31/2014.The results showed that the rate of hyperglycaemia is at a high rate: 17.4%. The age group
from 1 month to 12 month acounted for 78%, the disease group respiratory group acounted 63.9%.
There are some factors that affected to results of the treatment, the patients hyperglycaemia has the
time of resuscitation longer (8.7±7.1 day and 5.2±3.3 days, p <0.001), longer mechanical ventilation
time (7.9 ± 6.8 days and 4.1 ± 2.9 days, p<0.001), time vasoactive drug use longer (3.8 ± 1.9 and 2,3
± 0.8 days, p<0.001), the risk of mortality higher then normal glycocemia (49.5% and 9.9%, p<0.001,
OR: 8.92; 95% CI: 5.21-15.28). The conclusion: hyperglycemia has high rate in PICU, effecting to results
of treatment.
Kyewords: Hyperglycemia, the pediatric intensive care.
Nhận bài: 1-2017; Thẩm định: 10-6-2017
Người chịu trách nhiệm chính: Phạm Văn Thắng
Địa chỉ: Bệnh viện Nhi TƯ Hà Nội
45
phần nghiên cứu
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng glucose máu là tình trạng glucose máu
tăng trên 7mmol/l, tăng glucose máu ở trẻ bị
bệnh là triệu chứng của nhiều bệnh, phần lớn
không có triệu chứng, hoặc triệu chứng mơ hồ
không đặc hiệu. Tăng glucose máu làm nặng
thêm bệnh chính của trẻ, làm tăng nguy cơ
nhiễm trùng, tăng thời gian nằm viện, tăng tỷ lệ
tử vong... việc phát hiện và xử trí đúng góp phần
cải thiện khả năng cứu sống trẻ. Tại Việt Nam đã
có một số nghiên cứu về tăng glucose máu trẻ em
[2], tuy nhiên chưa hệ thống, vì vậy nghiên cứu
này nhằm mục tiêu: Khảo sát tần suất và một số
yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị tăng glucose
máu ở bệnh nhân tại khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh
viện Nhi Trung ương.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng: gồm các bệnh nhân điều
trị tại khoa HSCC, BVNTW từ 01/05/2013 đến
31/06/2014.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân: có tuổi từ trên
một tháng đến dưới 15 tuổi, không tiêm hoặc
truyền glucose tối thiểu 2 giờ trước khi lấy máu
làm xét nghiệm glucose máu tại thời điểm vào
viện, phương pháp định lượng glucose máu
theo PP enzym màu trên máy sinh hóa tự động
OLYMPUS AU640, có kết quả glucose máu trên
7mmol/l, theo Srinivasan [3].
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả, hồi cứu,
tiến cứu, phân tích và so sánh.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Tần suất tăng glucose máu: có 202 bệnh
nhân tăng glucose máu thỏa mãn điều kiện
nghiên cứu trên 1158 BN vào khoa HSCC, chiếm
tỷ lệ 17,4%.
- Phân bố theo giới: nam chiếm 67,8% (137
BN), nữ chiếm 32,2% tổng số bệnh nhân (65 BN).
- Tỷ lệ tăng glucose máu theo nhóm tuổi: tử 1
tháng đến 12 tháng (≤ 1 tuổi) chiếm 78,9% (159 BN), 1
tuổi đến 6 tuổi chiếm 17,3% (35 BN), 6 - 15 tuổi chiếm
4,0% (8 BN).
- Tỷ lệ theo nhóm bệnh: hô hấp chiếm 63,9%
(129 BN), bệnh truyền nhiễm chiếm 15,7% (32
BN), bệnh thần kinh chiếm 12,4% (25 BN), bệnh
tim mạch chiếm 3,5% (7 BN), tai nạn hoặc ngộ
độc chiếm 3,5% (7 BN) và bệnh tiêu hóa chiếm
1% (2 BN).
- Tỷ lệ bệnh nhân tăng glucose máu có sốc
nhiễm khuẩn chiếm 79,7% (16 BN), tỷ lệ bệnh
nhân tăng glucose máu không sốc nhiễm khuẩn
chiếm 20,3% (41 BN).
3.2. Ảnh hưởng của tăng glucose máu đến kết
quả điều trị
3.2.1. Ảnh hưởng của tăng glucose máu đến
thời gian nằm HSCC
Nhóm bệnh nhân tăng glucose máu có thời
gian nằm HSCC (TB 8,4 ± 7,1) dài hơn so với bệnh
nhân không tăng glucose máu (TB: 5,2 ± 3,3) với
(p < 0,001).
3.2.2. Thời gian thở máy giữa nhóm bệnh nhân
tăng glucose máu và nhóm không tăng glucose
máu (nhóm bệnh và nhóm chứng)
Nhóm bệnh nhân tăng glucose máu có số ngày
thở máy (TB 7,9 ± 6,8) dài hơn có ý nghĩa thống kê
so với nhóm bệnh nhân không tăng glucose máu
(TB: 4,1 ± 2,9) với (p < 0,001).
3.2.3. Số thuốc vận mạch dùng
Số thuốc vận mạch phải dùng cho nhóm bệnh
nhân bị tăng glucose máu (153/202 BN, TB:1,83 ±
0,71) nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm
bệnh nhân không tăng glucose máu (142/203
BN, TB: 1,28 ± 0,48) với (p<0,001).
3.2.4. Thời gian sử dụng thuốc vận mạch
Nhóm bệnh nhân tăng glucose máu có số
ngày dùng thuốc vận mạch TB: 3,8 ± 1,9,153/202
BN) dài hơn có ý nghĩa thống kê so với bệnh nhân
không tăng glucose máu (TB:2,3 ± 0,8,142/202
BN) với (p<0,001).
3.2.5. Ảnh hưởng của tăng glucose máu đến tỷ
lệ tử vong
tạp chí nhi khoa 2017, 10, 3
46
Bảng 1. Tỷ lệ tử vong giữa nhóm bệnh nhân tăng glucose máu và
nhóm bệnh nhân không tăng glucose máu
Số lượng n % p
OR
(95% CI)
Nhóm chứng
Chết 20 9,9
0,001
8,92
(5,21-15,28)
Sống 182 90,1
Nhóm bệnh
Chết 100 49,5
Sống 102 50,5
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân tăng glucose máu có nguy cơ tử vong cao gấp 8,92 lần so với bệnh
nhân không tăng glucose máu (p <0,05).
4. BÀN LUẬN
4.1. Tần suất chung
Với mức glucose từ trên 7,0 mmol/l (> 126
mg/dl) tần suất của chúng tôi là 17,44% tổng số
bệnh nhân nhập khoa HSCC. Kết quả của chúng
tôi phù hợp với kết quả của Faustino [7] (16,7%
đến 75,0%), cao hơn của Trần Thế Vinh và Võ
Công Đồng [5], nghiên cứu tại khoa HSCC BV Nhi
Đồng II, TP H.C.Minh từ 1/10/2007 đến 30/7/2008,
với mức glucose là lớn hơn hoặc bằng 200mg/
dl (lớn hơn hoặc bằng 11,1 mmol/l) được coi là
tăng glucose máu tỷ lệ gặp là 3,7%, kết quả có
thể do: tuổi bệnh nhân của chúng tôi cao hơn (từ
1 tháng đến 15 tuổi so với 15 ngày đến 15 tuổi);
tiêu chuẩn loại trừ khác hơn của chúng tôi (trước
đó dùng corticoids, thuốc chẹn beta, thuốc vận
mạch, HbA1c > 6,4% ).
Kết quả của Srinivasan và CS [6] tại BV Nhi
Philadelphia, Hoa Kỳ: với mức glucose máu trên
126mg/dl (trên 7,0 mmol/l), trẻ từ 1 tháng đến
21 tuổi tỷ lệ tăng glucose máu là 86%, kết quả
này cao hơn của chúng tôi có thể do: tuổi lấy
vào nghiên cứu rộng hơn của chúng tôi (từ 1
tháng đến 21 tuổi); thời gian lấy máu xét nghiệm
glucose máu kéo dài hơn của chúng tôi
- Tần suất theo nhóm tuổi: với ba nhóm tuổi
(tử 1 tháng đến 12 tháng; từ 1-6 tuổi và nhóm từ
6-15 tuôi), kết quả tần suất theo nhóm tuổi tương
ứng của chúng tôi lần lượt là 78,7%; 17,3% và 4%
tổng số bệnh nhân tăng glucose máu. Tần suất
này tăng cao ở nhóm trẻ nhỏ hơn hoặc bằng 1
tuổi, đây cũng là nhóm bệnh nhân nhập khoa
HSCC cao nhất.
Kết quả của Ognibene và CS [9]: tỷ lệ tăng
glucose máu ở trẻ < 1 tuổi là 47,5%, ở trẻ 13 – 18 tuổi
là 58,9%, khác kết quả của chúng tôi có thể do: đối
tượng nghiên cứu của Ognibene lớn hơn của chúng
tôi và tác giả so sánh trong từng nhóm tuổi.
Theo nhóm bệnh: đứng đầu là bệnh nhiễm
khuẩn hô hấp 63,9%, tiếp theo là các bệnh về
truyền nhiễm 15,7%, nhiễm khuẩn thần kinh
12,7%, bệnh tim mạch 3,5%, tai nạn hay ngộ độc
3,5% và cuối cùng là bệnh về tiêu hóa 2%.
Nghiên cứu của Trần Thế Vinh và V.C. Đồng
[5] tại khoa HSCC năm 2007: nhóm bệnh thường
gặp là nhiễm trùng hô hấp (21,43%), nhiễm trùng
thần kinh (21,43%), ngạt nước (17,9%).
Nghiên cứu của Piyush Gupta [10] (Ấn Độ)
năm 1997 phân bố tần suất theo nhóm bệnh
tăng glucose máu: hô hấp cũng chiếm cao nhất
(44,5%), đứng thứ hai là bệnh thần kinh (22,2%),
tiếp theo là các bệnh ỉa chảy (13,9%); nhiễm
khuẩn huyết và nhiễm trùng (16,7%).
Sở dĩ có sự khác so với các tác giả có thể chỉ là
do phân bố bệnh tật tại các thời điểm khác nhau,
mức glucose máu chọn, lứa tuổi, số lượng bệnh
nhân thu thập được và ở các địa phương khác
nhau mà thôi. Nhóm bệnh về hô hấp cao hơn hẳn
các tác giả khác có một yếu tố khách quan là năm
2014 ở miền Bắc - Việt Nam, đặc biệt là khu vực
Hà Nội và các tỉnh lân cận bùng phát dịch sởi ở trẻ
em. Khoa HSCC BV Nhi TƯ, yêu cầu ưu tiên nhận
47
phần nghiên cứu
bệnh nhân sởi, để cấp cứu và điều trị, do đó làm
cho tỷ lệ bệnh về hô hấp tăng cao lên.
4.2. Ảnh hưởng của tăng glucose máu đến kết
cục bệnh của bệnh nhân điều trị tại khoa HSCC
- Thời gian điều trị tại khoa HSCC: kết quả của
chúng tôi thời gian nằm HSCC trung bình là: 8,4 ±
7,1 ngày và 5,2 ± 3,3 ngày, kết quả này cho thấy thời
gian nằm HSCC ở nhóm bệnh nhân tăng glucose
máu dài hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm bệnh
nhân không tăng glucose máu (p < 0,001).
Kết quả của chúng tôi phù hợp với Srinivasan
và CS [6], nghiên cứu tại Mỹ năm 2005, nhóm bệnh
nhân tăng glucose máu có thời gian nằm HSCC
dài hơn nhóm bệnh nhân không tăng glucose
máu (71% ± 14% of PICU ngày và 37%±5% of
PICU ngày; p <0,001).
Nghiên cứu của Mikos B và CS[14] năm 2007:
thời gian nằm HSCC của nhóm bệnh nhân glucose
máu ≥ 6,1 mmol/l có phần trăm ngày điều trị thấp
hơn một cách đáng kể giữa bệnh nhân được cứu
sống và bệnh nhân tử vong (42,68% và 74,07%;
p <0,01). Kết quả của chúng tôi nhóm bệnh nhân
tăng đường huyết được cứu sống có thời gian
nằm HSCC thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm bệnh nhân tăng glucose máu tử vong. Kết
quả của chúng tôi cũng phù hợp với Wintergerts
và CS [17] tại Mỹ năm 2006.
- Ảnh hưởng của tăng glucose máu đến thời
gian thở máy; nhóm bệnh thời gian thở máy
trung bình kéo dài hơn thời gian thở máy trung
bình của nhóm chứng (7,9±6,8 ngày và 4,1±2,9
ngày, p<0,001). Tăng glucose máu dẫn đến tăng
hoạt động của các protein vận chuyển xuyên
màng không phụ thuộc insulin, làm cho nồng độ
glucose trong tế bào tăng lên, tăng thủy phân
glucose trong tế bào, làm sản sinh ra nhiều các
gốc tự do, gây rối loạn chức năng ty lạp thể tế
bào làm tổn thường tế bào. Sự phối hợp của cùng
lúc nhiều yếu tố trên đã làm cho thời gian thông
khí cơ học của bệnh nhân tăng lên. Kết quả của
chúng tôi cũng phù hợp với Ognibene và CS [9].
- Ảnh hưởng của tăng glucose máu đến việc
sử dụng thuốc vận mạch; tăng glucose máu gây
rối loạn chuyển hóa, rối loạn chức năng ty lạp thể
của tế bào, rối loạn hoạt động tế bào, làm giảm
khả năng đáp ứng của tế bào với các hormone
cũng như các catecholamine, tổn thương và giảm
đáp ứng của tế bào với catecholamine do vậy để
duy trì tuần hoàn đòi hỏi phải sử dụng nhiều
thuốc vận mạch hơn. Số thuốc vận mạch trung
bình ở nhóm bệnh nhân tăng glucose máu là 1,83
± 0,71 thuốc, số thuốc vận mạch trung bình dùng
ở nhóm bệnh nhân không tăng glucose máu là
1,28 ± 0,48 thuốc (p < 0,001). Thời gian sử dụng
thuốc vận mạch trung bình của nhóm bệnh nhân
tăng glucose máu và nhóm bệnh nhân không
tăng glucose máu tương ứng là 3,8 ± 1,9 ngày và
2,3 ± 0,8 ngày, p < 0,001.
- Ảnh hưởng của tăng glucose máu lên kết
quả điều trị: tỷ lệ tử vong giữa hai nhóm lần lượt
là: 49,5% và 9,9% (p<0,001; OR: 8,92; 95% CI:
5,21-15,28). Như vậy bệnh nhân tăng glucose
máu có nguy cơ tử vong cao gấp 8,92 lần bệnh
nhân không tăng glucose máu.
Nghiên cứu của Srinivasan [6] cho thấy nguy
cơ vong ở bệnh nhân tăng glucose máu cao
gấp 3,4 lần bệnh nhân không tăng glucose
máu (OR= 3,3; 95%CI: 1,4-8,6). Faustino và CS
[7], kết quả bệnh nhân tăng glucose máu có tỷ lệ
tử vong cao gấp 2,5 lần bệnh nhân không tăng
glucose máu (RR= 2,5; 95%CI: 1,3-4,9).
Hishberg và CS [8], thì bệnh nhân tăng glucose
máu có nguy cơ tử vong cao gấp 11,1 lần bệnh
nhân không tăng glucose máu (OR= 11,1; 95%CI:
1,5-85,6).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn
của Hishberg, nhưng cao Srinivasan (cùng dùng
chỉ số OR). Sự khác nhau này theo chúng tôi có
thể do: mức glucose định nghĩa tăng glucose
máu khác nhau; cỡ mẫu khác nhau, đối tượng
nghiên cứu khác nhau; cách thức xét nghiệm
glucose máu khác nhau; tiêu chuẩn chọn bệnh
nhân khác nhau, các tác giả đều có chung
nhận xét: Bệnh nhân tăng glucose máu có nguy
có tử vong cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
bệnh nhân không tăng glucose máu.
tạp chí nhi khoa 2017, 10, 3
48
5. KẾT LUẬN
Tần suất bệnh nhân vào khoa HSCC có tăng
glucose máu khá cao chiếm tỷ lệ là 17,4%. Nhóm
tuổi có tần suất mắc cao nhất là từ 1 tháng đến 12
tháng tuổi, nhóm bệnh có tần suất mức cao nhất là
hô hấp, tiếp đến là truyền nhiễm và nhóm bệnh về
thần kinh.
Tăng glucose máu có ảnh hưởng rõ đến kết cục
của bệnh: tăng thời gian nằm HSCC, thời gian thở
máy, thời gian và số lượng thuốc vận mạch dùng.
Nguy cơ tử vong của nhóm bệnh nhân tăng
glucose máu cao hơn nhiều lần nhóm bệnh nhân
không tăng glucose máu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. ducan Macrae, John Pappachan, Richard
Greve at al (2010). “Control of hyperglycemia
in paediatric intensive care (CHiP): study
protocol”, BMC pediatr, 10:5.
2. Trần thế Vinh, Võ công Đồng (2009). “Đặc
điểm các trường hợp bệnh năng có tăng đường
huyết tại khoa Cấp cứu và hồi sức Bệnh viện Nhi
Đồng II” Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
Tạp chí số 13, tr8-12 .
3. Srinivasan V, Spinella PC, drott HR et al
(2005). “Association of timing, duration and
intensity of hyperglycemia with intensive care
unit mortality in critically ill children “Pediatr crit
care med. 2005 jan;6 (1): 94;author reply 94-5 .
4. faustino EV, Apkon M (2005). “Persistent
hyperglycemia in critically ill children”J Pediatr.
2005 Jan;146(1):30-4.
5. Hirshberg E,Larsen G, Van duker H (2008).
“Alteration in glucose homeostasis in the
pediatric intensive care unit: Hyperglycemia and
glucose variability are associated with increased
mortality and morbidity”Pediatr Crit Care
Med.2008Jul; 94 (4):361-6.
6. Ognibene KL,Vawdrey dK, Biagas KV (2011).
“The association of age, illness seveity and
glycemic status in a pediatric intensive care unit
“Pediatr Crit Care Med. 2011 Nov;12(6): 386-90
7. Piyush Gupta, Girija Natarajan and
K.N.Agarwal (1997). “Transient hyperglycemia
in acut childhood illnesses: To attend or ignore
“Indian J pediatr 1997;64:205-210
8. yung M, Wilkins B, Norton L, et al (2008)
“Glucose control, organ failure and mortality in
pediatric intensive care “Pediatr Crit Care Med, 2008
Mar; 9 (20 ): 147- 52.
9. Milkos B,Barkai L (2007). “Hyperglycemia
and Mortality in critically ill childen “Orv Hetil.
2007 Apr 15; 148 (15):638- 8.
10. Branco RG,Garcia PC, Piva JP, et al (2005).
“Glucose level and risk of mortality in pediatric
septic shock “Pediatr Crit Care Med; 6 (4): 498-9.
11. Wintergerst KA, Buckingham B, Gandrud
L, et al (2006). “Association of hypoglycemia,
hyperglycemia and glucose variability with
morbidity and death in pediatric intensive care
unit “Pediatrcs. 2006 Jul; 118 (1):173-9.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_tan_suat_tang_glucose_mau_va_anh_huong_den_ket_qua.pdf