Nếu biểu diễn tất cả các thông số ở bảng 2 về
mối quan hệ giữa độ sụt và hằng số nhớt bề mặt,
chúng ta được kết quả ở hình 3. Từ kết quả ở
hình 3, xấp xỉ quan hệ giữa độ sụt và hằng số
nhớt bằng phương trình xu hướng (thể hiện trên
biểu đồ), trong đó y biểu thị giá trị η , x biểu thị độ
sụt và R2 là hệ số tương quan thể hiện tính chính
xác của đường xu hướng so với các điểm thực
nghiệm. Hệ số xác định R2 gần bằng 1 tức là
phương trình xu hướng mô tả khá chính xác các
điểm thực nghiệm, hay có thể nói các điểm thí
nghiệm tập trung sát xung quanh đường xấp xỉ.
Từ đó có thể kết luận rằng các mối quan hệ này
không phụ thuộc vào yếu tố thời gian.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 925 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát thực nghiệm quan hệ giữa một số thông số bơm của hỗn hợp bê tông với thể tích hồ xi măng theo thời gian, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
52 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 
KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM QUAN HỆ GIỮA MỘT SỐ 
THÔNG SỐ BƠM CỦA HỖN HỢP BÊ TÔNG VỚI THỂ TÍCH 
HỒ XI MĂNG THEO THỜI GIAN 
TS. NGUYỄN THẾ DƯƠNG, ThS. VŨ VĂN NHÂN 
Trường Đại học Duy Tân 
ThS. TRẦN KIM NHẬT 
Công ty Cổ phần Xây dựng CIENCO5 Miền Trung 
 Tóm tắt: Bài báo trình bày kết quả thực 
nghiệm đo thông số bơm của một số hỗn hợp bê 
tông thương phẩm bao gồm độ sụt, thông số ma 
sát giữa bê tông và thành ống thép có xét đến 
thời gian lưu giữ vữa bê tông. Trong nghiên cứu 
này, thể tích hồ xi măng được chọn để khảo sát 
nhằm đánh giá định lượng ảnh hưởng của thông 
số này đến các thông số bơm. Kết quả thí nghiệm 
cho thấy thể tích hồ có ảnh hưởng lớn đến các 
tính chất lưu biến và ma sát, đồng thời tồn tại một 
ngưỡng thể tích hồ bão hòa. Yếu tố thời gian 
cũng như sự có mặt của phụ gia ảnh hưởng đáng 
kể đến các thông số bơm, đặc biệt là thông số 
ngưỡng trượt tiếp xúc. Đồng thời, thực nghiệm 
cũng chỉ ra rằng phép đo thông số ma sát cung 
cấp những thông tin bổ sung quan trọng để đánh 
giá tính dễ bơm của hỗn hợp bê tông. 
 Từ khóa: thông số bơm, độ sụt, ma sát tiếp 
xúc, ngưỡng trượt, hằng số nhớt bề mặt, thể tích 
hồ xi măng. 
1. Mở đầu 
 Trong thời gian gần đây, khi nghiên cứu tính 
công tác của bê tông, ngoài việc quan tâm đến 
yếu tố lưu biến thông qua chủ yếu là phép đo độ 
sụt, một số tác giả trong và ngoài nước đã quan 
tâm việc nghiên cứu tính chất ma sát của hỗn 
hợp bê tông khi chảy trong ống bơm cứng bằng 
thép [1-9]. Tính chất ma sát này bao gồm ngưỡng 
trượt bề mặt và hằng số nhớt bề mặt, trong đó 
ngưỡng trượt liên quan đến tính chất ì ban đầu 
của bê tông, hằng số nhớt bề mặt liên quan đến 
tính chất ma sát động, tác động đến vận tốc dịch 
chuyển của hỗn hợp bê tông trong ống bơm 
[1,4,5]. Các nghiên cứu này chủ yếu thực hiện 
bằng phương pháp thực nghiệm và chế tạo, 
chuẩn hoá thiết bị thực nghiệm. Việc nghiên cứu 
các tính chất ma sát này phục vụ trực tiếp cho 
việc đánh giá tính dễ bơm hay khó bơm của một 
loại bê tông [2,3], đồng thời phục vụ cho việc 
đánh giá áp lực cần thiết để bơm bê tông [1,6,7]. 
Thực vậy, các phép đo đã chỉ ra rằng, thông số 
độ sụt không thể phản ánh một cách đầy đủ tính 
dễ/khó bơm của bê tông. Trong một số nghiên 
cứu gần đây trên vật liệu địa phương [5,8], các 
tác giả khảo sát trên nhiều loại cấp phối bê tông 
khác nhau, thay đổi tỉ lệ nước và xi măng, thay 
đổi thể tích hồ [6], thay đổi tỉ lệ cốt liệu thô [8] và 
chỉ ra rằng, có những cấp phối cho thông số độ 
sụt hoàn toàn như nhau, tuy nhiên các thông số 
ma sát lại chênh lệch nhau rất lớn. Do đó, trong 
nghiên cứu này, các tác giả tiếp tục khảo sát ảnh 
hưởng của thể tích hồ xi măng, có xét thời gian 
lưu vữa. Thời gian cũng là một yếu tố quan trọng 
vì hỗn hợp bê tông thương phẩm thông thường 
sẽ được trộn ở trạm trộn, sau đó dùng xe vận 
chuyển đến công trường. Việc vận chuyển này 
nhiều lúc sẽ mất rất nhiều thời gian, đặc biệt là 
công trình thi công trong khu vực đô thị hoặc tại 
những khu vực có giao thông khó khăn. 
2. Thí nghiệm xác định và tính toán thông số bơm 
Như đã trình bày ở trên, thông số ma sát bao 
gồm (1) ngưỡng trượt ban đầu 0τ , là cơ sở tính 
toán áp lực cần thiết ban đầu của piston để đẩy 
bê tông bắt đầu dịch chuyển trong ống và (2) hệ 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 53 
số nhớt bề mặt η , đặc trưng cho tính chất tiếp 
xúc bề mặt giữa bê tông và thành ống bơm, thể 
hiện quan hệ giữa lực bơm và vận tốc bơm (lưu 
lượng bơm) khi bê tông đã dịch chuyển trong 
ống. Hai thông số ma sát này bổ sung thêm cho 
thông số độ sụt giúp thiết kế thành phần cấp phối 
cũng như thiết kế bơm bê tông. Các thông số này 
được gọi là thông số bơm bê tông. 
Ứng suất trượt tại mặt tiếp xúc bê tông – 
thành ống khi bê tông dịch chuyển được tính [1-
5]: 
0= +τ τ ηυ
 (1) 
trong đó τ (Pa) - ứng suất trượt tại mặt tiếp 
xúc, 0τ (Pa) - ngưỡng trượt ở mặt tiếp xúc, η 
(Pa.s/m) - hằng số nhớt, υ (m/s) - vận tốc trượt 
tương đối giữa bê tông và thành ống. Trong 
trường hợp bê tông là dòng chảy đều, nếu xác 
định được các thông số 0τ và η thì có thể xác 
định được áp lực bơm và lưu lượng bơm tương 
ứng. Trong trường hợp không phải là dòng chảy 
đều, các thông số này cũng sẽ tham gia vào công 
thức xác định áp lực bơm [1] và cho biết tính dễ 
bơm hay khó bơm của bê tông. 
2.1 Nguyên lý thí nghiệm đo thông số ma sát 
Nguyên lý thí nghiệm, trình tự, thao tác thí 
nghiệm tính toán các thông số ma sát và xử lý kết 
quả được trình bày kỹ trong các tài liệu [3-5]. Ở 
đây chúng tôi chỉ giới thiệu tóm tắt nguyên lý. Sự 
tiếp xúc giữa bê tông và thành ống bơm được mô 
phỏng lại theo sự tiếp xúc của một ống kim loại 
quay đều trong môi trường bê tông. Sự quay của 
trục được tạo ra và điều khiển bằng máy khuấy 
cơ học (hình 1). Máy khuấy có thể ghi lại được 
tốc độ quay và mô men xoắn tương ứng. Tốc độ 
quay thay đổi theo thời gian được điều khiển 
bằng phần mềm. Bê tông đựng trong thùng chứa 
có đường kính 30 cm (hình 1). Xi lanh hình trụ 
bằng thép có đường kính 106 mm, cao 100 mm 
(hình 1). Các thông số của thiết bị được tham 
khảo dựa trên cơ sở các nghiên cứu trong tài liệu 
[3]. Kết quả thí nghiệm thô được xử lý nhanh 
chóng bằng phần mềm do tác giả viết “Pumping 
parameter calculation” [9]. 
(a) Đầu khuấy cơ học (b) Xi lanh quay và thùng 
chứa, bê tông đổ trong bình 
với cao độ đủ tiếp xúc với mặt 
dưới xi lanh 
(c) Bình chứa đầy bê tông và xi lanh 
quay 
Hình 1. Bộ dụng cụ thí nghiệm đo ma sát tiếp xúc giữa bê tông tươi và mặt ống thép 
(tại phòng thí nghiệm Xây dựng, Đại học Duy Tân) 
2.2 Thí nghiệm đo độ sụt 
Độ sụt hỗn hợp bê tông được xác định theo 
TCVN 3105-93. Dụng cụ đo là côn Abrams, có 
kích thước 203×102×305mm. Phương pháp lấy 
mẫu và chuẩn bị mẫu thử hỗn hợp bê tông theo 
TCVN 3105:93. Hỗn hợp bê tông được cho vào 
côn hình nón làm 03 lớp, mỗi lớp 1/3 chiều cao 
côn hình nón, mỗi lớp đầm 25 lần bằng thanh 
thép tròn φ16. Rút côn hình nón theo chiều thẳng 
đứng, đảm bảo mẫu bê tông không bị xê dịch 
trong qua trình rút côn. Đợi cho hỗn hợp bê tông 
sụt, sau khi bê tông ổn định, đo sự sụt giảm theo 
chiều cao so với chiều cao ban đầu. Các mẫu 
cấp phối bê tông được kiểm tra độ sụt tại các thời 
điểm 0 phút; 30 phút; 60 phút và 90 phút sau khi 
hoàn thành công tác trộn hỗn hợp bê tông. 
2.3 Thí nghiệm tại các mốc thời gian 
Nghiên cứu tiến hành khảo sát thông số độ 
sụt và các thông số ma sát theo thời gian, tại các 
thời điểm 0 phút; 30 phút; 60 phút và 90 phút. Để 
đảm bảo sự chính xác, sử dụng đồng hồ bấm 
giây để xác định các mốc thời gian, mốc thời gian 
ban đầu được chọn là thời điểm hoàn thành công 
tác trộn hỗn hợp bê tông. Hỗn hợp bê tông được 
lưu vữa trong thùng máy trộn, thùng máy trộn 
phải được che đậy kín để tránh ảnh hưởng của 
gió, nhiệt độ đến hỗn hợp bê tông. Trước khi tiến 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
54 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 
hành công tác kiểm tra độ sụt phải tiến hành bật 
máy cho thùng trộn quay trong thời gian từ 1 đến 
2 phút, để đảm bảo hỗn hợp bê tông thí nghiệm 
được đồng đều. 
3. Cấp phối bê tông thí nghiệm 
Các cấp phối được chế tạo đảm bảo chất 
lượng được quy định trong tiêu chuẩn quốc gia 
TCVN 9340-2012 [10]. Có 10 loại cấp phối, được 
ký hiệu CP và đánh số từ 1 đến 10 (bảng 1). 
Bảng 1. Các loại cấp phối bê tông thí nghiệm sử dụng trong nghiên cứu, tính cho 1 m3 hỗn hợp bê tông 
Tên cấp phối 
X N/X N C Đ Phụ gia Vh 
(kg) 
(lít) (kg) (kg) (lít/100 kg X) (lít) 
CP1 420 0,35 147 870 1023 1 287 
CP2 420 0,37 155 859 1011 1 296 
CP3 420 0,40 168 844 993 1 308 
CP4 420 0,45 189 818 963 1 329 
CP5 460 0,35 161 836 984 1 314 
CP6 460 0,37 170 825 971 1 323 
CP7 460 0,40 184 808 951 1 337 
CP8 460 0,45 207 780 918 1 360 
CP9 500 0,40 200 772 909 1 366 
CP10 500 0,50 250 765 900 0 411 
Vật liệu chế tạo hỗn hợp bê tông thí nghiệm gồm: 
 - Xi măng PCB40, nhãn thương mại Kim 
Đỉnh, đảm bảo các yêu cầu theo TCVN 6260-
2009 [12]; 
 - Cát vàng có mô đun độ lớn Mdl = 2,9, đảm 
bảo các yêu cầu theo TCVN 7570-2006 [11]; 
 - Đá dăm loại 0,5×1 và 1×2, đảm bảo các yêu 
cầu theo TCVN 7570-2006 [11]; 
 - Phụ gia Sika Plast 257, hàm lượng 1.0 
lít/100 kg xi măng. Riêng đối với cấp phối CP10, 
là cấp phối đối chứng không sử dụng phụ gia; 
 - Nước sạch. 
4. Tổng hợp kết quả thí nghiệm 
Bảng tổng hợp kết quả thí nghiệm được trình bày 
ở bảng 2. Bảng này trình bày 3 thông số là độ 
sụt, ngưỡng trượt bề mặt và hằng số nhớt bề mặt 
ở 4 thời điểm thí nghiệm lần lượt là: 0 phút, 30 
phút, 60 phút và 90 phút sau khi trộn. 
Kết quả từ bảng trên được biến đổi và biểu 
diễn ở hình 2, sự biến đổi của ba thông số theo 
thời gian, trong đó trục tung là tỉ lệ giữa thông số 
ở thời điểm thí nghiệm sau so với thời điểm ban 
đầu. Trên hình này, hai chuỗi dữ liệu được trình 
bày: dữ liệu thứ nhất là trung bình của các cấp 
phối từ CP1 đến CP9, là cấp phối có phụ gia. 
Bảng 2. Kết quả thí nghiệm 
Loại BT Thông số Thời gian lưu vữa bê tông 00 phút 30 phút 60 phút 90 phút 
CP1 
SN (cm) 12 10,50 8,50 5 
0τ (Pa) 61,55 87,42 75,95 100,79 
η
 (Pa.s/m) 991 1036 1148 1324 
CP2 
SN (cm) 16,50 15 13 10 
0τ (Pa) 46,24 62,52 49,05 78,35 
η
 (Pa.s/m) 781 829 911 1152 
CP3 
SN (cm) 17 16 15 12,50 
0τ (Pa) 36,35 47,66 34,03 61,52 
η
 (Pa.s/m) 673 718 738 959 
CP4 
SN (cm) 21 19,5 18 16 
τ0 (Pa) 25,77 38,87 27,14 47,29 
η
 (Pa.s/m) 516 560 589 776 
CP5 SN (cm) 19 18 16,5 14,50 
VẬT LIỆU XÂY DỰNG – MÔI TRƯỜNG 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 55 
0τ (Pa) 29,37 41,18 29,77 52,49 
η
 (Pa.s/m) 572 603 668 825 
CP6 
SN (cm) 20 19 18 16 
0τ (Pa) 25,95 39,02 27,33 47,92 
η
 (Pa.s/m) 522 557 593 764 
CP7 
SN (cm) 21,5 20 19 17,5 
0τ (Pa) 20,74 32,28 23,02 42,03 
η
 (Pa.s/m) 389 475 507 684 
CP8 
SN (cm) 22 21 20 19 
0τ (Pa) 20,21 27,73 21,48 39,67 
η
 (Pa.s/m) 381 429 466 639 
CP9 
SN (cm) 22 21,5 20,5 19 
0τ (Pa) 18,96 25,51 19,71 36,49 
η
 (Pa.s/m) 376 396 449 604 
CP10 
SN (cm) 7 6 4 1 
0τ (Pa) 48,13 53,52 64,07 98,66 
η
 (Pa.s/m) 626 648 661 828 
 Chuỗi dữ liệu thứ hai là cấp phối CP10, 
không có phụ gia. Đối với độ sụt, khi không có 
phụ gia thì độ sụt của CP10 chỉ là 7 cm ở thời 
điểm sau khi trộn và đồng thời giảm nhanh 
theo thời gian so với các hỗn hợp bê tông có 
sử dụng phụ gia (hình 2a). Đối với hỗn hợp có 
sử dụng phụ gia, nhiều cấp phối thí nghiệm có 
độ sụt giảm mạnh bắt đầu từ thời điểm 60 phút 
đến 90 phút. Tương ứng với độ giảm của độ 
sụt là sự tăng của hằng số nhớt (hình 2c). Sự 
tăng này thể hiện ở cả cấp phối có phụ gia và 
cấp phối không có phụ gia. Đối với các cấp 
phối từ CP1 đến CP9, quy luật thay đổi trung 
bình của các thông số theo thời gian có thể 
xấp xỉ bằng các đường bậc 2 với hệ số tương 
quan 2R gần bằng 1. Tuy nhiên, đối với thông 
số ngưỡng trượt (hình 2b), chúng ta quan sát 
thấy có sự khác biệt giữa hỗn hợp sử dụng 
phụ gia và không sử dụng phụ gia (CP10). 
Ngưỡng trượt của hỗn hợp không sử dụng 
phụ gia tăng dần theo thời gian, trong khi đó 
ngưỡng trượt của hỗn hợp sử dụng phụ gia 1 
lít/100 kgX được quan sát thấy có xu hướng 
tăng ở thời điểm 30 phút, giảm ở thời điểm 60 
phút và sau đó tăng lại ở thời điểm 90 phút. 
Sự biến đổi này có thể giải thích do tác dụng 
theo thời gian của phụ gia, trong đó thời điểm 
60 phút có thể là thời điểm mà phụ gia có tác 
dụng mạnh nhất làm giảm sức kháng trượt 
tĩnh của hỗn hợp. Thông số ngưỡng trượt ban 
đầu của hỗn hợp là nhân tố đặc trưng cho độ ì 
ban đầu của bê tông đối với thành ống thép, 
sẽ ảnh hưởng đến lực đẩy ban đầu cần thiết 
để bê tông bắt đầu chuyển động trong ống 
bơm, tức là ảnh hưởng đến áp lực bơm ban 
đầu. Khi bê tông đã dịch chuyển thì hằng số 
nhớt bề mặt lại là thông số ảnh hưởng và 
quyết định đến lưu lượng bơm khi có một lực 
đẩy cố định. Sự thay đổi của ngưỡng trượt 
khác với quy luật thay đổi của độ sụt cho thấy 
nếu chỉ sử dụng thông số độ sụt thì không 
phản ánh hết được tính dễ/khó bơm của bê 
tông cũng như định lượng được áp lực bơm 
cần thiết. 
Hình 2. Thay đổi của các thông số bơm theo thời gian. 
(a) Đột sụt. (b) Ngưỡng trượt. (c) Hằng số nhớt bề mặt 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
56 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 
Hình 3. Thay đổi của các thông số bơm theo thời gian. 
 (a) Đột sụt. (b) Ngưỡng trượt. (c) Hằng số nhớt bề mặt 
 Nếu biểu diễn tất cả các thông số ở bảng 2 về 
mối quan hệ giữa độ sụt và hằng số nhớt bề mặt, 
chúng ta được kết quả ở hình 3. Từ kết quả ở 
hình 3, xấp xỉ quan hệ giữa độ sụt và hằng số 
nhớt bằng phương trình xu hướng (thể hiện trên 
biểu đồ), trong đó y biểu thị giá trị η , x biểu thị độ 
sụt và R2 là hệ số tương quan thể hiện tính chính 
xác của đường xu hướng so với các điểm thực 
nghiệm. Hệ số xác định R2 gần bằng 1 tức là 
phương trình xu hướng mô tả khá chính xác các 
điểm thực nghiệm, hay có thể nói các điểm thí 
nghiệm tập trung sát xung quanh đường xấp xỉ. 
Từ đó có thể kết luận rằng các mối quan hệ này 
không phụ thuộc vào yếu tố thời gian. 
 Các thông tin và quan hệ ở hình 3 có ý nghĩa 
quan trọng trong việc ước lượng giá trị của hằng 
số nhớt bề mặt và ngưỡng trượt khi biết được giá 
trị của độ sụt. Tuy nhiên mối quan hệ này chưa 
được khẳng định sẽ đúng cho tất cả các trường 
hợp khác nhau. Cần thiết phải kiểm chứng thêm 
bằng những thí nghiệm trên các hỗn hợp bê tông 
khác nhau và cũng cần chú ý khi sử dụng trong 
thiết kế chi tiết. Thực vậy, tồn tại những điểm cục 
bộ mà ở đó với cùng một độ sụt nhưng có nhiều 
giá trị η tương ứng, ví dụ đối với độ sụt SN = 
19.0 cm, sự thay đổi của η được ghi nhận từ 507 
đến 604 Pa.s/m. Hơn nữa, chú ý rằng thông số η 
trên trục tung có biên độ rất lớn, từ 400 cho đến 
gần 1400 Pa.s/m (đối với bê tông trong miền 
khảo sát) nên thay đổi của độ sụt cũng sẽ gây ra 
sự thay đổi đáng kể về ngưỡng trượt. Ví dụ như 
trong thực tế phép đo độ sụt cho phép sai số là 
±2
 cm thì sai số này kéo theo sai số của thông 
số η tính được từ phương trình ở hình 3 là ±116 
Pa.s/m. 
5. Ảnh hưởng của thể tích hồ xi măng, hàm 
lượng xi măng và thời gian 
5.1 Ảnh hưởng của thể tích hồ xi măng 
 Thể tích hồ xi măng đóng vai trò quan trọng 
đối với tính dễ dịch chuyển của hỗn hợp bê tông 
trong ống bơm. Đại lượng này có ảnh hưởng rõ 
nét đến các thông số bơm. 
 Hình 4 biểu thị mối quan hệ giữa các thông số 
bơm và thể tích hồ xi măng theo thời gian. Sự 
tăng, giảm của các thông số độ sụt đều diễn ra 
nhanh khi thể tích hồ thay đổi từ 280 đến 330 
(l /1m3 bê tông). Đến ngưỡng này, sự thay đổi 
của các thông số bơm diễn ra chậm hơn khi tăng 
thể tích hồ. Nghĩa là cũng có một thể tích hồ “bão 
hòa” mà ở đó, việc tăng sẽ có rất ít tác dụng. Kết 
quả tính toán cũng cho thấy, theo thời gian, khi 
Vh càng lớn thì sự suy giảm của độ sụt theo thời 
gian cũng giảm. Trong phạm vi thí nghiệm của 
nghiên cứu, các cấp phối bê tông có Vh lớn hơn 
330 (l /1m3 bê tông), độ sụt của hỗn hợp bê tông 
ở các thời điểm 60 phút và 90 phút duy trì được 
là khá lớn (SN lớn hơn 17,5cm). 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 57 
Hình 4. Quan hệ giữa các thông số bơm và thể tích hồ xi măng hV (l /1m3 bê tông). 
(a) Độ sụt; (b) Ngưỡng trượt; (c) Hằng số nhớt bề mặt 
Đối với thông số ngưỡng trượt, hình 4b cho 
thấy thông số này giảm nhanh và có cùng xu 
hướng với hằng số nhớt bề mặt (hình 4c). Sự 
giảm cũng giảm khi thể tích hồ bằng 330 lít. 
 Độ sụt tăng và các thông số ma sát có xu 
hướng giảm khi thể tích hồ xi măng tăng lên, điều 
này là logic vì thể tích hồ xi măng tăng lên tức là 
màng vữa bao bọc cốt liệu cũng sẽ dày hơn, giúp 
cho các hạt cốt liệu dễ trượt lên nhau và hỗn hợp 
bê tông dễ trượt trong lòng ống bơm, ma sát giữa 
bê tông và ống bơm sẽ giảm đi. 
 Khi thể tích hồ xi măng thấp (dưới 290 l /1m3 
bê tông) các thông số ma sát của loại bê tông 
bơm thí nghiệm đo được có giá trị khá lớn (cấp 
phối CP1, 0τ từ 61,55 đến 100,79 Pa; η từ 991 
đến 1324 Pa.s/m), tức là hỗn hợp bê tông khó 
bơm hơn. 
 Khi thể tích hồ xi măng tăng đến 360 l /1m3 
bê tông, lúc này giá trị các thông số ma sát đo 
được giảm đi khá nhiều (cấp phối CP9, 0τ từ 
21,62 đến 48,12Pa ; η từ 477 đến 787 Pa.s/m), 
so với hỗn hợp bê tông có thể tích hồ xi măng 
thấp hV < 290 l (cấp phối CP1) sự khác biệt về 
tỉ lệ của các thông số 0τ và η lần lượt là 64 - 
74% và 54 - 62%. Như vậy có thể thấy thể tích 
hồ xi măng hV có tác động đến sự thay đổi của 
0τ lớn hơn so với sự thay đổi của thông số η . 
 Mặt khác, kết quả thí nghiệm cũng cho thấy 
rằng, có một ngưỡng bão hòa của thể tích hồ là 
từ đó trở đi, việc tăng thể tích hồ không còn tác 
dụng làm giảm ma sát. Cụ thể trong trường hợp 
này, thể tích hồ hV =340l được coi là ngưỡng 
bão hòa vì sau đó, sự biến đổi của thông số ma 
sát là không đáng kể. Như vậy có thể thấy khi thể 
tích hồ xi măng đủ lớn để tạo ra màng vữa đủ 
dày để bao bọc các hạt cốt liệu, giúp các hạt cốt 
liệu dễ dàng chuyển động, trượt trong thành ống 
bơm thì tăng thêm thể tích hồ xi măng không phải 
là giải pháp hiệu quả để giảm ma sát bê tông với 
thành ống bơm. 
5.2 Ảnh hưởng của hàm lượng xi măng 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
58 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 
Hình 5. Quan hệ giữa các thông số bơm và thể tích hồ xi măng (a) Ngưỡng trượt. (b) Hằng số nhớt bề mặt có xét 
đến hàm lượng xi măng (minh họa cho thời điểm 0 phút và 30 phút) 
Biểu đồ hình 5 thể hiện quan hệ giữa các 
thông số bơm và thể tích hồ xi măng theo yếu tố 
hàm lượng xi măng, có thể thấy hai hàm lượng xi 
măng trong nghiên cứu này (420 kg và 460 kg 
X/1m3 bê tông) dường như ảnh hưởng không 
nhiều đến các tính chất lưu biến và ma sát của 
hỗn hợp bê tông mà là thể tích hồ. Ở các hình 
5(a) và 5(b), chúng ta xét dữ liệu thí nghiệm ở hai 
thời điểm 0 phút và 30 phút. Nhận thấy rằng 
đường có giá trị xi măng cao thì nằm ở dưới (tức 
là với cùng một thể tích hồ thì hàm lượng xi măng 
nhiều sẽ làm cho bê tông dễ bơm hơn). Tuy 
nhiên ở đây ta thấy sự khác nhau không nhiều 
giữa các giá trị này. Xu hướng biến đổi của 
ngưỡng trượt và bề mặt là gần như nhau theo 
thể tích hồ, mặc dù không cùng hàm lượng xi 
măng. 
6. Kết luận 
 Trong nghiên cứu này, máy khuấy cơ điện tử 
được sử dụng để thực hiện phép đo các thông số 
ma sát, đồng thời thông số độ sụt được đo bằng 
côn Abram truyền thống. Thí nghiệm theo thời 
gian từ ngay sau khi trộn đến thời điểm 90 phút, 
là thời điểm mà bê tông được lưu giữ trong quá 
trình vận chuyển từ trạm trộn đến công trường. 
Qua nghiên cứu trên 10 cấp phối, xét ở 4 mốc 
thời gian, xét ở góc độ thay đổi thể tích hồ xi 
măng và hàm lượng xi măng, có xét đến yếu tố 
phụ gia, rút ra một số kết luận như sau: 
a. Việc tăng thể tích hồ xi măng sẽ làm giảm 
đáng kể ma sát giữa hỗn hợp bê tông với thành 
ống bơm. Có một ngưỡng bão hòa của thể tích 
hồ mà từ đó, việc tăng thể tích hồ sẽ không làm 
giảm ma sát thành. 
b. Thời gian có tác động mạnh đến các thông số 
độ sụt, ma sát với quy luật khó xác định, sự thay 
đổi của thông số ma sát có thể khác với sự biến 
đổi của thông số độ sụt theo thời gian khi có thêm 
yếu tố phụ gia. Như vậy thông số độ sụt sẽ không 
đủ để đánh giá tính dễ bơm của bê tông. 
c. Hàm lượng xi măng, nhân tố chủ yếu tạo nên 
thể tích hồ cùng với nước là yếu tố chủ yếu làm 
suy giảm ma sát giữa hỗn hợp bê tông với thành 
ống bơm. 
d. Một vài gợi ý có thể rút ra cho việc thiết kế cấp 
phối bê tông bơm như sau: 
 - Đối với cấp phối hỗn hợp bê tông không yêu 
cầu cao về cường độ, giải pháp hợp lý để làm 
giảm các thông số ma sát là điều chỉnh N/X theo 
hướng tăng dần. 
 - Đối với hỗn hợp bê tông có yêu cầu cao về 
cường độ, thì giải pháp hợp lý để làm giảm các 
thông số ma sát là tăng hàm lượng xi măng kết 
hợp với việc tăng tỉ lệ N/X ở một mức độ vừa 
phải. 
Lời cảm ơn: Bài báo này được thực hiện trong 
khuôn khổ đề tài NCKH cấp Bộ, theo quyết định 
số 238/QĐ-BGDĐT ngày 21/01/2016. Các tác giả 
xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành. 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 59 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Kaplan, Denis (2000), Pompage des Bétons 
(Bơm bê tông – Tiếng Pháp), Etudes et 
recherches des laboratoires des Ponts et 
Chaussées, vol. 36. ISBN : 2-7208-2010-5. 
[2] Chapdelaine, Fédéric. (2007), Étude 
fondamentale et pratique sur le pompage du 
béton ( Luận văn Tiến sỹ), Faculté des études 
supérieures de l'Université Laval, Canada. 
[3] T.T. Ngo, (2009), Influence de la composition 
des bétons sur les paramètres de pompage et 
validation d’un modèle de prévision de la 
constrainte visqueuse (Luận văn Tiến sỹ), 
Laboratoire de Mécanique et Matériaux du 
Génie Civil (L2MGC), Universite de Cergy – 
Pontoise, France. 
[4] T.T. Ngo, E.H. Kadri, R. Bennacer, F. Cussigh 
(2010), Use of tribometer to estimate interface 
friction and concrete boundary layer composition 
during the fluid concrete pumping, Construction 
and Building Materials, Volume 24, Issue 7, 
July, Pages 1253-1261, ISSN 0950-0618. 
[5] Đỗ Vũ Thảo Quyên, Nguyễn Thế Dương, Huỳnh 
Quốc Minh Đức, Phan Đình Thoại (2004). Thí 
nghiệm đo các thông số ma sát tiếp xúc bê tông 
và thành ống bơm. Tạp chí Khoa học Công 
nghệ Duy Tân,tháng 11, trang 70-75. 
[6] Chanh-Trung Mai, El-Hadj Kadri, Tien-Tung 
Ngo, Abdelhak Kaci, and Mustapha Riche 
(2004). Estimation of the Pumping Pressure 
from Concrete Composition Based on the 
Identified Tribological Parameters. Advances in 
Materials Science and Engineering 
Volume 2014, 
[7] Dimitri Feys, Kamal H. Khayat, Aurelien Perez-
Schell, Rami Khatib (2005), Prediction of 
pumping pressure by means of new tribometer 
for highly-workable concrete, Cement and 
Concrete Composites, Volume 57, March, 
Pages 102-115, ISSN 0958-9465. 
[8] Vũ Văn Nhân, Nguyễn Thế Dương (2015), Ảnh 
hưởng của tỉ lệ cốt liệu đến tính chất ma sát 
giữa bê tông và thành ống bơm theo thời gian, 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Xây dựng - 
Viện KHCN Xây dựng, số 4 (171), ISSN 1859-
1566, 48-56p. 
[9] Nguyễn Thế Dương (2015), Phần mềm 
“Pumping Parameters Calculation” tính toán 
thông số ma sát bê tông tươi - thành ống 
thép, Tạp chí Khoa học Công nghệ Duy Tân (2) 
15, tháng 6, trang 69-75. 
[10] TCVN 9340:2012, Hỗn hợp bê tông trộn sẵn – 
Yêu cầu cơ bản đánh giá chất lượng và nghiệm 
thu, Tiêu chuẩn Việt Nam. 
[11] TCVN 7570 : 2006. Cốt liệu cho bê tông và vữa 
- yêu cầu kỹ thuật. 
[12]TCVN 6260 : 2009. Xi măng poóc lăng hỗn hợp 
- yêu cầu kỹ thuật. 
Ngày nhận bài:01/7/2016. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 30/5/2016. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1469415975nguyentheduong_6203.pdf 1469415975nguyentheduong_6203.pdf