Qua 3 thử nghiệm trên thì PĐ3 (cao
ethyl acetate) cho khả năng kháng oxy hóa
mạnh nhất và yếu nhất ở PĐ2 (cao hexane:
ethyl acetate:1 :1). Theo nghiên cứu của
Almeida và cs. (2011), polyphenol là hợp
chất quan trọng nằm trong số các nhóm hợp
chất có khả năng kháng oxy hóa. Bên cạnh
đó, hợp chất triterpenoid (myricarin C,
myricarin A và myricarin B) được Xu và cs.
(2017) công bố có hoạt tính khử gốc tự do.
Và đây cũng là những hợp chất hiện diện
nhiều trong các chiết xuất lá Bình bát nước,
đặc biệt qua thí nghiệm khảo sát sự hiện diện
các HCTV và định lượng hàm lượng
polyphenol tổng thì PĐ3 chiếm ưu thế về các
hợp chất này hơn các phân đoạn khác. Mặc
dù kết quả định lượng polyphenol cho thấy
hàm lượng chất này có trong PĐ2 nhiều hơn
PĐ1 nhưng ở thí nghiệm khả năng kháng
oxy thì PĐ1 lại cho khả năng kháng oxy hóa
mạnh hơn. Hiện tượng này đã được giải
thích bởi Tan và cs. (2011), mối quan hệ
giữa các hợp chất kháng oxy hóa và khả
năng kháng oxy hóa thường rất phức tạp.
Khả năng kháng oxy hóa không chỉ phụ
thuộc vào lượng chất kháng oxy hóa mà còn
dựa vào cấu trúc và sự tương tác lẫn nhau.
Do đó, hàm lượng polyphenol hoặc
flavonoid tồn tại nhiều không nhất thiết thể
hiện khả năng kháng oxy hóa mạnh mà còn
dựa trên các nhóm chất khác như carotenoid,
vitamin và chất khoáng. Bên cạnh đó, để giải
thích thêm cho hiện tượng này thì theo báo
cáo của Odabasoglu và cs. (2005), hoạt tính
kháng oxy hóa của một số chiết xuất có thể
là do sự hiện diện của các hợp chất nonphenolic. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng
polyphenol có thể có hoạt tính kháng oxy
hóa riêng biệt hoặc có thể ức chế hoặc cộng
gộp giữa polyphenol và các hợp chất khác
như carbohydrate, protein. Ở thí nghiệm định
lượng, hàm lượng saponin trong PĐ1 và
PĐ2 vượt trội hơn so với các nghiệm thức
còn lại nhưng khả năng kháng oxy hóa ở hai
nghiệm thức này thì yếu hơn. Khả năng
kháng oxy hóa của ginsenoside được thể
hiện thông qua gốc đường gắn vào các vị
trí khác nhau trên mạch triterpen, đây là
một chỉ số về mối quan hệ giữa cấu trúc và
hoạt động (Chae và cs., 2010). Mỗi
ginsenoside Re, Rd, R1 là những chất
kháng oxy hóa vì gốc đường gắn vào vị trí
20 trên mạch triterpen, ngược lại những
chất chất tiền oxy hóa như Rg3, Rh2 và Rg2
thì không có gốc đường gắn vào vị trí này
(Lu và cs., 2009). Theo báo cáo của Lee và
cs. (2016), khả năng kháng oxy của
ginsenoside Rg1 không tỉ lệ thuận với hàm
lượng chất này có trong mẫu và cũng không
tìm thấy sự tương quan nào. Xét theo cấu
trúc hóa học, ginsenoside không giàu điện
tử như các hợp chất polyphenol (hợp chất
được ổn định bởi sự di chuyển cộng hưởng
của các electron chưa ghép cặp bao gồm
trên mạch vòng). Do đó, có lẽ ginsenoside
là chất kháng oxy yếu vì hợp chất này
không dễ dàng thực hiện phản ứng nhường
electron một cách hiệu quả với tác nhân
oxy hóa (Chae và cs., 2010).
Qua khảo sát hoạt tính kháng oxy
hóa ở các cao phân đoạn lá bình bát nước
bằng các phương pháp khử gốc tự do
DPPH, khử gốc hydro peroxide và năng
lực khử thì PĐ3 (cao ethyl acetate) cho khả
năng kháng oxy hóa mạnh nhất.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 8 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát thành phần hóa học và khả năng kháng oxy hóa của các phân đoạn cao chiết lá già từ cây bình bát nước (annona glabra L), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1668-1678
1668 Huỳnh Thanh Duy và cs.
KHẢO SÁT THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ KHẢ NĂNG KHÁNG OXY HÓA CỦA
CÁC PHÂN ĐOẠN CAO CHIẾT LÁ GIÀ TỪ CÂY BÌNH BÁT NƯỚC
(Annona glabra L.)
Huỳnh Thanh Duy*, Lương Phong Dũ, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Đức Độ
Viện nghiên cứu và phát triển Công nghệ Sinh học, trường Đại học Cần Thơ
*Tác giả liên hệ: thanhduyhuynh1997@gmail.com
Nhận bài: 21/08/2019 Hoàn thành phản biện: 11/10/2019 Chấp nhận bài: 25/10/2019
TÓM TẮT
Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định sự hiện diện của một số hợp chất hóa học thực vật phổ
biến, khảo sát hàm lượng polyphenol, saponin tổng và khả năng kháng oxy hóa của các nghiệm thức cao
chiết phân đoạn từ cao chiết ethanol lá già từ cây bình bát nước. Bằng cách sử dụng các dung môi có độ
phân cực khác nhau như hexane, hỗn hợp hexane: ethyl acetate (tỉ lệ 1:1) và ethyl acetate qua phương pháp
tách chiết lỏng - lỏng, các hợp chất có hoạt tính sinh học từ lá bình bát nước (Annona glabra L.) được ly
trích một cách hiệu quả. Qua phương pháp đo quang phổ UV-Vis với dãy bước sóng từ 215 - 550 nm, các
nhóm hợp chất hóa học thực vật như steroid, triterpenoid, phenolic, quinone, tannin, flavonoid, carotenoid,
saponin và alkaloid được phát hiện ở từng phân đoạn. Hàm lượng polyphenol tổng nhiều nhất ở phân đoạn
3 (PĐ3) đạt 160 mg GAE/g chiết xuất và hàm lượng saponin tổng nhiều nhất ở phân đoạn 2 (PĐ2) đạt
84,68 mg/g chiết xuất. Khả năng kháng oxy hóa của các nghiệm thức cao chiết được đánh giá qua khả năng
khử gốc tự do DPPH, H2O2 và ion Fe3+. PĐ3 với giá trị IC50 lần lượt là 3,34 μg/mL; 49 μg/mL và 19,7
μg/mL cho khả năng kháng oxy hóa mạnh nhất và yếu nhất ở PĐ2 với giá trị IC50 lần lượt là 70 μg/mL; 199
μg/mL và 102,6 μg/mL. Qua nghiên cứu cũng cho thấy rằng độ phân cực của dung môi ảnh hưởng đến
hàm lượng các hợp chất thực vật được ly trích và khả năng kháng oxy hóa của cao chiết.
Từ khóa: Cao phân đoạn bình bát nước (Annona glabra L.), Hàm lượng polyphenol tổng, Hàm lượng
saponin tổng, Khả năng kháng oxy hóa
PHYTOCHEMICAL SCREENING, TOTAL POLYPHENOL AND SAPONIN
CONTENTS AND ANTIOXIDANT ACTIVITES OF FRACTIONS FROM
Annona glabra L. LEAVES BY LIQUID - LIQUID EXTRACTION
Huynh Thanh Duy, Luong Phong Du, Nguyen Van Thanh, Nguyen Duc Do
Biotechnology Research and Development Institute, Can Tho University
ABSTRACT
The objective of this study is to evaluate the phytochemicals, total polyphenol and saponin
contents and antioxidant activities of ethanol extract of Annona glabra L. leaves fractionations. Using
liquid/liquid extraction, three fractions were obtained from an ethanol extract of Annona glabra L.
leaves: n-hexane fraction, n-hexane: ethyl acetate (1:1) fraction, and ethyl acetate fraction. The
phytochemical screening in the wavelength ranging from 215 - 550 nm measured by spectrophotometer
(UV-Vis) method, confirming the presence of steroid, triterpenoid, phenolic, quinone, tannin, flavonoid,
carotenoid, saponin and alkaloid. The ethyl acetate fraction (PD3) exhibited the highest amount of total
polyphenol content (160 mg gallic acid equivalent/g) by using the Folin-Ciocalteu assay. The total
saponin content was determined by vanillin/H2SO4 method. The n-hexane: ethyl acetate (1:1) fraction
(PD2) showed the highest total saponin content (84.68 mg/g). Moreover, PD3 illustrated stronger
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1668-1678
1669
antioxidant capacity throughout different activities in scavenging free radical (DPPH, H2O2) and
reducing power compared with the other fractions. In addition, this study indicated a correlation between
the content of notable chemical compounds and antioxidant capacity in solvents with different polarities
and ratios. Furthermore, it is suggested that Annona glabra L. can be used in dietary applications with a
the potential to reduce oxidative stresses.
Keywords: Antioxidant activities, Fractions of Annona glabra L. leaves extracts, Total polyphenol
content, Total saponin content
1. MỞ ĐẦU
Trong tất cả các các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, thực vật trong hệ thống
y học cổ truyền đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu, báo cáo thường xuyên nhất về
tác dụng phòng và trị bệnh (Lumlerdkij và
cs., 2018). Hai phần ba các loài thực vật
trên thế giới có tầm quan trọng về dược tính
và phần lớn trong số đó có tiềm năng kháng
oxy hóa (Kasote và cs., 2015).
Stress oxy hóa được định nghĩa là
nguyên nhân chính của sự hình thành và
phát triển của một số bệnh. Trong đó, thực
vật có khả năng sinh tổng hợp một lượng
lớn các chất kháng oxy hóa phi enzyme để
làm giảm thiệt hại do các phản ứng oxy
hóa diễn ra (Kasote và cs., 2015) nhờ vào
các hợp chất thực vật có hoạt tính khử gốc tự
do như polyphenol, alkaloid, ginsenoside và
terpenoid (Awaad và Al-Jaber, 2010; Lu và
cs., 2009).
Bình bát nước (Annona glabra L.) là
một loài thực vật thuộc họ na
(Annonaceae), phân bố hoang dã trong tự
nhiên và được tìm thấy chủ yếu ở rừng
đước nhiệt đới thuộc Nam Mỹ (Venezuela),
Tây Ấn Độ và Tây Phi (Lim, 2012). Đây là
một họ lớn bao gồm hơn 120 chi và 2000
loài (Leboeuf và cs., 1982). Với khả năng
trị liệu cao do chứa nhiều hợp chất có khả
năng kháng oxy hóa, kháng khuẩn, kháng
nấm (Padmaja và cs., 1995), kháng giun,
kháng viêm (Moghadamtousi và cs., 2015),
diệt ký sinh trùng, trị tiêu chảy (Pimenta và
cs., 2003), sốt rét (Siebra và cs., 2009),
kháng lại các tác nhân gây độc tế bào và
loãng xương (Hamid và cs., 2012) nên
bình bát nước đã được nghiên cứu trong
nhiều thập kỉ qua. Đặc biệt là khả năng ức
chế ung thư với nhóm hợp chất acetogenin
(Cochrane và cs., 2008). Ngoài ra, trái của
các cây họ na (Annonaceae) có thể sử dụng
trong thực phẩm do chứa nhiều hàm lượng
protein, acid béo, chất xơ, carbohydrate và
vitamin (Kumahar, 2009). Tuy nhiên, các
nghiên cứu về bình bát nước ở Việt Nam
vẫn chưa được công bố rộng rãi. Mục tiêu
của nghiên cứu này nhằm xác định sự hiện
diện của các nhóm hợp chất thực vật, hàm
lượng polyphenol tổng, saponin tổng cũng
như khả năng kháng oxy hóa của các phân
đoạn cao chiết lá bình bát nước qua
phương pháp: khả năng khử gốc tự do
DPPH, H2O2 và ion Fe3+.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu, hóa chất
Vật liệu: Lá già bình bát nước
(Annona glabra L.) được thu hái từ
phường Hưng Phú, quận Cái Răng, thành
phố Cần Thơ.
Hóa chất: Các hóa chất cần thiết cho
nghiên cứu bao gồm: Ethanol (Việt Nam),
hexane (Việt Nam), ethyl acetate (Việt
Nam), methanol (Việt Nam), Na2SO4 khan
(Trung Quốc), FeCl3.6H2O (Trung Quốc),
H2SO4 đậm đặc (Trung Quốc), acid gallic
(Trung Quốc), thuốc thử Folin - Ciocalteu
(Đức), Na2CO3 (Trung Quốc), H2O2 30%
(Trung Quốc), vitamin C (Trung Quốc) và
một số hóa chất khác.
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1668-1678
1670 Huỳnh Thanh Duy và cs.
2.2. Điều chế cao chiết
Lá già bình bát nước được xay
nhuyễn với dung môi ethanol tỉ lệ 1:5 kết
hợp sử dụng sóng siêu âm (Nguyễn Văn
Băn và cs., 2018). Sau đó, lọc lấy phần
dịch trích và cô quay chân không cho đến
khi bay hết dung môi, tiến hành hút chân
không để loại bỏ một phần ẩm độ, thu cao
thô. Chiết lỏng - lỏng cao thô lần lượt với
các dung môi có độ phân cực tăng dần
(Bảng 1), thu được các cao phân đoạn
tương ứng, tiến hành cô quay chân không
để thu hồi dung môi và thu cao rắn trữ
đông ở -20oC.
Bảng 1. Tỉ lệ dung môi được sử dụng trong điều chế cao chiết
Nghiệm thức Dung môi Tỉ lệ dung môi
Cao thô Ethanol 1:5 (w/v)
PĐ1 (phân đoạn 1) Hexane:Ethyl acetate 1:0 (v/v)
PĐ2 (phân đoạn 2) Hexane:Ethyl acetate 1:1 (v/v)
PĐ3 (phân đoạn 3) Hexane:Ethyl acetate 0:1 (v/v)
2.3. Phương pháp phân tích
2.3.1. Khảo sát sự hiện diện của các hợp
chất thực vật (HCTV)
Xác định sự hiện diện của các HCTV
dựa trên các bước sóng hấp thụ: steroid (215
nm), triterpenoid (230 nm), phenolic (255
nm), quinone (260 nm), tannin (265 nm),
flavonoid (300 nm), carotenroid (450 nm),
saponin (545 nm) và alkaloid (550 nm) theo
mô tả của Harborne (1973) có hiệu chỉnh. Các
nghiệm thức cao chiết được hòa tan bằng
methanol. Mẫu trắng là mẫu chỉ chứa
methanol.
2.3.2. Khảo sát hàm lượng polyphenol tổng
(TPC) và saponin tổng (TSC)
2.3.2.1. Khảo sát hàm lượng polyphenol
tổng (TPC)
Hàm lượng TPC được xác định dựa
theo mô tả của Yadav và Agarwala (2011)
có hiệu chỉnh. Cho 0,1 mL dung dịch acid
gallic (20 - 120 μg/mL) với 1 mL dung
dịch Folin - Ciocalteu 10% vào ống
nghiệm, để phản ứng trong vòng 5 phút.
Sau đó, thêm vào 1 mL Na2CO3 2%. Sau
45 phút ủ tối, tiến hành ghi nhận độ hấp
thu tại bước sóng 765 nm. Mẫu trắng là
methanol. Các nghiệm thức cao chiết cũng
được thực hiện tương tự. Acid gallic và
cao chiết được hòa tan bằng methanol, hóa
chất khác được hòa tan bằng nước khử ion.
TPC được tính bằng cách dựa vào phương
trình y = ax + b của đường chuẩn acid
gallic.
Hàm lượng polyphenol tổng:
Trong đó, C: hàm lượng polyphenol
tổng (mg GAE/g chiết xuất); c: giá trị x từ
đường chuẩn với acid gallic (µg/mL); V:
thể tích dịch chiết (mL); m: khối lượng cao
chiết có trong thể tích V (g).
2.3.2.2. Khảo sát hàm lượng saponin tổng
(TSC)
Hàm lượng TSC được xác định theo
mô tả của Hiai và cs. (1976) có hiệu chỉnh.
Cho 500μL chất chuẩn ginsenoside (Rb1,
Rg1, Rg3) có nồng độ 10 - 60 μg/mL (được
hòa tan bằng methanol 80%) vào ống nghiệm.
Thêm vào 200 μL dung dịch vanillin 4%
(được pha loãng bằng methanol). Sau đó,
thêm vào 1,8 mL H2SO4 70% (được pha
loãng bằng nước khử ion) và lắc đều. Ủ hỗn
hợp ở 60oC trong 10 phút, sau đó làm lạnh
trong 15 phút. Tiến hành ghi nhận kết quả độ
hấp thụ của mẫu tại bước sóng 550 nm. Mẫu
trắng là hỗn hợp vanillin 4% và H2SO4 70%.
Cao chiết được pha loãng bằng methanol 80%
thành nồng độ tương ứng và được tiến hành
tương tự. Hàm lượng saponin được tính bằng
cách dựa vào phương trình y = ax + b của
đường chuẩn ginsenoside.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1668-1678
1671
Trong đó, S: Hàm lượng saponin
tổng có trong các phân đoạn cao chiết
(mg/g chiết xuất); D: Độ hấp thụ của mẫu;
a,b: giá trị từ đường chuẩn; V: thể tích của
dịch chiết (mL); N: độ pha loãng; W: khối
lượng cao chiết có trong thể tích V (mg).
2.3.3. Khảo sát khả năng kháng oxy hóa
2.3.3.1. Khảo sát khả năng khử gốc tự do
DPPH (2,2-diphenyl-1-picrylhydrazyl)
Khả năng khử gốc tự do DPPH của
các nghiệm thức cao chiết được thực hiện
theo phương pháp của Blois (1958). 1,5 mL
dung dịch mẫu được bơm vào ống nghiệm,
sau đó thêm 0,5 mL DPPH 0,1 mM. Ủ tối 30
phút ở nhiệt độ phòng, các mẫu được tiến
hành đo độ hấp thụ quang phổ ở bước sóng
517 nm. Mẫu trắng là methanol. Đối chứng
được sử dụng là vitamin C (0,5 – 3 µg/mL).
Quy trình được thực hiện tương tự đối với các
nghiệm thức cao chiết. Các hóa chất và cao
chiết được hòa tan bằng methanol. Phần trăm
ức chế gốc tự do được tính theo công thức:
Phần trăm ức chế gốc tự do DPPH
(%):
Trong đó, Ao: Độ hấp thụ của mẫu
trắng (không chứa cao chiết); A: Độ hấp
thụ mẫu có chứa cao chiết hoặc vitamin C.
2.3.3.2. Khảo sát khả năng khử gốc tự do
hydrogen peroxide
Khả năng khử gốc tự do hydrogen
peroxide của các nghiệm thức cao chiết được
thực hiện theo phương pháp của Rahate và cs.
(2016). Bơm 0,5 mL dung dịch mẫu vào ống
nghiệm, tiếp theo bổ sung 2,5 mL dung dịch
H2O2 4 mM. Để yên 10 phút, các mẫu được
tiến hành đo độ hấp thụ quang phổ ở bước
sóng 230 nm. Đối chứng là vitamin C (50 -
100 g/mL). Quy trình được thực hiện tương
tự đối với các nghiệm thức cao chiết. Mẫu
trắng không bổ sung H2O2. Các hóa chất và
cao chiết được hòa tan bằng đệm phosphate
pH 7,4; 0,05 M. Phần trăm ức chế gốc tự do
được tính theo công thức:
Phần trăm ức chế gốc hydrogen
peroxide (%):
Trong đó, Ao: Độ hấp thụ của mẫu
trắng (mẫu không chứa H2O2); A: Độ hấp
thụ mẫu có chứa cao chiết hoặc vitamin C.
2.3.3.3. Khảo sát năng lực khử
Khả năng khử ion Fe3+ của các nghiệm
thức cao chiết được thực hiện theo phương
pháp của Oyaizu (1986) có hiệu chỉnh. Lần
lượt cho 90 µL dung dịch vitamin C (1,5 - 4
μg/mL) vào ống nghiệm có chứa 225 µL
dung dịch đệm phosphate 0,2 M (pH 6,6).
Tiếp tục thêm vào 225 µL dung dịch kali
ferricyanid 1%. Ủ dung dịch trên ở nhiệt độ
50oC trong 20 phút. Sau đó, bổ sung thêm 225
µL dung dịch trichloroacetic acid 10%. Tiếp
đến thêm vào 2125 µL nước khử ion và 125
µL dung dịch ferric chloride 0,1%. Xác định
độ hấp thụ bằng máy đo quang phổ ở bước
sóng 700 nm. Mẫu trắng là nước khử ion.
Quy trình được thực hiện tương tự đối với các
nghiệm thức cao chiết. Các hóa chất và
nghiệm thức cao chiết được hòa tan bằng
nước khử ion.
Khả năng khử ion Fe3+ của vitamin C và
các nghiệm thức cao chiết được tính theo công
thức:
Trong đó, Ao: Độ hấp thụ của mẫu
trắng; A: Độ hấp thụ mẫu có chứa cao
chiết hoặc vitamin C.
Từ phương trình đường chuẩn y =
ax + b xây dựng được từ dãy nồng độ
tương ứng với từng nghiệm thức ta suy ra
giá trị IC50 ở mỗi thí nghiệm..
2.3.4. Phương pháp phân tích và xử lý số
liệu
Kết quả thực nghiệm được nhập liệu
bằng Microsoft Excel 2010 và phân tích thống
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1668-1678
1672 Huỳnh Thanh Duy và cs.
kê bằng phần mềm Minitab version 16. Mỗi
thí nghiệm được bố trí ngẫu nhiên với ba lần
lặp lại. Phân tích phương sai (ANOVA) với
kiểm định Tukey để xác định và so sánh các
giá trị trung bình.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khảo sát sự hiện diện của các hợp
chất thực vật
Từ kết quả thí nghiệm, các phân đoạn
cao chiết đều hiện diện hầu hết các HCTV
quan trọng như steroid, triterpenoid,
phenolic, quinone, tannin, flavonoid,
carotenoid, saponin và alkaloid và được trình
bày trong Bảng 2.
Bảng 2. Kết quả định tính các HCTV hiện diện trong cao thô và cao phân đoạn lá bình bát nước
(Annona glabra L.)
* Giá trị OD là giá trị trung bình của ba lần lặp lại. Ở từng hợp chất, các giá trị có ít nhất 1 chữ cái
theo sau giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1% qua kiểm định Tukey.
Từ số liệu (Bảng 2), khi xét giữa các
nhóm HCTV thì steroid và triterpenoid là hai
hợp chất có sự hiện diện nhiều nhất và ít nhất
là saponin, alkaloid. Khi xét giữa cao thô và
cao phân đoạn, ở sáu nhóm chất (steroid,
triterpenoid, phenolic, quinone, tannin và
flavonoid), PĐ3 là phân đoạn có hàm lượng
các hợp chất nhiều nhất và ít nhất ở PĐ1, ở ba
nhóm chất còn lại (carotenoid, saponin,
alkaloid) cho kết quả khác biệt, PĐ2 có hàm
lượng nhiều nhất và ít nhất ở cao thô và PĐ1.
Các phân đoạn được ly trích với dung môi có
độ phân cực tăng dần là hexane, hỗn hợp
hexane:ethyl acetate (tỉ lệ 1:1) và ethyl acetate
cho thấy dung môi càng phân cực cho khả
năng ly trích được càng nhiều các hợp chất
thực vật. Theo Zhang (2015), các dung môi
khác nhau có sự khác biệt về độ phân cực, độ
phân tán và tính thấm có thể sàng lọc được
các chiết xuất hóa học thực vật khác nhau.
Theo nghiên cứu của Ezealisij và Tamuno-Eli
(2017), các bộ phận của loài mãng cầu xiêm
có sự hiện diện nhiều hợp chất chuyển hóa
thứ cấp như phenol, tannin, alkaloid,
flavonoid và carbohydrate. Như vậy, các
nghiệm thức cao chiết lá bình bát nước
(Annona glabra L.) đều có sự hiện diện của
hầu hết các hợp chất thực vật, độ phân cực
của dung môi có ảnh hưởng đến sự hiện diện
các hợp chất ở mỗi phân đoạn.
3.2. Kết quả khảo sát hàm lượng
polyphenol tổng và hàm lượng saponin
tổng
Giá trị TPC và TSC trong cao chiết
phân đoạn và cao thô lá bình bát nước lần
lượt được tính bằng đơn vị mg GAE/g chiết
xuất và mg/g chiết xuất, giá trị này càng lớn
cho thấy hàm lượng của các hợp chất này
trong mẫu càng nhiều. Giá trị TPC trong
bảng này được xác định dựa vào phương
trình đường chuẩn của acid gallic: y =
0,0032x - 0,017; R2 = 0,9983 và giá trị TSC
được xác định qua phương trình đường
chuẩn của ginsenoside (Rb1, Rg1, Rg3): y =
HCTV
Giá trị hấp thụ quang phổ (OD) ở nồng độ 25 μg/mL
Cao thô PĐ1 PĐ2 PĐ3
Steroid 0,393 ± 0,011b 0,220 ± 0,007d 0,393 ± 0,011b 0,614 ± 0,020a
Triterpenoid 0,300 ± 0,014b 0,128 ± 0,008d 0,251 ± 0,002bc 0,557 ± 0,030a
Phenolic 0,170 ± 0,001b 0,065 ± 0,001d 0,158 ± 0,002b 0,381 ± 0,002a
Quinone 0,174 ± 0,003b 0,066 ± 0,001e 0,146 ± 0,001c 0,389 ± 0,004a
Tannin 0,168 ± 0,001b 0,060 ± 0,001e 0,136 ± 0,002c 0,369 ± 0,005a
Flavonoid 0,124 ± 0,002b 0,045 ± 0,001d 0,117 ± 0,001b 0,236 ± 0,010a
Carotenoid 0,014 ± 0,001bc 0,020 ± 0,002b 0,063 ± 0,004a 0,018 ± 0,003b
Saponin 0,004 ± 0,001c 0,004 ± 0,000bc 0,034 ± 0,001a 0,010 ± 0,003b
Alkaloid 0,004 ± 0,000bc 0,004 ± 0,000bc 0,026 ± 0,001a 0,009 ± 0,002b
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1668-1678
1673
0,0144x + 0,0306; R2 = 0,9985. Kết quả được trình bày trong Bảng 3.
Bảng 3. Giá trị TPC (mg GAE/g chiết xuất) và TSC (mg/g chiết xuất) có trong cao phân đoạn và cao
thô lá bình bát nước (Annona glabra L.)
Nghiệm thức TPC (mg GAE/g chiết xuất) TSC (mg/g chiết xuất)
Cao thô 94,8 ± 0,6c 48,8 ± 0,4b
PĐ1 60,2 ± 0,8d 81,3 ± 0,8a
PĐ2 137,1 ± 1,6b 84,7 ± 0,8a
PĐ3 160,0 ± 1,4a 44,1 ± 1,4c
* Ở mỗi cột, các số có ít nhất 1 chữ cái theo sau giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở mức
ý nghĩa 1% qua kiểm định Tukey của giá trị trung bình qua ba lần lặp lại
Các phân đoạn cao chiết lá bình bát
nước đều có chứa khá nhiều polyphenol
(Bảng 3) với hàm lượng dao động từ 60,2
đến 160 mg GAE/g chiết xuất. PĐ3 (cao
ethyl acetate) được xác định là nghiệm thức
có chứa nhiều hàm lượng polyphenol nhất,
lần lượt giảm dần theo thứ tự các nghiệm
thức PĐ2 (cao hỗn hợp hexane: ethyl
acetate), cao thô (cao ethanol) và ít nhất là
PĐ1 (cao hexane). Hàm lượng polyphenol
xác định được phù hợp với thí nghiệm khảo
sát sự hiện diện các nhóm hợp chất. Cụ thể là
qua thí nghiệm định tính, các hợp chất thuộc
nhóm polyphenol (steroid, phenolic, tannin,
quinone, flavonoid), được xác định nhiều
nhất ở PĐ3 và ít nhất ở PĐ1. Ở họ na, vỏ
Anaxagorea dolichocarpa được ly trích với
dung môi hexane, ethyl acetate và ethanol
cho hàm lượng polyphenol lần lượt là 5,4;
245,1; 57,13 mg GAE/g chiết xuất. Cũng với
các dung môi trên, ở trái Duguetia
chrysocarpa cho hàm lượng lần lượt là
50,47; 213,11; 191,8 mg GAE/g chiết xuất
(Almeida và cs., 2011). Kết quả của đề tài và
nghiên cứu trên cũng phù hợp với nhận định
của Talla và cs. (2014), dung môi có độ phân
cực trung bình (ethyl acetate, ethanol) cho
khả năng ly trích hàm lượng polyphenol hiệu
quả hơn dung môi không phân cực (hexane).
Qua Bảng 3 cho thấy các phân đoạn
cao chiết lá bình bát nước đều có chứa hàm
lượng saponin khá nhiều với hàm lượng dao
động từ 44,1 đến 84,7 mg/g chiết xuất. Hàm
lượng saponin nhiều nhất ở PĐ2, khác biệt
không có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%
với PĐ1 và ít nhất là ở PĐ3. Giá trị hàm
lượng saponin này cũng phù hợp với kết quả
định tính khi xác định được hợp chất này
nhiều nhất ở PĐ2. Dung môi không phân cực
(hexane) và có độ phân cực thấp (hexane:
ethyl acetate) ly trích được hàm lượng
saponin nhiều hơn dung môi phân cực trung
bình (ethyl acetate, ethanol). Điều này được
giải thích theo báo cáo của Nag và cs. (2012),
ginsenoside có xu hướng lưỡng cực vì chúng
có một nhóm hydroxyl (OH) trên mạch
carbon nhưng mạch carbon này lại không
phân cực, cho nên có thể trong thí nghiệm này
mạch carbon không phân cực đã tham gia
phản ứng. Ở lá mãng cầu xiêm (Annona
muricata L.) được ly trích bằng dung môi
ethanol 75% sau đó được chiết xuất lại bằng
ethyl acetate cho hàm lượng saponin đạt 35,59
mg/g (Shibula và Velavan, 2016). Giá trị này
thấp hơn nhiều so với hàm lượng saponin có
trong cao chiết lá bình bát nước.
Polyphenol được biết đến là hợp chất
kháng oxy hóa. Hợp chất này có thể bảo vệ
protein và các vật liệu di truyền khỏi sự phá
hủy của các gốc tự do (Gharass, 2009).
Saponin được chứng minh là có khả năng
chống ung thư (Cinara và cs., 2012). Trong
thí nghiệm này đã phát hiện hàm lượng
polyphenol và saponin trong lá bình bát nước
khá nhiều. Như vậy, ở họ na, để ly trích hiệu
quả hàm lượng polyphenol thì dung môi
ethyl acetate và hàm lượng saponin thì dung
môi không phân cực (hexane) và có độ phân
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1668-1678
1674 Huỳnh Thanh Duy và cs.
cực thấp (hỗn hợp hexane:ethyl acetate) là
phù hợp nhất.
3.3. Khả năng kháng oxy hóa của cao
chiết phân đoạn lá bình bát nước
(Annona glabra L.)
Bảng 4. Giá trị IC50 (μg/mL) của vitamin C và các nghiệm thức cao chiết qua thử nghiệm khử gốc tự
do DPPH, hydrogen peroxide và ion Fe3+
Nghiệm thức
Giá trị IC50 (μg/mL)
Thử nghiệm với DPPH
Thử nghiệm với hydrogen
peroxide
Thử nghiệm khử ion
Fe3+
Vitamin C 2,37 ± 0,03d 89,5 ± 0,1c 2,08 ± 0,1c
Cao thô 19,7 ± 0,5c 98,9 ± 0,1b 25,9 ± 1,1b
PĐ1 42,8 ± 1,2b 95,4 ± 0,3b 98,2 ± 1,8a
PĐ2 70,0 ± 1,9a 199,3 ± 0,6a 102,6 ± 3,8a
PĐ3 3,34 ± 0,05d 49,0 ± 0,1d 19,7 ± 1,8b
* Giá trị IC50 (nồng độ ức chế 50%) là giá trị trung bình của ba lần lặp lại. Ở mỗi cột, các giá trị có ít nhất
1 chữ cái theo sau giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1% qua kiểm định
Tukey
Khả năng kháng oxy hóa của cao chiết
phân đoạn lá bình bát nước được xác định
thông qua các thử nghiệm khử gốc tự do
DPPH, hydrogen peroxide và ion Fe3+ và
được thể hiện bằng giá trị IC50 (nồng độ của
mẫu mà tại đó có thể ức chế 50% gốc tự do)
ở Bảng 4. Giá trị IC50 càng thấp mẫu sẽ có
hoạt tính kháng oxy hóa càng mạnh và
ngược lại. Giá trị này được xác định dựa trên
phương trình đường chuẩn xây dựng từ dãy
nồng độ tương ứng với từng phân đoạn cao
chiết. Kết quả cho thấy các nghiệm thức cao
chiết đều thể hiện khả năng kháng oxy hóa
tương đối mạnh.
Đối với thử nghiệm khử gốc tự do
DPPH, đây là một gốc tự do ổn định với một
electron tự do chưa ghép cặp trong phân tử.
Khi bị khử bởi chất kháng oxy hóa thì màu
tím của DPPH sẽ chuyển thành màu vàng
(Kedare và cs., 2011). Kết quả cho thấy,
PĐ3 cho khả năng kháng oxy mạnh nhất và
yếu nhất ở PĐ2. Trong đó, PĐ3 có giá trị
IC50 khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống
kê với vitamin C ở mức ý nghĩa 1%. Tương
tự với đề tài, trái Duguetia chrysocarpa (họ
na) được ly trích với dung môi hexane, ethyl
acetate, ethanol có giá trị IC50 lần lượt là
166,4; 26,97; 79,04 μg/mL với đối chứng
vitamin C là 3,91 μg/mL (Almeida và cs.,
2011), báo cáo này thể hiện xu hướng kháng
oxy hóa mạnh khi ly trích mẫu với dung môi
ethyl acetate, yếu hơn ở ethanol và yếu nhất
ở hexane.
Về thử nghiệm khử gốc tự do
hydrogen peroxide, sự khác biệt về khả năng
khử gốc hydrogen proxide giữa các phân
đoạn cao chiết có thể là do các đặc điểm, cấu
trúc của các hợp chất có trong chúng ảnh
hưởng đến khả năng nhường electron (El-
Chaghaby và cs., 2014). Trong các phân
đoạn, PĐ3 cho khả năng kháng oxy hóa
mạnh nhất và giảm dần theo thứ tự các
nghiệm thức PĐ1, cao thô và yếu nhất ở
PĐ2. Hơn nữa, PĐ3 cho khả năng kháng oxy
hóa mạnh hơn khoảng 2 lần so với vitamin C
và khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê ở
mức ý nghĩa 1% so với các phân đoạn còn
lại. Theo Nalini và Durairaj (2018), giá trị
IC50 ở dịch trích ethanol lá mãng cầu xiêm là
153 μg/mL trong khi đối chứng vitamin C là
139 μg/mL. Giá trị này xấp xỉ với giá trị IC50
ở cao thô (chiết xuất ethanol). Giá trị IC50 =
70,06 μg/mL ở chiết xuất methanol lá bình
bát với đối chứng vitamin C là 18,85 μg/mL
(Jamkhande và cs., 2016) khi thực hiện thí
nghiệm với thuốc thử H2O2. Kết quả này
thấp hơn nhiều lần so với các chiết xuất ở lá
bình bát nước được phân tách bằng nhiều
dung môi khác nhau trong đề tài này.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1668-1678
1675
Với thử nghiệm khử ion Fe3+, chất
kháng oxy hóa làm giảm phức hợp (Fe3+)
ferricyanide thành ferrous (Fe2+) bằng cách
nhường một electron, màu của dung dịch
thử thay đổi thay đổi từ màu vàng sang các
trạng thái khác nhau của xanh lá cây và
xanh dương (Elumalai và Parameswaran,
2012). Trong các phân đoạn, cụ thể là với
giá trị IC50 = 19,7 µg/mL, PĐ3 cho khả
năng kháng oxy hóa mạnh nhất và khác biệt
không có ý nghĩa về mặt thống kê với cao
thô nhưng lại khác biệt có ý nghĩa thống kê
ở mức ý nghĩa 1% so với các phân đoạn còn
lại. Với chiết xuất bằng dung môi methanol
và nước từ thịt mãng cầu ta (Annona
squamosa L.), cho năng lực khử 50% ion
Fe3+ lần lượt là 59 và 46 μg/μg ascorbic
acid (Elumalai và Parameswaran, 2012).
Trong khi ở thí nghiệm này, với dung môi
hexane, hỗn hợp ethyl acetate: hexane (1:
1) và ethyl acetate ở lá bình bát nước có
năng lực khử lần lượt là 47; 49,1; 9,4
μg/μg ascorbic acid. Như vậy, khả năng
khử Fe3+ trong cao chiết phân đoạn lá bình
bát nước hiệu quả hơn hẳn so với báo cáo
trên.
Qua 3 thử nghiệm trên thì PĐ3 (cao
ethyl acetate) cho khả năng kháng oxy hóa
mạnh nhất và yếu nhất ở PĐ2 (cao hexane:
ethyl acetate:1 :1). Theo nghiên cứu của
Almeida và cs. (2011), polyphenol là hợp
chất quan trọng nằm trong số các nhóm hợp
chất có khả năng kháng oxy hóa. Bên cạnh
đó, hợp chất triterpenoid (myricarin C,
myricarin A và myricarin B) được Xu và cs.
(2017) công bố có hoạt tính khử gốc tự do.
Và đây cũng là những hợp chất hiện diện
nhiều trong các chiết xuất lá Bình bát nước,
đặc biệt qua thí nghiệm khảo sát sự hiện diện
các HCTV và định lượng hàm lượng
polyphenol tổng thì PĐ3 chiếm ưu thế về các
hợp chất này hơn các phân đoạn khác. Mặc
dù kết quả định lượng polyphenol cho thấy
hàm lượng chất này có trong PĐ2 nhiều hơn
PĐ1 nhưng ở thí nghiệm khả năng kháng
oxy thì PĐ1 lại cho khả năng kháng oxy hóa
mạnh hơn. Hiện tượng này đã được giải
thích bởi Tan và cs. (2011), mối quan hệ
giữa các hợp chất kháng oxy hóa và khả
năng kháng oxy hóa thường rất phức tạp.
Khả năng kháng oxy hóa không chỉ phụ
thuộc vào lượng chất kháng oxy hóa mà còn
dựa vào cấu trúc và sự tương tác lẫn nhau.
Do đó, hàm lượng polyphenol hoặc
flavonoid tồn tại nhiều không nhất thiết thể
hiện khả năng kháng oxy hóa mạnh mà còn
dựa trên các nhóm chất khác như carotenoid,
vitamin và chất khoáng. Bên cạnh đó, để giải
thích thêm cho hiện tượng này thì theo báo
cáo của Odabasoglu và cs. (2005), hoạt tính
kháng oxy hóa của một số chiết xuất có thể
là do sự hiện diện của các hợp chất non-
phenolic. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng
polyphenol có thể có hoạt tính kháng oxy
hóa riêng biệt hoặc có thể ức chế hoặc cộng
gộp giữa polyphenol và các hợp chất khác
như carbohydrate, protein. Ở thí nghiệm định
lượng, hàm lượng saponin trong PĐ1 và
PĐ2 vượt trội hơn so với các nghiệm thức
còn lại nhưng khả năng kháng oxy hóa ở hai
nghiệm thức này thì yếu hơn. Khả năng
kháng oxy hóa của ginsenoside được thể
hiện thông qua gốc đường gắn vào các vị
trí khác nhau trên mạch triterpen, đây là
một chỉ số về mối quan hệ giữa cấu trúc và
hoạt động (Chae và cs., 2010). Mỗi
ginsenoside Re, Rd, R1 là những chất
kháng oxy hóa vì gốc đường gắn vào vị trí
20 trên mạch triterpen, ngược lại những
chất chất tiền oxy hóa như Rg3, Rh2 và Rg2
thì không có gốc đường gắn vào vị trí này
(Lu và cs., 2009). Theo báo cáo của Lee và
cs. (2016), khả năng kháng oxy của
ginsenoside Rg1 không tỉ lệ thuận với hàm
lượng chất này có trong mẫu và cũng không
tìm thấy sự tương quan nào. Xét theo cấu
trúc hóa học, ginsenoside không giàu điện
tử như các hợp chất polyphenol (hợp chất
được ổn định bởi sự di chuyển cộng hưởng
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1668-1678
1676 Huỳnh Thanh Duy và cs.
của các electron chưa ghép cặp bao gồm
trên mạch vòng). Do đó, có lẽ ginsenoside
là chất kháng oxy yếu vì hợp chất này
không dễ dàng thực hiện phản ứng nhường
electron một cách hiệu quả với tác nhân
oxy hóa (Chae và cs., 2010).
Qua khảo sát hoạt tính kháng oxy
hóa ở các cao phân đoạn lá bình bát nước
bằng các phương pháp khử gốc tự do
DPPH, khử gốc hydro peroxide và năng
lực khử thì PĐ3 (cao ethyl acetate) cho khả
năng kháng oxy hóa mạnh nhất.
4. KẾT LUẬN
Lá già bình bát nước (Annona glabra
L.) khi ly trích với các dung môi có độ phân
cực tăng dần: hexane, hexane: ethyl acetate
(tỉ lệ 1:1) và ethyl acetate đều xuất hiện hầu
hết các hợp chất thực vật đã khảo sát như
steroid, triterpenoid, phenolic, quinone,
tannin, flavonoid, carotenroid, saponin và
alkaloid. Hàm lượng polyphenol nhiều nhất
khi được ly trích với dung môi ethyl acetate.
Ngược lại, hàm lượng saponin nhiều nhất khi
được ly trích với dung môi hexane:ethyl
acetate. PĐ3 (cao ethyl acetate) có khả năng
kháng oxy mạnh nhất qua 3 thử nghiệm
kháng oxy hóa với DPPH, H2O2 và năng lực
khử. Nghiên cứu này cũng thể hiện rằng cao
chiết lá bình bát nước là một nguồn nguyên
liệu kháng oxy hóa thiên nhiên đầy tiềm
năng ứng dụng trong nông nghiệp và dược
phẩm và cần được khảo sát thêm trong các
thử nghiệm kháng viêm, kháng virus và
kháng khuẩn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Văn Băn, Huỳnh Thanh Duy, Trần Hải
Dương, Trần Thị Tuyết Nhung, Thạch Trọng
Nghĩa, Nguyễn Đức Độ và Huỳnh Ngọc
Thanh Tâm. (2018). Khảo sát hàm lượng
polyphenol, saponin, hoạt tính kháng oxy hóa
và kháng khuẩn từ cao chiết bẹ và củ rễ cây
Môn ngứa (Colocasia esculenta). Tạp chí
Khoa học và công nghệ nông nghiệp, Trường
Đại học Nông Lâm Huế, 2(3), 831-838.
2. Tài liệu tiếng nước ngoài
Almeida, J. R. G. S., Oliveira, M. R., Guimarães,
A. L., Oliveira, A. P., Ribeiro, L. A. A.,
Lúcio, A. S. S. C., & Quintans-Júnior, L. J.
(2011). Phenolic quantification and
antioxidant activity of Anaxagorea
dolichocarpa and Duguetia chrysocarpa
(Annonaceae). International Journal of
Pharma and Bio Sciences, 2(4), 367-374.
Awaad, A. S., & Al-Jaber, N. A. (2010).
Antioxidant natural plant. RPMP
Ethnomedicine: Source & Mechanism, 27, 1-
35.
Blois, M. S. (1958). Antioxidant determinations
by the use of a stable free radical. Nature,
181, 1199-1200.
Chae, S., Kang, K. A., Youn, U., Park, J. S., &
Hyun, J. W. (2010). A comparative study of
the potential antioxidant activities of
ginsenosides. Journal of food
biochemistry, 34, 31-43.
Cinara V. da Silva, Fernanda, M. B., & Eudes, S.
V. (2012). Phytochemistry of some Brazilian
Plants with Aphrodisiac Activity. Brazil:
Federal University of Bahia.
Cochrane, C.B., Nair, P. K., Melnick, S.J, Resek,
A.P., & Ramachandran, C. (2008). Anticancer
effects of Annona glabra plant extracts in
human leukemia cell lines. Anticancer
Research, 28(2A), 965-71.
El-Chaghaby, G. A., Ahmad, A. F., & Ramis, E.
S. (2014). Evaluation of the antioxidant and
antibacterial properties of various solvents
extracts of Annona squamosa L.
leaves. Arabian Journal of Chemistry, 7(2),
227-233.
Elumalai, N., & Parameswaran, I. (2012). In vitro
antioxidant activities of methanol and aqueous
extract of Annona squamosa (L.) Fruit Pulp. J
Acupunct Meridian Stud, 6(3), 142-148.
Gharass E. H. (2009). Polyphenols: food sources,
properties and applications – a review.
International Journal of Food Science and
Technology, 44, 2512–2518.
TẠP CHÍ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ NÔNG NGHIỆP ISSN 2588-1256 Tập 4(1)-2020:1668-1678
1677
Hamid, R. A., Foong, C. P., Ahmad, Z. &
Hussain, M. K. (2012). Antinociceptive and
anti-ulcerogenicactivities of the ethanolic
extract of Annona muricata leaf. Revista
Brasileira de Farmacognosia, 22, 630-641.
Harborne, J. B. (1973). Phytochemical methods.
A guide to modern techniques of plant
analysis. America: Springer Publishing.
Hiai, S., Oura, H., & Nakajima, T. (1976). Color
reaction of some sapogenins and saponins
with vanillin and sulfuric acid. Planta
Medica, 29(2), 116-22.
Jamkhande, P. G., Wattamwar, A. S., Kankudte,
A. D., Tidke, P. S., & Kalaskar, M. G. (2016).
Assessment of Annona reticulata Linn. leaves
fractions for invitro antioxidative effect and
antimicrobial potential against standard
human pathogenic strains. Alexandria Journal
of Medicine, 52(1), 19-25.
Kasote, D. M., Katyare, S. S., Hegde, M. V., &
Bae, H. (2015). Significance of antioxidant
potential of plants and its relevance to
therapeutic applications. International journal
of biological sciences, 11(8), 982.
Kedare, S. B., & Singh, R. P. (2011). Genesis
and development of DPPH method of
antioxidant assay. Journal of Food Science
and Technology, 48(4), 412–422.
Kumahar, D. S. (2009). Effect of antioxidants and
storage temperatures on browning and quality
of custard Apple (Annona squamosa L.) pulp,
Doctoral dissertation, Maharana Pratap
University of Agriculture and Technology,
Udaipur.
Leboeuf, M., Cave, A., Bhaumik, P. K.,
Mukherjee, B. & Mukherjee, R. (1982).
The phytochemistry of Annonaceae.
Phytochemistry, 21(12), 2783-2813.
Lee, J. W., Mo, E. J., Choi, J. E., Jo, Y. H.,
Jang, H., Jeong, J. Y., ... & Lee, M. K.
(2016). Effect of Korean Red Ginseng
extraction conditions on antioxidant
activity, extraction yield, and ginsenoside
Rg1 and phenolic content: optimization
using response surface
methodology. Journal of ginseng
research, 40(3), 229-236.
Lim, T. K. (2012). Edible medicinal and non-
medicinal plants. Dordrecht: Springer.
Lu, J. M., Yao, Q., & Chen, C. (2009). Ginseng
compounds: an update on their molecular
mechanisms and medical
applications. Current vascular
pharmacology, 7(3), 293-302.
Lumlerdkij, N., Tantiwongse, J.,
Booranasubkajorn, S., Boonrak, R.,
Akarasereenont, P., Laohapand, T., &
Heinrich, M. (2018). Understanding cancer
and its treatment in Thai traditional medicine:
An ethnopharmacological-anthropological
investigation. Journal of
ethnopharmacology, 216, 259-273.
Moghadamtousi, S. Z., Fadaeinasab, M., Nikzad,
S., Mohan, G., Ali, H. M., & Kadir, H. A.
(2015). Annona muricata (Annonaceae): A
Review of Its Traditional Uses, Isolated
Acetogenins and Biologycal Activities.
International Journal of Molecular Sciences,
16(7), 15625-15658.
Nag, S. A., Qin, J., Wang, W., Wang, M. H.,
Wang, H., & Zhang, R. (2012). Ginsenosides
as anticancer agents: in vitro and in vivo
activities, structure-activity relationships, and
molecular mechanisms of action. Frontiers in
pharmacology, 3, 25.
Nalini & Durairaj. (2018). In vitro free radical
scavenging potential of hydroethanolic extract
in the leaves of Annona muricata.
International Journal of Green Pharmacy,
12(1), S280.
Odabasoglu, F., Aslan, A., Cakir, A., Suleyman,
H., Karagoz, Y., Bayir, Y., & Halici, M.
(2005). Antioxidant activity, reducing power
and total phenolic content of some lichen
species. Fitoterapia, 76(2), 216-219.
Oyaizu M. (1986). Studies on product of browning
reaction prepared from glucose amine.
Japanese Journal of Nutrition and Dietetics,
44, 307–315.
Padmaja, V., Thankamany, V., Hara, N.,
Fujimoto, Y., & Hisham, A. (1995).
Biological activities of Annona glabra.
Journal of Ethnopharmacology, 48, 21-24.
HUAF JOURNAL OF AGRICULTURAL SCIENCE & TECHNOLOGY ISSN 2588-1256 Vol. 4(1)-2020:1668-1678
1678 Huỳnh Thanh Duy và cs.
Pimenta, L.P.S., Pinto, G.B., Takahashi, J.A.,
Silva, L.G.F., & Boaventura, M.A.D. (2003).
Biological screening of Annonaceus Brazilian
medicinal plants using Artemia salina (Brine
Shrimp Test). Phytomedicine, 10, 209-212.
Rahate, K.P., Padma R., Parkavi N.G. & Renjith
V. (2013). Quantitative estimation of tannins,
phenols and antioxidant activity of methanolic
extract of Imperata cylindrica. International
Journal of Research in Pharmaceutical
Sciences, 4(1), 73-77.
Shibula, K., & Velavan, S. (2016). Determination
of bioactive compounds in Annona muricata
leaf extract. J Bioscience and
Technology, 7(3), 726-768.
Siebra, C. A., Nardin, J. M., Florão, A., Rocha, F.
H., Bastos, D. Z., Oliveira, B. H. & Weffort-
Santos, A. M. (2009). Potencial
antiinflamatório de Annona glabra,
Annonaceae. Revista Brasileira
Farmacognosia, 19(1), 82-88.
Talla, E., Tamfu, A. N., Biyanzi, P., Sakava, P.,
Asobo, F. P., Mbafor, J. T., & Ndjouenkeu, R.
(2014). Phytochemical screening, antioxidant
activity, total polyphenols and flavonoids
content of different extracts of propolis from
Tekel (Ngaoundal, Adamawa region,
Cameroon). The Journal of
Phytopharmacology, 3(5), 321-329.
Tan, P. W., Tan, C. P., & Ho, C. W. (2011).
Antioxidant properties: Effects of solid-to-
solvent ratio on antioxidant compounds and
capacities of Pegaga (Centella
asiatica). International Food Research
Journal, 18(2).
Xu, H., Yuan, Z. Z., Ma, X., Wang, C., Suo, Y.
R., Wang, H. L., ... & Bai, B. (2017).
Triterpenoids with antioxidant activities from
Myricaria squamosa. Journal of Asian
natural products research, 20(3), 292-298.
Yadav, R., & Munin, A. (2011). Phytochemical
analysis of some medicinal plants. Journal of
Phytology, 3(12), 10-14.
Zhang, Q. (2015). Effects of extraction solvents
on phytochemicals and antioxidant activities
of walnut (Juglans regia L.) green husk
extracts. European Journal of Food Science
and Technology, 3(5), 15-21.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_thanh_phan_hoa_hoc_va_kha_nang_khang_oxy_hoa_cua_ca.pdf