Khảo sát tình hình nhiễm HPV và các Genotype HPV (human papillomavirus) ở phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi từ 18 – 69 bằng kỹ thuật sinh học phân tử

Mối liên hệ giữa nhiễm HPV và lứa tuổi Tuổi trung bình của đối tượng trong mẫu nghiên cứu là 35,44 tuổi. Đa số tập trung ở nhóm tuổi từ 30 – 39 (chiếm 41,64%), nhóm tuổi từ 60 – 69 chiếm tỷ lệ thấp nhất (chiếm 1,32%). Do sự phân bố không đồng đều giữa các nhóm tuổi trong mẫu nghiên cứu, cụ thể là thu nhận vào 60,22% người từ 30 – 49 tuổi. Do đó chúng tôi phải phân tích riêng trong từng nhóm tuổi cụ thể để đưa ra kết luận xác hợp. Trong 258 trường hợp có kết quả HPV (+): nhóm tuổi 20 – 29 có tỷ lệ nhiễm HPV theo nhóm tuổi cao nhất (chiếm 24%), sau đó là nhóm tuổi 40 - 49, nhóm tuổi 50 – 59 và nhóm tuổi 30 – 39 (chiếm tỷ lệ lần lượt là 20,32%; 20,31% và 17,66%), nhóm tuổi <20 có tỷ lệ nhiễm HPV thấp nhất (chiếm 7,69%). Kết quả này của chúng tôi có sự khác biệt với các nghiên cứu khác của các tác giả trong và ngoài nước về đỉnh tuổi nhiễm HPV theo nhóm tuổi. Cụ thể là nghiên cứu của Anna R.Giuliano: nhóm tuổi 15 – 25 chiếm tỷ lệ cao nhất (22,7%), kế đến là các nhóm tuổi 26 – 35, nhóm tuổi 36 – 45 và nhóm tuổi 46 – 55 (chiếm tỷ lệ lần lượt là 13,2%; 10,7% và 7,9%). Nghiên cứu của JN I Vet(13): nhóm tuổi 35 – 44 chiếm tỷ lệ cao nhất (15,2%), kế đến là các nhóm tuổi <25 và nhóm tuổi 25 – 34 (chiếm tỷ lệ 11,4% và 11%). Nghiên cứu của Vũ Thị Nhung(12): tỷ lệ nhiễm HPV tập trung cao nhất trong nhóm tuổi <20 (20%), kế đến là nhóm tuổi 20 – 29, nhóm tuổi 30 – 39 và nhóm tuổi 40 – 49 (chiếm tỷ lệ lần lượt là 14,59%; 12,53% và 11,66%). Tuy có sự khác nhau về đỉnh tuổi nhiễm HPV nhưng nhìn chung nhiễm HPV tập trung chủ yếu trong độ tuổi sinh sản và hoạt động tình dục. Điều này chứng minh có sự lây nhiễm cao qua quan hệ tình dục(10).

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 50 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình hình nhiễm HPV và các Genotype HPV (human papillomavirus) ở phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi từ 18 – 69 bằng kỹ thuật sinh học phân tử, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 190 KHẢO SÁT TÌNH HÌNH NHIỄM HPV VÀ CÁC GENOTYPE HPV (HUMAN PAPILLOMAVIRUS) Ở PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG ĐỘ TUỔI TỪ 18 – 69 BẰNG KỸ THUẬT SINH HỌC PHÂN TỬ Lục Thị Vân Bích*, Cao Minh Nga*, Hồ Lê Ân*, Huỳnh Ngọc Phương Thảo* TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỉ lệ nhiễm HPV và các loại genotype HPV ở phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi từ 18-69 được làm xét nghiệm tại bệnh viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và phòng xét nghiệm Y Khoa Âu Lạc bằng kỹ thuật sinh học phân tử. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang. Các số liệu liên quan đến nghiên cứu được thu thập từ bệnh viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và phòng xét nghiệm Y khoa Âu Lạc. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HPV phát hiện bằng phương pháp PCR là 19,97% (258/1292), trong đó nhiễm các type nguy cơ cao là 63,57%, nhiễm cả 2 nhóm vừa nguy cơ cao vừa nguy cơ thấp là 20,54% và nhiễm type nguy cơ thấp là 15,89%. Sự phân bố các type theo thứ tự như sau genotype 18, genotype 16 và genotype 58. Nhóm tuổi 20 – 29 có tỷ lệ nhiễm HPV theo nhóm tuổi cao nhất (chiếm 23,42%), sau đó là nhóm tuổi <20 (chiếm 23,08%). Nhóm tuổi 60 – 69 có tỷ lệ nhiễm HPV thấp nhất (chiếm 11,76%). Kết luận: Tỷ lệ nhiễm HPV trong nghiên cứu khá cao 19,97% và sự phân bố các genotype HPV cũng tương tự. Từ khóa: Vi rút HPV, ung thư cổ tử cung, type HPV. ABSTRACT DETERMINATION OF HPV PREVALENCE AND HPV GENOTYPES IN VIETNAMESE WOMEN AGED FROM 18 – 69 YEARS (WHO WERE) TESTED PCR Luc Thi Van Bich, Cao Minh Nga, Ho Le An, Huynh Ngoc Phuong Thao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 190 - 194 Objectives: Determination of HPV prevalence and HPV genotypes in Vietnamese women aged from 18 – 69 years (who were) tested PCR at University Hospital of Medicine and Pharmacy in Ho Chi Minh City and Au Lac Medicine Laboratory. Methods: Study design is cross-sectional descriptive study. The data relating to the study were collected based on the records of the results of Medicine University Hospital, Ho Chi Minh City and Laboratory Medicine Au Lac. Results: Prevalence of HPV infection was 19.97% (258/1292) and the high risk HPV positive result was 63.57 %, 20.54% in both high-risk and low-risk HPV type and 15.9% in low risk types. The most common HPV types in women were genotypes 18, 16 and 58. Highest HPV prevalence by age group was found in the 20 – 29 year age group (23.42%), followed by women younger than 20 years (23.08%). The lowest prevalence was found in the 60 – 69 year age group. Conclusion: Prevalence of HPV infection detected by PCR was 19.97% and the most common HPV genotypes in HCM city are similar to other regions in the world. Key words: * Trường Đại Học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch Tác giả liên lạc : BS. Hồ Lê Ân ĐT: 0989.501.765 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 191 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư cổ tử cung là bệnh lý phổ biến, đứng hàng thứ 2 sau ung thư vú trong số các ung thư ở phụ nữ trên thế giới và là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 5 ở giới nữ. Theo số liệu thống kê của Cơ Quan Nghiên Cứu Quốc tế Về Ung Thư, trực thuộc Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO)(3), hàng năm có 500,000 ca mới mắc và 270,000 ca tử vong trên toàn cầu, đặc biệt phân nửa số trường hợp mắc ung thư cổ tử cung xuất hiện ở Châu Á. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung là loại ung thư sinh dục thường gặp nhất và chiếm tỉ lệ 53,5% các loại ung thư ở nữ giới.. Đây là bệnh lý ác tính có tỷ lệ mắc đứng hàng đầu ở phụ nữ miền Nam và hàng thứ tư ở phụ nữ miền Bắc. Trong thập niên 70, HPV được mô tả như là một trong những tác nhân gây biến đổi tế bào cổ tử cung (dị sản cổ tử cung), tiền đề của ung thư cổ tử cung(3). Khoảng trên 90% trường hợp ung thư cổ tử cung được phát hiện có liên quan đến nhiễm HPV. Human Papillomavirus có khoảng 120 type. Người ta phân biệt các type nguy cơ cao thường gây ung thư và các type nguy cơ thấp ít khi làm tiến triển đến ung thư. Như vậy, việc tìm hiểu về tình trạng nhiễm các genotype HPV ở phụ nữ là vấn đề rất đáng quan tâm. Tuy nhiên, để xác định được tình trạng nhiễm HPV thì việc thực hiện và triển khai kỹ thuật để chẩn đoán nhiễm HPV đóng vai trò rất quan trọng và chính yếu. Với mong muốn góp phần vào việc tìm hiểu sự phân bố tình hình nhiễm HPV nhằm hỗ trợ cho việc tiên lượng khả năng diễn tiến bệnh cũng như trong phòng ngừa ung thư cổ tử cung, chúng tôi thực hiện đề tài “Khảo sát tình hình nhiễm HPV và các genotype HPV ở phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi từ 18 đến 69 bằng kỹ thuật sinh học phân tử”. Mục tiêu - Xác định tỉ lệ nhiễm HPV – DNA bằng kỹ thuật PCR. - Xác định tỉ lệ genotype HPV bằng kỹ thuật Reverse Dot Blot. - Tìm hiểu mối liên hệ nhiễm HPV theo lứa tuổi. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu Phụ nữ Việt Nam trong độ tuổi từ 18 – 69. Tiêu chuẩn chọn mẫu Tất cả các mẫu bệnh phẩm của bệnh nhân đến bệnh viện Đại Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và phòng xét nghiệm Y Khoa Âu Lạc làm xét nghiệm PCR để chẩn đoán và định genotype HPV trong thời gian từ 1/1/2009 đến 1/7/2009. Bệnh nhân là nữ, quốc tịch Việt Nam, trong độ tuổi từ 18 – 69, không phân biệt nơi cư trú và nghề nghiệp. Tiêu chuẩn loại trừ Không thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu, các trường hợp kết quả ghi không rõ ràng. KẾT QUẢ Đặc điểm nhóm phụ nữ tham gia nghiên cứu Do trong quá trình thu thập mẫu, chúng tôi không thống kê được nơi cư trú và nghề nghiệp của nhóm phụ nữ trong nghiên cứu nên số liệu về nơi ở và nghề nghiệp không được ghi nhận. Bảng 1. Phân bố nhóm nghiên cứu theo nhóm tuổi Nhóm tuổi Số lượng Tỷ lệ % <20 13 1,01 20 – 29 350 27,09 30 – 39 538 41,64 40 – 49 310 23,99 50 – 59 64 4,95 60 – 69 17 1,32 Tổng 1292 100 Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 192 Tỷ lệ nhiễm HPV Trong tổng số 1292 bệnh phẩm, số bệnh phẩm có HPV-DNA (+) là 258 trường hợp (19,97%). Tỷ lệ genotype HPV Bảng 2. Phân bố tỉ lệ nhiễm các genotype HPV Các type HPV Số lượng Tỷ lệ % (427 lượt/258 trường hợp) 18 119 27,87 16 90 21,08 58 43 10,07 11 42 9,84 81 35 8,2 33 21 4,92 6 20 4,68 35 9 2,11 45 7 1,64 52 7 1,64 39 6 1,41 61 5 1,17 68 4 0,94 70 4 0,94 31 3 0,7 42 2 0,47 43 2 0,47 59 2 0,47 71 2 0,47 51 1 0,23 53 1 0,23 66 1 0,23 82 1 0,23 Tổng cộng 427 100 Nhận xét: Có tất cả 15 type HPV nguy cơ cao trong đó chiếm đa số là type 18 và 16 (chiếm 27,87% và 21,08%), kế đó là các type 58, 11 và 81 (chiếm 10,07%, 9,84% và 8,2%). Có tất cả 8 type HPV nguy cơ thấp, trong đó chiếm đa số là type 11 và 81 (chiếm 9,84% và 8,2%). Liên quan giữa nhóm tuổi và HPV Bảng 3. Liên quan giữa nhóm tuổi và HPV HPV(+) HPV(-) Nhóm tuổi Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ % Tổng số BN theo nhóm tuổi <20 1 7,69 12 92,31 13 20 – 29 84 24 266 76 350 30 – 39 95 17,66 443 82,34 538 HPV(+) HPV(-) 40 – 49 63 20,32 247 79,68 310 50 – 59 13 20,31 51 79,69 64 60 – 69 2 11,76 15 88,24 17 Tổng 258 1292 Nhận xét: nhóm tuổi 20 – 29 có tỷ lệ nhiễm HPV theo nhóm tuổi cao nhất (chiếm 24%), sau đó là nhóm tuổi 40 – 49 (chiếm 20,32%), nhóm tuổi <20 có tỷ lệ nhiễm HPV thấp nhất (chiếm 7,69%). BÀN LUẬN Phân bố tỷ lệ nhiễm HPV Trong số các bệnh phẩm được làm xét nghiệm, tỷ lệ nhiễm HPV phát hiện bằng kỹ thuật PCR là 19,97% ( 258/1292 trường hợp). Tỷ lệ này là cao hơn hẳn so với nghiên cứu của các tác giả nước ngoài: Anna R. Giuliano(4), Paolo Giorgi Rossi(11), M Dai(2), JN I Vet(13) và cao hơn so với nghiên cứu của các tác giả trong nước: Vũ Thị Nhung(12), Trần Thị Lợi(12) và Phạm Thị Hoàng Anh(10) Nghiên cứu Cỡ mẫu Tỷ lệ nhiễm HPV Giá trị P Chúng tôi 1292 19,97% Anna R.Giuliano(4) 2319 14,4% <0,001 Paolo Giorgi Rossi(11) 3817 14,9% <0,001 M Dai(2) 662 14,8% <0,01 JN I Vet(13) 2686 11,4% <0,001 Vũ Thị Nhung(12) 1500 12% <0,001 Tỷ lệ genotype HPV Theo kết quả có được từ kỹ thuật Reverse Dot Blot, 1 mẫu bệnh phẩm có thể nhiễm 1 hay đồng nhiễm nhiều loại genotype cho 1 lần xét nghiệm định type. Do đó trong 258 mẫu bệnh phẩm có HPV (+), chúng tôi có 427 lượt HPV/258 trường hợp. Trong các type HPV nguy cơ cao, genotype HPV 18 chiếm tỷ lệ cao nhất (27,87% - 119/427), kế đến là HPV 16 (21,08% - 90/427) và HPV 58 (10,07% - 43/427). Trong các type nguy cơ thấp: genotype HPV 11 chiếm tỷ lệ cao nhất (9,84% - 42/427), kế đến là HPV 81 (8,2% - 35/427) và HPV 6 (4,68% - 20/427). Những kết quả mà nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có sự khác biệt so với nghiên cứu của các tác giả khác: Anna R.Giuliano cho kết Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 193 quả: HPV 16 là type phổ biến nhất ở cả 2 quốc gia. Tiếp theo là HPV type 58, 45 là các type phổ biến nhất ở Mexico, và HPV type 18, 31 là các type phổ biến nhất ở Hoa Kỳ, nghiên cứu của Paulo Giorgio Rossi(11) cho thấy HPV type 16, 31 và 51 là các type phổ biến nhất, nghiên cứu của M Dai(2) cho thấy HPV type 16, 58, 52 là 3 type phổ biến, nghiên cứu của JN I Vet(13) xác định được các type 52, 16, 18 là các type phổ biến nhất, tại Việt Nam, nghiên cứu của Vũ Thị Nhung(12) thì các type 18, 58, 16 là các type thường gặp nhất. Qua đó, ta có thể thấy sự phân bố các type là khác nhau tùy thuộc vào dân tộc và vùng địa lý. Tuy có khác nhau về sự phân bố các type giữa các vùng địa lý khác nhau nhưng nhìn chung type 16 luôn giữ vai trò quan trọng, luôn xuất hiện trong 3 type hay gặp nhất trong các nghiên cứu. Tham khảo thêm các nghiên cứu khác của các tác giả thực hiện tại Việt Nam: nghiên cứu của Trần Thị Lợi(12) thực hiện trên 1550 phụ nữ tại thành phố Hồ Chí Minh cho kết quả: các type HPV có tỷ lệ cao nhất các type 16, 18, 58. Nghiên cứu của Phạm Thị Hoàng Anh(10) thực hiện trên 922 phụ nữ ở thành phố Hồ Chí Minh và 994 phụ nữ ở Hà Nội năm 2003 đã cho kết quả: các type HPV có tỷ lệ cao nhất là các type 16, 58, 18. Nghiên cứu của Lê Trung Thọ(7) thực hiện trên 1500 phụ nữ sống tại Quận Hoàng Mai và Đông Anh – Hà Nội từ tháng 4/2007 đến hết tháng 6/2008 cho kết quả: các type HPV có tỷ lệ cao nhất là các type 18, 58, 16. Các type 16, 18 và 58 luôn là 3 type hay gặp nhất tại Việt Nam qua 5 nghiên cứu ở 5 thời điểm khác nhau cho thấy liệu type 16, 18, 58 có phải là đặc trưng của sự phân bố các type HPV ở Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung hay không. Mối liên hệ giữa nhiễm HPV và lứa tuổi Tuổi trung bình của đối tượng trong mẫu nghiên cứu là 35,44 tuổi. Đa số tập trung ở nhóm tuổi từ 30 – 39 (chiếm 41,64%), nhóm tuổi từ 60 – 69 chiếm tỷ lệ thấp nhất (chiếm 1,32%). Do sự phân bố không đồng đều giữa các nhóm tuổi trong mẫu nghiên cứu, cụ thể là thu nhận vào 60,22% người từ 30 – 49 tuổi. Do đó chúng tôi phải phân tích riêng trong từng nhóm tuổi cụ thể để đưa ra kết luận xác hợp. Trong 258 trường hợp có kết quả HPV (+): nhóm tuổi 20 – 29 có tỷ lệ nhiễm HPV theo nhóm tuổi cao nhất (chiếm 24%), sau đó là nhóm tuổi 40 - 49, nhóm tuổi 50 – 59 và nhóm tuổi 30 – 39 (chiếm tỷ lệ lần lượt là 20,32%; 20,31% và 17,66%), nhóm tuổi <20 có tỷ lệ nhiễm HPV thấp nhất (chiếm 7,69%). Kết quả này của chúng tôi có sự khác biệt với các nghiên cứu khác của các tác giả trong và ngoài nước về đỉnh tuổi nhiễm HPV theo nhóm tuổi. Cụ thể là nghiên cứu của Anna R.Giuliano: nhóm tuổi 15 – 25 chiếm tỷ lệ cao nhất (22,7%), kế đến là các nhóm tuổi 26 – 35, nhóm tuổi 36 – 45 và nhóm tuổi 46 – 55 (chiếm tỷ lệ lần lượt là 13,2%; 10,7% và 7,9%). Nghiên cứu của JN I Vet(13): nhóm tuổi 35 – 44 chiếm tỷ lệ cao nhất (15,2%), kế đến là các nhóm tuổi <25 và nhóm tuổi 25 – 34 (chiếm tỷ lệ 11,4% và 11%). Nghiên cứu của Vũ Thị Nhung(12): tỷ lệ nhiễm HPV tập trung cao nhất trong nhóm tuổi <20 (20%), kế đến là nhóm tuổi 20 – 29, nhóm tuổi 30 – 39 và nhóm tuổi 40 – 49 (chiếm tỷ lệ lần lượt là 14,59%; 12,53% và 11,66%). Tuy có sự khác nhau về đỉnh tuổi nhiễm HPV nhưng nhìn chung nhiễm HPV tập trung chủ yếu trong độ tuổi sinh sản và hoạt động tình dục. Điều này chứng minh có sự lây nhiễm cao qua quan hệ tình dục(10). KẾT LUẬN Qua tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang để phát hiện nhiễm HPV và định genotype HPV ở phụ nữ trong độ tuổi từ 18 – 69, kết quả được ghi nhận như sau: - Tỷ lệ nhiễm HPV phát hiện bằng phương pháp PCR là 19,97%. - Có tất cả 23 type HPV được phát hiện. Trong đó nhóm nguy cơ cao chiếm đa số là type Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Hội Nghị KH KT Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch Năm 2011 194 18, 16 và 58, nhóm nguy cơ thấp chiếm đa số là type 11 và 81. - Nhóm tuổi 20 – 29 có tỷ lệ nhiễm HPV theo nhóm tuổi cao nhất (chiếm 24%), sau đó là nhóm tuổi 40 – 49 (chiếm 20,32%). Nhóm tuổi <20 có tỷ lệ nhiễm HPV thấp nhất (chiếm 7,69%). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bosch FX, Manos MM, Muñoz N & coll. (1995): “Prevalence of Human Papillomavirus in Cervical Cancer: a worldwide perspective. Journal of The National Cancer Institute”, Vol 87, 11: 796 – 802. 2. Dai M & coll. (2006): “Human papillomavirus infection in Shanxi Province, People's Republic of China: a population-based study. British Journal of Cancer”, 95: 96 – 101. 3. Ferlay J, Bray F, Pisani P, Parkin DM. (2004): “Globocan 2002: Cancer incidence, mortality and prevalence worldwide”. IARC Cancer Base N0 5. Version 2.0, IARCPress, Lyon. 4. Giuliano AR, Papenfuss M. (2001): “Human Papilloma virus Infection at the United State – Mexico Border: Implications for Cervical Cancer Prevention and Control. Cancer Epidemiology, Biomarkers & Prevention”, Vol 10: 1129 – 1136. 5. Hausen ZH. (1996): “Papillomavirus infections – a major cause of human cancer. Biochimica et Biophysica acta” 1228, 55–78. 6. Kjaer SK & coll. (2002): “Type specific persistence of high risk human papillomavirus (HPV) as indicator of high grade cervical squamous intraepithelial lesions in young women: population based prospective follow up study”. BMJ 325: 572. 7. Lê Trung Thọ, Trần Văn Hợp. (2009): “Nghiên cứu tỉ lệ nhiễm HPV ở cộng đồng phụ nữ Hà Nội – Tìm hiểu một số yếu tố liên quan. Y Học thành phố Hồ Chí Minh, tập 13”, 1: 185 – 189. 8. Lee HP & Seo S-S. (2002): “The aplication of human papillomavirus testing to cervical cancer screening. Yonsei Medical Journal”. 43(6): 763 – 768. 9. Moberg M, Gustavsson I, and Gyllensten U. (2003): “Real-Time PCR-Based System for Simultaneous Quantification of Human Papillomavirus Types Associated with High Risk of Cervical Cancer. Journal of Clinical Microbiology, Vol. 41”. 7: 3221 – 3228. 10. Pham Thi Hoang Anh, Nguyen Trong Hieu, Rolando Herrero, Salvatore Vaccarella, Jennifer S Smith, Nguyen Thi Thuy, Nguyen Hoai Nga, Nguyen Ba Duc, Rhoda Ashley, Peter J F Snijders, Chris J L M Meijer, Nubia Muñoz, D Max Parkin, Silvia Franceschi. (2003): “Human papillomavirus infection among women in South and North Vietnam. International Journal of Cancer”, Vol. 104, Issue 2, 213 – 220. 11. Rossi PG & coll. (2010): “Prevalence of HPV high and low risk types in cervical samples from the Italian general population: a population based study. BMC Infectious Diseases”, 10: 214. 12. Trần Thị Lợi và cộng sự. (2010): “Tỷ lệ nhiễm Human Papillomavirus và các yếu tố liên quan của phụ nữ từ 18 đến 69 tuổi tại thành phố Hồ Chí Minh. Y Học thành phố Hồ Chí Minh, tập 14”, 1: 311 – 320. 13. Vet JNI & coll. (2008): “Prevalence of human papillomavirus in Indonesia: a population-based study in three regions Indonesia. British Journal of Cancer”. 99: 214 – 218. 14. Vũ Thị Nhung. (2006): “Khảo sát tình hình nhiễm các type HPV (Human Papillomavirus) ở phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh bằng kỹ thuật sinh học phân tử. Y Học thành phố Hồ Chí Minh, phụ bản chuyên đề ung bướu, tập 10”, số 4: 402 – 407. 15. Walboomers JM & coll. (1999): “Human papillomavirus is a necessary cause of invasive cervical cancer worldwide. Journal or Pathology” 189: 12 – 19.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_tinh_hinh_nhiem_hpv_va_cac_genotype_hpv_human_papil.pdf
Tài liệu liên quan