So sánh với nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài thì tỷ lệ thiếu máu thai kỳ của chúng tôi thấp
hơn giới hạn thay đổi chung của các nước đang phát
triển (25-35%). Nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao hơn so
với các nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ thiếu máu
thai kỳ ở các nước này chỉ từ 5-8% và nhìn chung
thấp hơn so với thống kê toàn cầu của WHO năm
2011 (38%) [15]. Nghiên cứu cắt ngang tại trung tâm
chăm sóc sức khỏe Thổ Nhĩ Kỳ năm 2015 trên 1221
thai phụ từ tuần 37 đến tuần thứ 42, tỷ lệ thiếu máu là
41,6% [10]. Cùng thời điểm đó, một nghiên cứu ở vùng
phía Bắc Ethiopia ghi nhận tỷ lệ này là 36,1% [8]. Hai
nghiên cứu được công bố năm 2018 tại Trung Quốc
và Bắc Tanzania ghi nhận tỷ lệ thiếu máu thai kỳ lần
lượt là 23,5% và 18% [11], [12]. Tỷ lệ thiếu máu thai
kỳ của chúng tôi có nhiều khác biệt so với nghiên
cứu của các tác giả nước ngoài. Sự khác biệt này là
do cách chọn mẫu khác nhau, điều kiện chăm sóc y
tế và chăm sóc tiền sản ở mỗi quốc gia có khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ này là một tín hiệu tích
cực cho thấy chương trình phòng chống thiếu máu
trong thai kỳ ở nước ta khá hiệu quả. Trong mẫu
nghiên cứu của chúng tôi 71,1% thiếu máu mức độ
nhẹ, 28,9% thiếu máu mức độ trung bình và không
có thiếu máu nặng. Nghiên cứu của chúng tôi 17,8%
sản phụ cung cấp đầy đủ 4 nhóm thực phẩm trong
khẩu phần ăn có tỷ lệ thiếu máu thấp hơn một cách
có ý nghĩa thống kê so với sản phụ không cung cấp
đủ 4 nhóm (28,8%). Kết quả trên cũng tương đồng
với nghiên cứu của Nguyễn Thị Lệ [4]. Bên cạnh đó,
qua thống kê chúng tôi nhận thấy có 17,8% sản phụ
uống viên sắt đều có tình trạng thiếu máu thấp hơn
một cách có ý nghĩa thống kê so với sản phụ không
bổ sung sắt (28,8%). Tương tự, 16,2% sản phụ sử
dụng sữa bổ sung sắt có tình trạng thiếu máu thấp
hơn có ý nghĩa thống kê so với sản phụ không dùng
hoặc chỉ dùng các loại sữa đặc, sữa tươi. Đây được
xem là các yếu tố bảo vệ sản phụ tránh thiếu máu
trong thai kỳ. So sánh với nghiên cứu của Nguyễn
Thị Lệ, những phụ nữ mang thai sử dụng viên sắt
ít nguy cơ thiếu máu thiếu sắt hơn khi không dùng
viên sắt trong thai kỳ, tuy nhiên vấn đề sử dụng sữa
bổ sung sắt lại không có mối liên quan với tình trạng
thiếu máu [4]. Nghiên cứu của chúng tôi có vài điểm
tương đồng với nghiên cứu của Phạm Thanh Hải ghi
nhận 6,1% phụ nữ mang thai bổ sung sắt đều đặn,
8,1% bổ sung sắt không đều có tình trạng thiếu máu
thiếu sắt thấp hơn một cách có ý nghĩa thống kê so
với không bổ sung (10,6%) [3]. Một nghiên cứu ở
Nam Ethiopia cho thấy không cung cấp sắt trong thai
kỳ sẽ làm tăng tỷ lệ thiếu máu gấp 1,72 lần so với
được cung cấp sắt [13]. Khảo sát đặc điểm sản khoa,
chúng tôi nhận thấy ở những sản phụ chưa sinh lần
nào, tỷ lệ thiếu máu là 15% nhưng ở sản phụ đã sinh
từ 3 lần trở lên, tỷ lệ thiếu máu lên đến 41,2%.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình hình thiếu máu thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Khoa Phụ sản - Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
38
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
Địa chỉ liên hệ: Trương Thị Linh Giang, email: ttlgiang@huemed-univ.edu.vn
Ngày nhận bài: 28/12/2019; Ngày đồng ý đăng: 22/1/2020; Ngày xuất bản: 26/2/2020;
Khảo sát tình hình thiếu máu thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Khoa
Phụ sản - Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
Trương Thị Linh Giang, Trương Quang Vinh
Khoa Phụ Sản, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ tình hình thiếu máu thai kỳ và các yếu tố liên quan. Đối tượng và phương pháp
nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 480 sản phụ mang đơn thai từ 28-42 tuần. Tiêu chuẩn chẩn đoán
thiếu máu khi Hb < 11 g/dL. Kết quả: Kết quả nghiên cứu tìm thấy tỷ lệ thiếu máu thai kỳ là 20,2% trong đó
71,1% thiếu máu nhẹ, 28,9% thiếu máu trung bình. Kết luận: Các yếu tố liên quan đến tình trạng thiếu máu
ở sản phụ bao gồm khẩu phần ăn đủ 4 nhóm thực phẩm, uống viên sắt, sử dụng sữa bổ sung sắt, số lần sinh
và khoảng cách giữa hai lần sinh.
Từ khóa: Thiếu máu, bổ sung sắt, sản phụ thiếu máu
Abstract
Surveilance anemia during pregnancy and related factors at
Hue University of Medicine and Pharmacy Hospital
Truong Thi Linh Giang, Trương Quang Vinh
Ob/Gyn Department - Hue University Hospital
Objectives: To find out the prevalence of pregnancy anemia and related factors. Methods: A cross-
sectional study of 480 women who were pregnant for 28-42 weeks and criteria for diagnosis of anemia when
Hb < 11 g/dL. Results: The study results found a pregnancy anemia rate of 20.2% of which 71.1% was mild
anemia, 28.9% anemia medium. Conclusions: Factors related to anemia in pregnant women include a diet of
4 food groups, iron tablets, iron supplements, number of births and the interval between births.
Keywords: Anemia, iron supplements,anemia during pregnancy
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiếu máu vào thời kỳ mang thai đóng vai trò
rất quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp đến sức khỏe của người mẹ và sự phát triển của
thai nhi. Chính vì những tác động bất lợi đó, thiếu
máu trong thai kỳ đang là vấn đề được quan tâm
ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát
triển nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe
sinh sản. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới
năm 2011, ước tính tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang
thai từ 15-49 tuổi chiếm 38,2%. Đông Nam Á, Đông
Địa Trung Hải và Châu Phi là những khu vực có tỷ
lệ thiếu máu thai kỳ cao nhất trên toàn cầu (38,9-
48,7%) [15], [16].
Cho đến nay, trên thế giới cũng như ở nước ta đã
có nhiều công trình nghiên cứu về thiếu máu ở phụ
nữ mang thai. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào
đánh giá tình trạng thiếu máu của các sản phụ trước
khi sinh cũng như một số yếu tố liên quan gây thiếu
máu trong thai kỳ tại Bệnh viện gần đây. Xuất phát
từ những vấn đề trên chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài "Khảo sát tình hình thiếu máu thai kỳ và
các yếu tố liên quan tại Khoa Phụ sản - Bệnh viện
Trường Đại học Y Dược Huế" nhằm mục tiêu:
- Khảo sát tình hình thiếu máu ở sản phụ tại khoa
Phụ sản Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
- Đánh giá một số yếu tố liên quan của sản phụ
thiếu máu.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu: Cắt ngang mô tả
2.2. Tiêu chuẩn chọn: Sản phụ mang đơn thai từ
tuần thứ 28 đến tuần thứ 42 của thai kỳ (tính theo
siêu âm hoặc kinh cuối cùng).
Tiêu chuẩn loại trừ: Các sản phụ mang song thai,
đa thai, các sản phụ không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Cỡ mẫu
n = Z2
α/2
Với khoảng tin cậy 95%, Z
α/2
= 1,96 (α=0,05),
e =0,04 với p là tỷ lệ thiếu máu ở sản phụ. p=0,23
(tỷ lệ % phụ nữ mang thai bị thiếu máu tại Việt Nam
DOI: 10.34071/jmp.2020.1.6
39
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
theo thống kê của WHO năm 2011) [15]. Thay số vào
tính được cỡ mẫu cần là 425.
Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu tuần tự cho
đến khi đủ số lượng sản phụ cần thiết.
Các bước thu thập số liệu : Các sản phụ đến sinh
tại khoa Phụ sản Bệnh viện Trương từ tháng 10/2018
đến tháng 11 /2019 thỏa mãn các tiêu chuẩn chọn
mẫu sẽ được tư vấn mời tham gia nghiên cứu. Nếu
sản phụ đồng ý tham gia, người nghiên cứu sẽ tiến
hành phỏng vấn điền thông tin vào phiếu thu thập
số liệu. Sau đó, sản phụ sẽ được tiến hành khám các
dấu hiệu, triệu chứng liên quan đến thiếu máu và
xét nghiệm huyết đồ tầm soát thiếu máu. Ghi nhận
các chỉ số huyết học từ kết quả xét nghiệm máu.
Định nghĩa biến số
Loại biến Cách xác định
Thiếu máu thai kỳ Nhị giá
Xét nghiệm huyết đồ
1. Có (Hb < 11 g/dL)
2. Không
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ sản phụ thiếu máu
Trong tổng số 480 sản phụ được nghiên cứu, có hơn 1/5 sản phụ bị thiếu máu.
Bảng 3.1. Phân bố mức độ thiếu máu của sản phụ (theo WHO)
Mức độ thiếu máu Số sản phụ (n) Tỷ lệ (%)
Nhẹ 69 71,1
Trung bình 28 28,9
Nặng 0 0
Tổng 97 100
Trong số sản phụ bị thiếu máu, thiếu máu mức độ nhẹ chiếm 71,1%, còn lại là thiếu máu mức độ trung
bình và không có trường hợp nào thiếu máu nặng.
Bảng 3.2. Liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu xã hội và thiếu máu thai kỳ
Yếu tố liên quan
Thiếu máu thai kỳ
p
Có Không
n % n %
Nhóm tuổi
< 20
20 - 29
30 - 39
≥ 40
1
61
34
1
8,3
19,8
23,0
8,3
11
247
114
11
91,7
80,2
77,0
91,7
p=0,418
Nghề nghiệp
Lao động chân tay
Nội trợ
Lao động trí óc
46
31
20
21,1
23,0
14,2
172
104
107
78,9
77,0
85,9
p=0,314
Nơi cư trú
Thành thị
Nông thôn
Miền núi
26
68
3
22,0
19,2
42,9
92
287
4
78,0
80,8
57,1
p=0,257
40
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
Tình trạng kinh tế
Nghèo-cận nghèo
Trung bình
Khá
6
76
15
25,0
22,2
13,2
18
266
99
75,0
77,8
86,8
p=0,095
Tổng 97 383
Khảo sát đặc điểm nhân khẩu xã hội, chúng tôi không tìm thấy mối liên quan giữa thiếu máu thai kỳ với
tuổi mang thai, nghề nghiệp, nơi cư trú và tình trạng kinh tế (với p>0,05).
Bảng 3.3. Liên quan giữa một số đặc điểm của sản phụ với thiếu máu thai kỳ
Yếu tố liên quan
Thiếu máu thai kỳ
c2, p
Có Không
n % n %
BMI trước mang thai
< 18,5
18,5- 22,9
23- 24,9
≥ 25
31
59
6
1
23,3
19,7
18,8
6,2
102
240
26
15
76,7
80,3
81,2
93,8
p=0,422
Nghén trong thai kỳ
Không
Nhẹ
Nặng
36
58
4
17,2
21,7
40,0
168
209
6
82,8
78,3
60,0
p=0,141
Tổng 97 383
Không có mối liên quan giữa BMI trước khi mang thai và tình trạng nghén với thiếu máu trong thai kỳ
(p>0,05).
Bảng 3.4. Liên quan giữa thực hành của sản phụ về khám thai, phòng ngừa
thiếu máu và thiếu máu thai kỳ
Yếu tố liên quan
Thiếu máu thai kỳ
c2, p
Có Không
n % n %
Khám thai
Không
1 - 2 lần
≥ 3 lần
1
2
94
50,0
28,6
20,0
1
5
377
50,0
71,4
80,0
p=0,481
Số bữa ăn trong ngày
≤ 2 bữa/ngày
3 bữa/ngày
> 3 bữa/ngày
0
30
67
0
20,4
20,5
6
117
260
100
79,6
79,5
p=0,463
Sử dụng trà, cà phê, rượu bia
Có
Không
5
92
27,8
19,9
13
370
72,2
80,1
p=0,400
Cung cấp dinh dưỡng
Đủ 4 nhóm thực phẩm
Không đủ
69
28
17,8
28,8
313
70
82,2
71,2
p=0,016
OR=0,55 (95% CI = 0,33-0,91)
Uống viên sắt
Có
Không
67
30
17,8
28,8
309
74
82,2
71,2
p=0,013
41
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
OR=0,534 (95% CI = 0,324-0,881)
Sữa bổ sung sắt
Có
Không
43
54
16,2
25,1
222
161
83,8
74,9
p=0,016
OR=0,577 (95% CI = 0,369-0,905)
Tổng 97 383
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy mối liên quan có ý nghĩa giữa thực hành cung cấp dinh dưỡng đủ 4
nhóm thực phẩm, uống viên sắt, sử dụng sữa bổ sung sắt và thiếu máu thai kỳ (p<0,05). Đây là các yếu tố bảo
vệ sản phụ tránh thiếu máu trong thai kỳ.
Biểu đồ 3.2. Mối liên quan giữa số lần sinh với thiếu máu thai kỳ
Ở những sản phụ sinh con so, tỷ lệ thiếu máu trong nhóm này là 15% và ở những sản phụ sinh từ 3 lần trở
lên tỷ lệ thiếu máu tăng lên đến 41,2%. Qua phép kiểm c2=10,667, p=0,014 cho thấy mối liên quan giữa thiếu
máu trong thai kỳ và số lần sinh có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.5. Mối liên quan giữa số lần sinh với thiếu máu thai kỳ
Số lần sinh
Thiếu máu thai kỳ
Có Không
n % n %
< 3 lần
≥ 3 lần
7
90
41,2
19,4
17
373
58,8
80,6
Tổng 97 383
OR=2,901 (95%CI= 1,075-7,830), p < 0,05
Kết quả nghiên cứu cho thấy sản phụ sinh từ 3 lần trở lên tăng nguy cơ thiếu máu lên 2,9 lần so với sinh
dưới 3 lần.
Biểu đồ 3.3. Liên quan giữa khoảng cách giữa hai lần sinh với thiếu máu thai kỳ
Tỷ lệ thiếu máu thai kỳ ở nhóm sản phụ có khoảng cách giữa hai lần sinh là 1 năm chiếm 41,7% cao hơn
nhiều so với nhóm có khoảng cách hai lần mang thai 2 năm và từ 3 năm trở lên. Qua kết quả cho thấy có mối
liên quan giữa thiếu máu trong thai kỳ và khoảng cách giữa hai lần sinh.
42
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
Bảng 3.6. Liên quan giữa khoảng cách giữa hai lần sinh với thiếu máu thai kỳ
Khoảng cách hai lần sinh
Thiếu máu thai kỳ
Có Không
n % n %
1 năm
≥2 năm
15
47
41,7
21,6
21
171
58,3
78,4
Tổng 62 192
OR=2,59 (95%CI= 1,23-5,45 ), p<0,05
Khoảng cách 1 năm giữa hai lần sinh làm tăng nguy cơ thiếu máu trong thai kỳ sau gấp 2,6 lần so với
khoảng cách từ 2 năm trở lên.
4. BÀN LUẬN
Tỷ lệ thiếu máu thai kỳ là 20,2%, so với các nghiên cứu khác trong nước chúng tôi nhận thấy tỷ lệ thiếu
máu ở sản phụ trong nghiên cứu thấp hơn nhiều. Điều này có thể do nghiên cứu của chúng tôi thực hiện ở
thời điểm sau, khi mà trình độ dân trí của người dân Việt Nam đã có phần cải thiện hơn trước nên ý thức của
bản thân người mẹ về chăm sóc, khám và theo dõi sức khỏe trong thai kỳ đã được nâng cao. Chúng ta cũng
dễ nhận thấy được tỷ lệ thiếu máu trong các nghiên cứu ở Việt Nam giảm dần qua các năm. Đây là điều hết
sức đáng mừng, cho thấy các chương trình chăm sóc sức khỏe đạt hiệu quả tốt.
Bảng 4.1. Tỷ lệ thiếu máu thai kỳ trong các nghiên cứu ở Việt Nam
Tác giả Tỷ lệ thiếu máu (%)
Chúng tôi 20,2
Phan Thị Đan Thanh (2010) [7] 36,7
Phạm Minh Sơn (2012) [6] 22,86
Nguyễn Thị Lệ (2013) [4] 34
Hồ Văn Lộc (2015) [5] 27,2
Phạm Thanh Hải (2017) [3] 22,2%
So sánh với nghiên cứu của các tác giả nước
ngoài thì tỷ lệ thiếu máu thai kỳ của chúng tôi thấp
hơn giới hạn thay đổi chung của các nước đang phát
triển (25-35%). Nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao hơn so
với các nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ thiếu máu
thai kỳ ở các nước này chỉ từ 5-8% và nhìn chung
thấp hơn so với thống kê toàn cầu của WHO năm
2011 (38%) [15]. Nghiên cứu cắt ngang tại trung tâm
chăm sóc sức khỏe Thổ Nhĩ Kỳ năm 2015 trên 1221
thai phụ từ tuần 37 đến tuần thứ 42, tỷ lệ thiếu máu là
41,6% [10]. Cùng thời điểm đó, một nghiên cứu ở vùng
phía Bắc Ethiopia ghi nhận tỷ lệ này là 36,1% [8]. Hai
nghiên cứu được công bố năm 2018 tại Trung Quốc
và Bắc Tanzania ghi nhận tỷ lệ thiếu máu thai kỳ lần
lượt là 23,5% và 18% [11], [12]. Tỷ lệ thiếu máu thai
kỳ của chúng tôi có nhiều khác biệt so với nghiên
cứu của các tác giả nước ngoài. Sự khác biệt này là
do cách chọn mẫu khác nhau, điều kiện chăm sóc y
tế và chăm sóc tiền sản ở mỗi quốc gia có khác nhau.
Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ này là một tín hiệu tích
cực cho thấy chương trình phòng chống thiếu máu
trong thai kỳ ở nước ta khá hiệu quả. Trong mẫu
nghiên cứu của chúng tôi 71,1% thiếu máu mức độ
nhẹ, 28,9% thiếu máu mức độ trung bình và không
có thiếu máu nặng. Nghiên cứu của chúng tôi 17,8%
sản phụ cung cấp đầy đủ 4 nhóm thực phẩm trong
khẩu phần ăn có tỷ lệ thiếu máu thấp hơn một cách
có ý nghĩa thống kê so với sản phụ không cung cấp
đủ 4 nhóm (28,8%). Kết quả trên cũng tương đồng
với nghiên cứu của Nguyễn Thị Lệ [4]. Bên cạnh đó,
qua thống kê chúng tôi nhận thấy có 17,8% sản phụ
uống viên sắt đều có tình trạng thiếu máu thấp hơn
một cách có ý nghĩa thống kê so với sản phụ không
bổ sung sắt (28,8%). Tương tự, 16,2% sản phụ sử
dụng sữa bổ sung sắt có tình trạng thiếu máu thấp
hơn có ý nghĩa thống kê so với sản phụ không dùng
hoặc chỉ dùng các loại sữa đặc, sữa tươi. Đây được
xem là các yếu tố bảo vệ sản phụ tránh thiếu máu
trong thai kỳ. So sánh với nghiên cứu của Nguyễn
Thị Lệ, những phụ nữ mang thai sử dụng viên sắt
ít nguy cơ thiếu máu thiếu sắt hơn khi không dùng
viên sắt trong thai kỳ, tuy nhiên vấn đề sử dụng sữa
bổ sung sắt lại không có mối liên quan với tình trạng
thiếu máu [4]. Nghiên cứu của chúng tôi có vài điểm
43
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
tương đồng với nghiên cứu của Phạm Thanh Hải ghi
nhận 6,1% phụ nữ mang thai bổ sung sắt đều đặn,
8,1% bổ sung sắt không đều có tình trạng thiếu máu
thiếu sắt thấp hơn một cách có ý nghĩa thống kê so
với không bổ sung (10,6%) [3]. Một nghiên cứu ở
Nam Ethiopia cho thấy không cung cấp sắt trong thai
kỳ sẽ làm tăng tỷ lệ thiếu máu gấp 1,72 lần so với
được cung cấp sắt [13]. Khảo sát đặc điểm sản khoa,
chúng tôi nhận thấy ở những sản phụ chưa sinh lần
nào, tỷ lệ thiếu máu là 15% nhưng ở sản phụ đã sinh
từ 3 lần trở lên, tỷ lệ thiếu máu lên đến 41,2%. Qua
test c2 cho thấy mối liên quan giữa thiếu máu thai kỳ
và số lần sinh con (p<0,05), sản phụ sinh từ 3 lần trở
lên có nguy cơ thiếu máu gấp 2,9 lần so với sinh dưới
3 lần với OR = 2,901 (95%CI= 1,075-7,830 ), p < 0,05.
Kết quả nghiên cứu của Phạm Minh Sơn cho thấy,
các phụ nữ sinh trên 2 lần có tỷ lệ thiếu máu cao hơn
(25,52%) những phụ nữ sinh ≤ 2 lần (21,45%). Tuy
nhiên nghiên cứu cũng không chỉ ra mối liên quan
giữa số lần sinh với tình trạng thiếu máu trong thai
kỳ [7]. Nghiên cứu của Li Lin và cộng sự (2018) đánh
giá những phụ nữ sinh từ 4 lần trở lên có tỷ lệ thiếu
máu 11%, trong khi những phụ nữ chưa từng sinh
lần nào có tỷ lệ thiếu máu là 1,7%. Nghiên cứu cũng
chỉ ra có mối liên quan giữa số lần sinh với tình trạng
thiếu máu thai kỳ [12]. Về khoảng cách giữa hai lần
sinh, chúng tôi thấy tỷ lệ thiếu máu ở nhóm cách
1 năm chiếm 41,7% cao hơn nhiều so với nhóm có
khoảng cách hai lần sinh 2 năm và từ 3 năm trở lên.
Từ đó, có mối liên quan giữa thiếu máu thai kỳ và
khoảng cách giữa hai lần sinh, khoảng cách 1 năm
giữa hai lần sinh làm tăng nguy cơ thiếu máu trong
thai kỳ sau gấp 2,6 lần so với khoảng cách từ 2 năm
trở lên với OR=2,59 (95% CI= 1,23-5,45), p<0,05.
5. KẾT LUẬN
Tỷ lệ thiếu máu ở các sản phụ là 20,2%, 71,1%
thiếu máu nhẹ, 28,9% thiếu máu trung bình và
không có thiếu máu nặng. Sản phụ sinh từ 3 lần trở
lên nguy cơ thiếu máu thai kỳ tăng gấp 2,9 lần so với
sinh dưới 3 lần. Khoảng cách giữa hai lần sinh là 1
năm có nguy cơ thiếu máu trong thai kỳ sau gấp 2,6
lần so với khoảng cách từ 2 năm trở lên. Cung cấp
đủ 4 nhóm thực phẩm trong khẩu phần ăn, sử dụng
sữa có bổ sung sắt và uống viên sắt trong thai kỳ
giúp giảm nguy cơ thiếu máu cho sản phụ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thanh Hải, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang, Ngô
Minh Xuân (2018), “Tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt ở phụ nữ
mang thai đến khám tại bệnh viện Từ Dũ”, Tạp chí Phụ sản,
số 15(4) -2018, tr. 41-46.
2. Nguyễn Thị Lệ, Trương Quang Vinh (2013), Nghiên
cứu tình hình thiếu máu thiếu sắt trong quý hai của thai kỳ
và hiệu quả điều trị hỗ trợ, Luận văn thạc sĩ của Bác sĩ nội
trú, Trường Đại học Y Dược Huế.
3. Hồ Văn Lộc, Trương Quang Vinh (2016), Nghiên cứu
tình hình thiếu máu ở phụ nữ mang thai tại huyện Hải
Lăng, tỉnh Quảng Trị năm 2015, Luận án chuyên khoa y tế
cấp II, Trường Đại học Y Dược Huế.
4. Phạm Minh Sơn (2012), Nghiên cứu tình trạng thiếu
máu của các bà mẹ mang thai và các yếu tố liên quan tại
các xã miền núi huyện Quảng Trạch, Quảng Bình năm
2012, Luận án chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y dược
Huế.
5. Phạm Thị Đan Thanh, Ngô Thị Kim Phụng (2010), Tỉ
lệ thiếu máu thiếu sắt ở thai phụ 3 tháng đầu thai kỳ và
các yếu tố liên quan tại tỉnh Bạc Liêu, Luận án chuyên khoa
cấp II, Trường đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, tr.
45-67.
6. Abel Gebre, Afework Mulugeta (2015), “Prevalence
of anemia and associated factors among pregnant
women in North Western zone of Tigray, Northern
Ethiopia: a cross-sectional study”, Journal of Nutrition and
Metabolism, 16(30), pp. 1-7.
7. Chintan Upadhyay, Nisha Upadhyay (2017),
“Effect of anemia on pregnancy outcome: a prospective
study at tertiary care hospital”, International Journal of
Reproduction, Contraception, Obstetrics and Gynecology,
6(12), pp. 5379-5383.
8. Cüneyt Eftal Taner, Atalay Ekin,Ulaş Solmaz, et al
(2015), “Prevalence and risk factors of anemia among
pregnant women attending a high-volume tertiary care
center for delivery”, Turkey-German Gynecological
Association, 16(4), pp. 231-236.
9. Grace Stephen, Melina Mgongo, Tamara Hussein
Hashim, et al (2018), “Anaemia in pregnancy: prevalence,
risk factors, and adverse perinatal outcomes in Northern
Tanzania”, Institute of Public Health, Department of
Community Health, Kilimanjaro Christian Medical
University College (KMUCO), 21(5), pp. 35-56.
10. Li Lin, Yumei Wei, Weiwei Zhu (2018), “Prevalence,
risk factors and associated adverse pregnancy outcomes
of anaemia in Chinese pregnant women: a multicentre
retrospective study”, BMC Pregnancy & Childbirth, pp. 18-
111.
11. Meaza Lebso, Anchamo Anato, Eskindir Loha
(2017), “Prevalence of anemia and associated factors
44
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 1, tháng 2/2020
among pregnant women in Southern Ethiopia: A
community based cross-sectional study”, PloS One, pp.
1-11.
12. Shradha S. Maka, Sangamesh B. Tondare,
Mahesh B. Tondare (2017), “Study of impact of anemia
on pregnancy”, International Journal of Reproduction,
Contraception, Obstetrics and Gynecology, 6(11), pp.
4847-4850.
13. WHO(2015), Theglobal prevalence of anemia in
2011, Geneve, Switzerland, pp.1-43.
14. WHO (2014), WHA Global Nutrition Targets 2025,
Geneve, pp. 1-7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
khao_sat_tinh_hinh_thieu_mau_thai_ky_va_cac_yeu_to_lien_quan.pdf