Khảo sát tình hình chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền tại khoa chăm sóc tích cực thuộc một trung tâm y tế tỉnh Bạc Liêu

Trong nghiên cứu, người quan sát tiến hành quan sát 12 giờ/ngày để có thể ghi nhận được thông tin của hầu hết các liều thuốc trong ngày (cả ca đêm), đây là điểm tích cực của nghiên cứu, vì các nghiên cứu khác chỉ quan sát các thời điểm cho thuốc ban ngày hoặc ca sáng. Nghiên cứu tiến hành trong 14 ngày liên tục nên ghi nhận được thông tin về sai sót cho tất cả các ngày trong tuần. Nghiên cứu không quan sát quá 14 ngày vì sau khoảng thời gian này người quan sát có thể sẽ mệt mỏi, căng thẳng dẫn đến việc thu thập dữ liệu có nguy cơ bị sai lệch, không còn chính xác như trước(17). Nghiên cứu có vài hạn chế: chúng tôi chỉ khảo sát tại khoa chăm sóc tích cực nên chưa đại diện cho toàn bộ trung tâm y tế. Người quan sát không quan sát các trường hợp bệnh nhân trong tình trạng cấp cứu, đe dọa đến tính mạng vì lý do y đức, nhưng có thể thao tác trong những trường hợp này lại có nguy cơ cao xảy ra sai sót. Do thiết kế nghiên cứu là cắt ngang mô tả, nên chúng tôi chưa xác định được mối quan hệ nhân quả giữa việc xuất hiện sai sót với nguyên nhân (có thể là) sự hạn chế trong việc đào tạo/huấn luyện kỹ năng chuẩn bị và thực hiện thuốc cho điều dưỡng. Kết quả hồi quy logistic đa biến cũng chưa tìm thấy mối liên quan giữa số năm công tác của điều dưỡng với việc xuất hiện sai sót. Điều này có thể do công tác đào tạo/tập huấn hằng năm cho điều dưỡng của trung tâm y tế chưa tập trung vào quá trình chuẩn bị và thực hiện thuốc. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu hiện đang tiến hành một chương trình can thiệp tập trung vào các sai sót thường gặp, và sẽ đánh giá tác động của chương trình này.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 18 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình hình chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền tại khoa chăm sóc tích cực thuộc một trung tâm y tế tỉnh Bạc Liêu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 B - Khoa học Dược 120 KHẢO SÁT TÌNH HÌNH CHUẨN BỊ VÀ THỰC HIỆN THUỐC TIÊM/TIÊM TRUYỀN TẠI KHOA CHĂM SÓC TÍCH CỰC THUỘC MỘT TRUNG TÂM Y TẾ TỈNH BẠC LIÊU Lý Khoa Đăng*, Nguyễn Hương Thảo* TÓM TẮT Mở đầu: Sai sót trong giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc có thể gây tổn hại cho sức khỏe bệnh nhân và làm tăng chi phí điều trị. Điều này còn nghiêm trọng hơn khi sai sót xảy ra với các thuốc tiêm/tiêm truyền tại khoa chăm sóc tích cực. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ, loại sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền tại một khoa chăm sóc tích cực và xác định các yếu tố liên quan đến việc xuất hiện sai sót. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, thu thập số liệu bằng phương pháp quan sát trực tiếp thao tác chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền, 12 giờ mỗi ngày, trong 14 ngày liên tục. Hồi quy logistic được dùng để phân tích các yếu tố liên quan đến sai sót. Kết quả: Tỷ lệ sai sót chung là 87,5% (KTC 95%: 83,3% - 91,7%). Sai tốc độ và thời gian xảy ra thường xuyên nhất với tỷ lệ lần lượt là 82,9% và 45,0%. Yếu tố liên quan đến sai sót có ý nghĩa là số thuốc tiêm/tiêm truyền dùng trong cùng một lần cho bệnh nhân (OR =3,13; KTC 95%: 1,19 – 8,18) Kết luận: Sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền tại khoa chăm sóc tích cực xảy ra với tỷ lệ cao, đặc biệt là sai tốc độ tiêm/tiêm truyền. Cần xây dựng và áp dụng biện pháp can thiệp phù hợp nhằm giảm thiểu sai sót trong sử dụng thuốc. Từ khóa: sai sót, chuẩn bị thuốc, thực hiện thuốc, chăm sóc tích cực ABSTRACT INVESTIGATION ON INTRAVENOUS MEDICATION PREPARATION AND ADMINISTRATION ERRORS IN AN INTENSIVE CARE UNIT OF A HEALTH CENTRE IN BAC LIEU PROVINCE Ly Khoa Dang, Nguyen Huong Thao * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 3 - 2020: 120 - 126 Background: Medication preparation and administration errors can negatively affect patients’ health and increase health care cost, especially errors involving intravenous medications used at intensive care units. Objectives: To determine the prevalence, types of intravenous medication preparation and administration errors, and to identify factors associated with errors. Methods: A cross-sectional study was conducted, collecting data by direct observation of intravenous medication preparation and administration, 12 hours per day on 14 consecutive days. Logistic regression was used to analyze factors associated with errors. Results: The overall error rate was 87.5% (95% CI: 83.3% - 91.7%). Incorrect rate and incorrect time errors were the most frequent errors with the rate of 82.9% and 45.0%, respectively. Factors associated with errors were the number of intravenous drugs used each time for patient (OR =3.13; 95% CI: 1.19 – 8.18). Conclusions: Errors in intravenous medication preparations and administrations were high, * Khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: PGS.TS. Nguyễn Hương Thảo ĐT: 0918177254 Email: thao.nh@ump.edu.vn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 Nghiên cứu B - Khoa học Dược 121 especially, incorrect rate errors. Appropriate interventions could be developed and implemented to help reduce medication errors. Key words: errors, medication preparation, medication administration, ICU ĐẶT VẤN ĐỀ Hơn một phần ba biến cố bất lợi xảy ra trong quá trình sử dụng thuốc là do sai sót trong sử dụng thuốc gây ra(1). Điều này dẫn đến những tổn hại cho sức khỏe bệnh nhân và tạo gánh nặng cho hệ thống y tế(2). Trong quá trình dùng thuốc, giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc là một trong những giai đoạn có nhiều sai sót xảy ra nhất(3). Một nghiên cứu được thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh (năm 2015) đã cho thấy tỷ lệ sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền lên đến 73,2%(4). Từ đó đến nay, đã có thêm một số ít công bố về sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc tại các bệnh viện tuyến tỉnh/thành phố(5,6). Theo tìm hiểu của nhóm nghiên cứu, việc khảo sát các sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc chưa được thực hiện tại các cơ sở y tế tuyến thấp hơn. Thêm nữa, khoa chăm sóc tích cực là một khoa điều trị bệnh nặng, sử dụng nhiều thuốc tiêm/tiêm truyền, do đó sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc có khả năng xảy ra với tần suất cao hơn so với các khoa phòng khác(7). Trên cơ sở đó, chúng tôi thực hiện đề tài tại khoa chăm sóc tích cực của một trung tâm y tế thuộc tỉnh Bạc Liêu, nhằm xác định tỷ lệ, loại sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền và các yếu tố liên quan đến việc xuất hiện sai sót. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Điều dưỡng thực hiện thao tác của hai giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền trên bệnh nhân tại khoa chăm sóc tích cực từ 22/02/2020 đến 06/3/2020. Một quan sát hoàn chỉnh được tính cho từng liều thuốc từ khi bắt đầu chuẩn bị thuốc đến khi sử dụng hết thuốc cho bệnh nhân. Các trường hợp quan sát không hoàn chỉnh hoặc điều dưỡng từ chối, bệnh nhân cấp cứu, chuyển khoa khác sẽ được loại khỏi nghiên cứu. Bối cảnh nghiên cứu Sau khi thuốc được kê đơn bởi bác sĩ, điều dưỡng sẽ sao chép thuốc trong y lệnh vào phiếu lĩnh thuốc. Phiếu này sẽ được chuyển đến khoa dược. Khoa dược sẽ soạn thuốc cho từng bệnh nhân và chuyển lên khoa chăm sóc tích cực. Trong trường hợp khẩn cấp, khoa có thể sử dụng thuốc từ tủ trực và thuốc sẽ được bồi hoàn sau đó. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu cắt ngang mô tả tiến cứu. Cỡ mẫu Theo phân tích gộp của Keers (năm 2013), tỷ lệ sai sót của giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền (bao gồm sai thời gian) là 85,9%(8). Giả sử tỷ lệ sai sót trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự như trên, chọn p = 86% và sai số mong muốn là m = 0,05. Thay các số liệu vào công thức tính cỡ mẫu cho việc ước lượng một tỷ lệ(9), chúng tôi có n = 185. Như vậy, nghiên cứu cần ít nhất 185 quan sát hoàn chỉnh. Phương pháp tiến hành Quan sát trực tiếp được áp dụng để khảo sát các sai sót trong giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền. Người quan sát được tập huấn việc quan sát trước khi tiến hành nghiên cứu. Tại khoa, người quan sát xin ý kiến điều dưỡng và nếu điều dưỡng đồng ý tham gia nghiên cứu thì sẽ tiến hành quan sát, cần hạn chế thấp nhất xáo trộn gây ra cho điều dưỡng và ghi chép lại thông tin liên quan đến thao tác chuẩn bị và thực hiện thuốc. Trong trường hợp có thể xảy ra những sai sót nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của bệnh nhân, Nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 B - Khoa học Dược 122 người quan sát sẽ tư vấn một cách nhẹ nhàng, và không dùng từ “sai/sai sót” hay các nhận định/chỉ trích trong suốt quá trình quan sát. Việc quan sát được tiến hành trong 3 ca làm việc 7:00 – 11:30; 13:00 – 17:00 và 18:30 – 22:00 mỗi ngày, từ 22/02/2020 đến 06/3/2020. Để phát hiện sai sót, chúng tôi đối chiếu thông tin quan sát được với y lệnh của bác sĩ (trong hồ sơ bệnh án) và các tài liệu tham chiếu, gồm: hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất, Dược thư quốc gia Việt Nam 2018(10) và Handbook on Injectable Drugs 17th edition(11). Các định nghĩa dùng trong nghiên cứu Sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc Là sự khác biệt giữa việc chuẩn bị và thực hiện thuốc trong thực tế so với y lệnh của bác sĩ, chính sách/quy định của cơ sở y tế, hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất(12), Dược thư quốc gia Việt Nam 2018(10) hoặc Handbook on Injectable Drugs 17th edition(11). Phân loại sai sót Sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc được phân loại thành 9 loại(13) (Bảng 1). Xử lý số liệu Thống kê mô tả được sử dụng để tính tỷ lệ sai sót chung và tỷ lệ từng loại sai sót. Tỷ lệ sai sót chung (%) được tính bằng cách chia tổng số liều có ít nhất một sai sót cho tổng của số liều thực hiện và số liều bỏ sót, sau đó nhân với 100. Tỷ lệ từng loại sai sót (%) được tính bằng cách chia tổng số sai sót của từng loại cho tổng số sai sót, nhân với 100. Hồi quy logistic đa biến được dùng để xác định các yếu tố liên quan đến sai sót: giới tính của điều dưỡng (nam, nữ), số năm công tác của điều dưỡng (≤ 5 năm, > 5 năm), ngày trong tuần, ca làm việc (ngày (7:00 – 11:30 và 13:00 – 17:00); đêm (18:30 – 22:00)), tổng số thuốc tiêm/tiêm truyền dùng trong cùng 1 lần cho bệnh nhân (1 thuốc, ≥ 2 thuốc). Kết quả có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. Bảng 1. Định nghĩa các loại sai sót Loại sai sót Định nghĩa G ia i đ o ạ n c h u ẩ n b ị Sai thuốc Thuốc được chuẩn bị khác với thuốc được chỉ định Sai liều Liều chuẩn bị nhiều hơn hay ít hơn liều chỉ định (sai số ± 10%) Sai dạng bào chế Dạng bào chế được chuẩn bị khác với dạng được chỉ định Thuốc hỏng Chuẩn bị thuốc hết hạn sử dụng hay không còn tính toàn vẹn về mặt vật lý – hóa học của thuốc. Sai kỹ thuật chuẩn bị thuốc Thuốc được chuẩn bị không đúng kỹ thuật (so với các hướng dẫn của nhà sản xuất, quy trình/hướng dẫn của cơ sở y tế). Các sai sót này bao gồm: sai dung môi hoàn nguyên hay dung môi pha loãng, sai thể tích dung môi, tương kỵ. G ia i đ o ạ n t h ự c h iệ n Bỏ sót Không thực hiện liều thuốc đã được chỉ định cho bệnh nhân Thuốc không được chỉ định Thực hiện thuốc (không được chỉ định) cho bệnh nhân Sai kỹ thuật thực hiện thuốc Dùng thuốc cho bệnh nhân không đúng quy trình, kỹ thuật thực hiện (sai đường dùng, sai tốc độ, sai liều (±10% nếu liều chuẩn bị đúng), tương kỵ). Tốc độ truyền tĩnh mạch có sai số chấp nhận là ±15% so với y lệnh. Tốc độ tiêm tĩnh mạch (chậm) và tương kỵ dựa vào hướng dẫn của nhà sản xuất, Handbook on Injectable Drugs 17th edition(11) và Dược thư quốc gia Việt Nam 2018(10) Sai thời gian thực hiện thuốc Chênh lệch hơn 60 phút giữa thời gian thực hiện thuốc và thời gian trong y lệnh. KẾT QUẢ Trong thời gian nghiên cứu (từ ngày 22/02/2020 đến ngày 06/3/2020), chúng tôi đã thu thập được tổng cộng 240 quan sát hoàn chỉnh được thực hiện bởi 10 điều dưỡng trên 37 bệnh nhân. Tỷ lệ sai sót Có 210/240 quan sát có ít nhất một sai sót (87,5%; Khoảng tin cậy (KTC) 95%: 83,3% - 91,7%). Trong đó, 82 quan sát có một sai sót, 115 quan sát có hai sai sót, 13 quan sát có từ ba sai sót trở lên. Loại sai sót Sai tốc độ thực hiện thuốc xảy ra thường xuyên nhất (chiếm 82,9%), kế đến là sai thời gian thực hiện thuốc (chiếm 45,0%). Chưa phát hiện Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 Nghiên cứu B - Khoa học Dược 123 các sai sót về dạng bào chế, thuốc hỏng, dùng thuốc không có chỉ định (Bảng 2). Bảng 2. Tần suất các loại sai sót và ví dụ (tính trên tổng số 352 sai sót). Loại sai sót n % Ví dụ Giai đoạn chuẩn bị 28 8,0 Sai thuốc 1 0,3 Y lệnh: chỉ định furosemid Quá trình thực hiện: dùng gentamicin. Sai liều 7 2,0 Y lệnh: tiêm tĩnh mạch 2 lọ hydrocortison 100mg Quá trình thực hiện: tiêm 1 lọ hydrocortison 100mg. Sai dung môi (*) 8 2,3 Hướng dẫn nhà sản xuất: cefuroxim hoàn nguyên trong nước cất pha tiêm. Quá trình thực hiện: cefuroxim hoàn nguyên trong dung môi có chứa propylen glycol, acid citric (dung môi đặc biệt chỉ dùng để hoàn nguyên omeprazol), ghi nhận thấy dung dịch bị vẩn đục và đổi màu (tương kỵ). Sai thể tích dung môi (*) 12 3,4 Dược thư quốc gia: hoàn nguyên cefuroxim 750mg trong 8ml nước cất pha tiêm(10). Quá trình thực hiện: hoàn nguyên cefuroxim 750mg trong 4ml nước cất pha tiêm. Giai đoạn thực hiện 324 92,0 Bỏ sót liều 3 0,9 Sót liều cefuroxim 750mg lúc 16h00 Sai đường dùng (**) 1 0,3 Y lệnh: hydrocortison tiêm tĩnh mạch. Quá trình thực hiện: hydrocortison tiêm bắp. Sai liều (**) 10 2,8 Y lệnh: 4 ống kali clorid 500mg/5ml pha loãng với 500ml NaCl 0,9% sau đó truyền tĩnh mạch. Quá trình thực hiện: dung dịch truyền đã pha còn lại 150ml bị loại bỏ. Sai tốc độ (**) 199 56,5 Hướng dẫn sử dụng: tiêm không quá 1ml calci clorid trong 1 phút. Quá trình thực hiện: calci clorid 500mg/5ml tiêm tĩnh mạch trong 2 phút. Tương kỵ (**) 3 0,9 Cefuroxim và gentamicin tiêm tĩnh mạch qua cùng kim luồn mà không rửa kim giữa 2 liều thuốc. Sai thời gian 108 30,7 Y lệnh: 4 ống kali clorid 500mg/5ml chỉ định truyền tĩnh mạch lúc 17:30. Quá trình thực hiện: 4 ống kali clorid 500mg/5ml bắt đầu truyền lúc 20:30. *: Thuộc sai kỹ thuật chuẩn bị thuốc **: Thuộc sai kỹ thuật thực hiện thuốc Các yếu tố liên quan đến việc xuất hiện sai sót Kết quả hồi quy logistic cho thấy tổng số thuốc tiêm/tiêm truyền dùng trong cùng 1 lần cho bệnh nhân có liên quan với việc xuất hiện sai sót (OR = 3,13; KTC 95%: 1,19 – 8,18; p = 0,02) (Bảng 3). Bảng 3. Các yếu tố liên quan đến việc xuất hiện sai sót Yếu tố OR Khoảng tin cậy 95% p Giới 1,01 0,34 – 2,99 0,99 Số năm công tác 0,78 0,31 – 1,96 0,59 Thứ trong tuần Thứ hai Thứ ba 0,40 0,08 – 1,94 0,26 Thứ tư 0,39 0,08 – 1,90 0,24 Thứ năm 0,43 0,08 – 2,34 0,33 Thứ sáu 0,51 0,09 – 2,90 0,45 Thứ bảy 1,09 0,22 – 5,42 0,92 Chủ nhật 0,82 0,17 – 3,91 0,80 Ca làm việc Ngày Đêm 1,05 0,41 – 2,73 0,91 Số thuốc tiêm/tiêm truyền dùng cùng 1 lần cho bệnh nhân 1 thuốc ≥ 2 thuốc 3,13 1,19 – 8,18 0,02 BÀN LUẬN Tỷ lệ sai sót Tỷ lệ sai sót chung là 87,5% cho thấy nguy cơ xảy ra sai sót trên giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền tại khoa chăm sóc tích cực là rất cao. Thêm nữa, trong tổng số 210 quan sát có ít nhất một sai sót, có 128 quan sát có trên 1 sai sót. Các kết quả này cao hơn so với các kết quả của một nghiên cứu tại bệnh viện công tại thành phố Hồ Chí Minh (với tỷ lệ sai sót chung là 73,2% và có 344 quan sát có nhiều hơn một sai sót trong tổng số 2060 quan sát có ít nhất một sai sót)(4). Tỷ lệ sai sót chung (87,5%) tương tự với tỷ lệ sai sót chung thu được từ phân tích gộp Keers (85,9%)(8). Điều này có thể do cơ sở hạ tầng y tế và việc tiếp cận/cập nhật thông tin về chuẩn bị và thực hiện thuốc của nhân viên y tế tại trung tâm y tế còn hạn chế hơn so với các cơ sở y tế tại các tỉnh/thành phố lớn. Hằng năm, tại cơ sở nghiên cứu, điều dưỡng chỉ được tham gia vài buổi tập huấn dành cho tất cả nhân viên y tế (bao gồm bác sĩ, dược sĩ và điều dưỡng) của trung tâm y Nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 B - Khoa học Dược 124 tế; và nội dung tập huấn lại chưa tập trung vào thông tin về việc chuẩn bị và thực hiện thuốc. Ví dụ: nếu điều dưỡng được cập nhật thông tin về loại dung môi đặc biệt dành cho omeprazol thì trong quá trình chuẩn bị thuốc có thể sẽ không xuất hiện sai sót nghiêm trọng từ nhầm lẫn giữa dung môi của omeprazol và dung môi của cefuroxim, dẫn đến hiện tượng tương kỵ. Bên cạnh đó, điều dưỡng tại khoa thường làm việc trong 12 giờ liên tục và nghỉ trong 24 giờ tiếp theo, vì thế thời gian làm việc ca ngày và ca đêm của mỗi điều dưỡng thay đổi liên tục. Điều này có thể khiến điều dưỡng mệt mỏi và căng thẳng, ảnh hưởng đến việc chuẩn bị và thực hiện thuốc. Loại sai sót Sai sót về tốc độ thực hiện xảy ra thường xuyên nhất (chiếm 82,9%). Nếu không tính sai sót tốc độ thực hiện thì tỷ lệ sai sót chung giảm đáng kể từ 87,5% xuống còn 56,3%. Một nghiên cứu tại Anh cũng cho thấy sai sót tốc độ thực hiện thuốc xảy ra thường xuyên nhất (69,3%)(15). Sai sót tốc độ thực hiện thuốc cũng là loại sai sót phổ biến nhất (chiếm 43,9%) trong một nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh(14). Tiêm, truyền tĩnh mạch quá nhanh có thể gây ra những nguy hại nghiêm trọng cho bệnh nhân. Ví dụ khi tiêm tĩnh mạch nhanh calci clorid (trên 1ml/phút) có thể tăng cao nồng độ Ca2+ trong máu gây nguy cơ loạn nhịp tim và ngất(10). Hoặc tiêm tĩnh mạch nhanh cefotaxim 1000mg/10ml (dưới 3 phút) có thể gây nguy hiểm đến tính mạng do liên quan đến việc loạn nhịp tim(10). Những nguyên nhân có thể dẫn đến sai sót tốc độ tiêm có thể kể đến là không đủ các thiết bị hỗ trợ kiểm soát tốc độ như bơm tiêm tự động, hoặc điều dưỡng chưa có thông tin về tốc độ tiêm cho từng loại thuốc và/hoặc chưa thấy được sự nguy hiểm khi tiêm thuốc quá nhanh(15). Nghiên cứu không ghi nhận việc dùng thuốc hỏng, sai dạng bào chế, dùng thuốc không có chỉ định. Đây có thể là ưu điểm của cách thức cấp phát thuốc cho từng người bệnh của khoa dược. Điều này giúp giảm bớt khâu chia liều thuốc tại khoa, giảm cơ hội xảy ra sai sót. Theo quan sát của chúng tôi, các liều thuốc sau khi hoàn nguyên/pha loãng, được thực hiện ngay cho bệnh nhân, nên đảm bảo được ổn định của thuốc. Trong quá trình quan sát chúng tôi ghi nhận được một số trường hợp sai sót có thể xem là nghiêm trọng như sau: Ví dụ sai sót nghiêm trọng Y lệnh: cefuroxim 750mg và hydrocortison 100mg tiêm tĩnh mạch chậm, gentamicin 80mg/2ml tiêm bắp. Quá trình thực hiện: tiêm tĩnh mạch gentamicin trong vòng 7 giây, cefuroxim tiêm tĩnh mạch trong 10 giây qua cùng kim luồn nhưng không rửa, sau đó tiêm bắp hydrocortison. Nhận xét: nhầm lẫn đường dùng giữa hydrocortison và gentamicin, tương kỵ giữa cefuroxim – gentamicin và sai tốc độ tiêm tĩnh mạch của cefuroxim và gentamicin(10). Y lệnh: pha loãng 4 ống kali clorid 500mg/5ml trong 1 chai NaCl 0,9% 500ml, truyền tĩnh mạch lúc 17:30 cho bệnh nhân vừa có kết quả kali máu là 2,4 mmol/L. Quá trình thực hiện: điều dưỡng bắt đầu truyền tĩnh mạch cho bệnh nhân lúc 20:30 Nhận xét: bệnh nhân hạ kali máu nặng nếu không truyền tĩnh mạch kali kịp thời có thể dẫn đến nhịp chậm, giảm sức bóp cơ tim hoặc nhịp nhanh xoắn đỉnh, rối loạn nhịp, ngừng tim(16). Hướng dẫn của nhà sản xuất: omeprazol chỉ hoàn nguyên trong dung môi đi kèm (thành phần có: propylen glycol, acid citric). Trong khi, cefuroxim hoàn nguyên trong nước cất pha tiêm. Quá trình thực hiện: cefuroxim hoàn nguyên bằng dung môi dành cho omeprazol. Trong khi đó, omeprazol hoàn nguyên bằng nước cất pha tiêm. Nhận xét: ghi nhận thấy dung dịch sau hoàn nguyên vẩn đục và đổi màu khi cefuroxim hoàn nguyên với dung môi đặc biệt của omeprazol. Omeprazol hoàn nguyên trong nước cất pha tiêm mặc dù không thấy có hiện tượng lạ, tuy nhiên chất lượng và độ ổn định của thuốc có thể đã giảm đi nhiều(11). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 Nghiên cứu B - Khoa học Dược 125 Các yếu tố liên quan đến việc xuất hiện sai sót Khi dùng từ 2 thuốc trở lên (trong 1 lần) thì nguy cơ xảy ra sai sót cao hơn so với khi dùng 1 thuốc (OR = 3,13; KTC 95%: 1,19 – 8,18). Khi thực hiện nhiều thuốc cùng lúc cho bệnh nhân thì tính phức tạp trong thao tác chuẩn bị và thực hiện thuốc sẽ tăng cao. Áp lực thời gian hoàn thành việc chuẩn bị và thực hiện thuốc của điều dưỡng trên bệnh nhân cũng tăng có thể dẫn đến tiêm thuốc với tốc độ quá nhanh, nhiều bơm tiêm đã chứa sẵn thuốc cùng đặt trên một khay đựng dễ dẫn đến nhầm lẫn đường dùng, nguy cơ bỏ sót liều hoặc dùng cùng kim tiêm/kim luồn cho nhiều thuốc khác nhau. Nghiên cứu sử dụng phương pháp quan sát trực tiếp “không ngụy trang”. Mặc dù phương pháp quan sát trực tiếp “có ngụy trang” có giá trị cao hơn trong việc quan sát sai sót so với cách quan sát “không ngụy trang”. Tuy nhiên, trong bối cảnh nghiên cứu, phương pháp “không ngụy trang” lại phù hợp thực tế tại cơ sở y tế hơn. Cụ thể người quan sát là nhân viên y tế của cơ sở y tế, nên có thể tiến hành quan sát và nội kiểm thường xuyên chất lượng giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc. Và cũng vì thế, phương pháp “ngụy trang” không áp dụng được. Để giảm thiểu ảnh hưởng của sự có mặt của người quan sát, người quan sát sẽ thực hiện nghiên cứu thử nghiệm để các điều dưỡng quen với sự có mặt của người quan sát, chỉ quan sát khi có sự chấp thuận của điều dưỡng và cam kết đảm bảo bảo mật thông tin của điều dưỡng theo đúng nguyên tắc y đức. Trong nghiên cứu, người quan sát tiến hành quan sát 12 giờ/ngày để có thể ghi nhận được thông tin của hầu hết các liều thuốc trong ngày (cả ca đêm), đây là điểm tích cực của nghiên cứu, vì các nghiên cứu khác chỉ quan sát các thời điểm cho thuốc ban ngày hoặc ca sáng. Nghiên cứu tiến hành trong 14 ngày liên tục nên ghi nhận được thông tin về sai sót cho tất cả các ngày trong tuần. Nghiên cứu không quan sát quá 14 ngày vì sau khoảng thời gian này người quan sát có thể sẽ mệt mỏi, căng thẳng dẫn đến việc thu thập dữ liệu có nguy cơ bị sai lệch, không còn chính xác như trước(17). Nghiên cứu có vài hạn chế: chúng tôi chỉ khảo sát tại khoa chăm sóc tích cực nên chưa đại diện cho toàn bộ trung tâm y tế. Người quan sát không quan sát các trường hợp bệnh nhân trong tình trạng cấp cứu, đe dọa đến tính mạng vì lý do y đức, nhưng có thể thao tác trong những trường hợp này lại có nguy cơ cao xảy ra sai sót. Do thiết kế nghiên cứu là cắt ngang mô tả, nên chúng tôi chưa xác định được mối quan hệ nhân quả giữa việc xuất hiện sai sót với nguyên nhân (có thể là) sự hạn chế trong việc đào tạo/huấn luyện kỹ năng chuẩn bị và thực hiện thuốc cho điều dưỡng. Kết quả hồi quy logistic đa biến cũng chưa tìm thấy mối liên quan giữa số năm công tác của điều dưỡng với việc xuất hiện sai sót. Điều này có thể do công tác đào tạo/tập huấn hằng năm cho điều dưỡng của trung tâm y tế chưa tập trung vào quá trình chuẩn bị và thực hiện thuốc. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu hiện đang tiến hành một chương trình can thiệp tập trung vào các sai sót thường gặp, và sẽ đánh giá tác động của chương trình này. KẾT LUẬN Sai sót trong chuẩn bị và thực hiện thuốc tiêm/tiêm truyền tại khoa chăm sóc tích cực xảy ra với tỷ lệ cao, đặc biệt là sai tốc độ tiêm/tiêm truyền. Cần xây dựng và áp dụng biện pháp can thiệp phù hợp nhằm giảm thiểu sai sót trong sử dụng thuốc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Wilson RM, Michel P, Olsen S, et al (2012). Patient safety in developing countries: retrospective estimation of scale and nature of harm to patients in hospital. British Medical Journal, 344: e832. 2. Silva da BA, Krishnamurthy M (2016). The alarming reality of medication error: a patient case and review of Pennsylvania and National data. Journal of Community Hospital Internal Medicine Perspectives, 6(4):31758. 3. Keers RN, Williams SD, Cooke J, Ashcroft DM (2013). Causes of medication administration errors in hospitals: a systematic review of quantitative and qualitative evidence. Drug Safety, 36(11):1045-1067. 4. Nguyen HT, Nguyen TD, van den Heuvel ER, Haaijer-Ruskamp FM, Taxis K (2015). Medication errors in Vietnamese hospitals: prevalence, potential outcome and associated factors. PloS One, Nghiên cứu Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 3 * 2020 B - Khoa học Dược 126 10(9):e0138284 URL: . https://doi.org/10.1371/journal.pone.0138284 (access on 20/5/2020). 5. Vo TH, Nguyen TN, Duong HM, Luu NN (2018). Prevalence, potential clinical outcome and risk factors of medication errors related to antibiotics’ preparation and administration by nurses in a university hospital. Value in Health, 21(2):61-62. URL: https://doi.org/10.1016/j.jval.2018.07.466 (access on 20/5/2020). 6. Van Tuong P, Phuong TTM, Anh BTM, Nguyen THT (2017). Assessment of injection safety in Ha Dong General hospital, Hanoi in 2012. F1000 Research, 6: 1003. URL: https://doi.org/10.12688/f1000research.11399.4 (access on 20/5/2020). 7. Cobaugh DJ, Schneider SM (2005). Medication use in the emergency department: why are we placing patients at risk?. American Journal Health System Pharmacy, 62(17):1832-1833. 8. Keers RN, Williams SD, Cooke J, Ashcroft DM (2013). Prevalence and nature of medication administration errors in health care settings: a systematic review of direct observational evidence. Annals of Pharmacotherapy, 47(2):237-256. 9. Wayne WD, Chad LC (2013). Biostatistics: a foundation for analysis in the Health Sciences, 10th ed, pp.192. John Wiley & Sons, Hoboken, USA. 10. Bộ Y tế (2018). Dược thư quốc gia Việt Nam, pp.290-725. Nhà Xuất Bản Y Học, Hà Nội. 11. Trissel LA (2013). Handbook on injectable drugs, 17th ed, pp 1570. American Society of Health System Pharmacists Inc, Bethesda, MD. 12. Taxis K, Barber N (2004). Incidence and severity of intravenous drug errors in a German hospital. European Journal of Clinical Pharmacology, 59(11):815-817. 13. Nguyen HT, Nguyen TD, Haaijer-Ruskamp FM, Taxis K (2014). Errors in preparation and administration of insulin in two urban Vietnamese hospitals: An observational study. Nursing Research, 63(1):68-72. 14. Đoàn Thị Minh Diệu, Trần Minh Trí, Nguyễn Hương Thảo, Nguyễn Tuấn Dũng (2013). Khảo sát sai sót trong hai giai đoạn chuẩn bị và thực hiện thuốc tại một Bệnh viện đa khoa thành phố Hồ Chí Minh. Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, 17(4):83-87. 15. Taxis K, Barber N (2003). Ethnographic study of incidence and severity of intravenous drug errors. British Medical Journal, 326(7391):684 16. Kardalas E, Paschou SA, Anagnostis P, Muscogiuri G, Siasos G, Vryonidou A (2018). Hypokalemia: a clinical update. Endocrine Connections, 7(4):135-146. 17. Dean B, Barber N (2001). Validity and reliability of observational methods for studying medication admistration errors. American Journal Health System Pharmacy, 58(1):54-59. Ngày nhận bài báo: 27/05/2020 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/06/2020 Ngày bài báo được đăng: 20/07/2020

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_tinh_hinh_chuan_bi_va_thuc_hien_thuoc_tiemtiem_truy.pdf