Khảo sát tình trạng thiếu máu thiếu sắt trong 3 tháng giữa thai kỳ và các yếu tố liên quan tại bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh

KẾT LUẬN Qua khảo sát trên 302 thai phụ tại bệnh viện Đại học Y Dược chúng tôi ghi nhận kết quả: - Tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược là 20,19%. Trong đó: +Tỷ lệ thiếu máu nhẹ (nồng độ hemoglobin từ 10 – 10,9 g/d) chiếm 62,3%. +Tỷ lệ thiếu máu trung bình (nồng độ hemoglobin từ 7 – 9,9 g/dl) chiếm 37,7%. + Không có thai phụ nào đến khám thai trong tình trạng thiếu máu nặng hoặc rất nặng. - Tỷ lệ TMTS trong thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược là 17,21%. TMTS chiếm 85,25% trong tổng số thai phụ bị thiếu máu. - Tình trạng thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ liên quan đến các yếu tố như: + Số con hiện có: những thai phụ sanh nhiều lần sẽ tăng nguy cơ TMTS. Trong nghiên cứu của chúng tôi những thai phụ có con lần thứ 3 tỷ lệ TMTS thai kỳ là 74,2% so với những thai phụ mới có con lần đầu tỷ lệ TMTS là 9%. +Số lần bỏ thai: bỏ thai nhiều lần sẽ làm tăng nguy cơ TMTS trong thai kỳ. Tỷ lệ TMTS tăng dần theo số lần bỏ thai: bỏ thai 1 lần tỷ lệ TMTS là 0,7%, bỏ thai 2 – 3 lần là 20,8%, bỏ thai 3 lần là 49,2 %. + Việc sử dụng sữa có bổ sung sắt trong thai kỳ với liều lượng khoảng 200 ml/ngày góp phần làm giảm nguy cơ TMTS trong thai kỳ. Những thai phụ có sử dụng sữa có bổ sung sắt tỷ lệ TMTS là 11,6%, và những thai phụ không sử dụng hoặc sử dụng sữa không có bổ sung sắt tỷ lệ TMTS là 47,8%. + Việc bổ sung viên sắt trong thai kỳ làm giảm nguy cơ TMTS trong thai kỳ ở phụ nữ mang thai đến khám thai tại bệnh viện Đại học Y Dược. Trên nhóm nghiên cứu chúng tôi nhận thấy: những thai phụ có sử dụng viên sắt trong thai kỳ tỷ lệ TMTS là: 6,8% và những thai phụ không uống viên sắt có tỷ lệ TMTS là 44%.

pdf11 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 280 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khảo sát tình trạng thiếu máu thiếu sắt trong 3 tháng giữa thai kỳ và các yếu tố liên quan tại bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 1 KHẢO SÁT TÌNH TRẠNG THIẾU MÁU THIẾU SẮT TRONG 3 THÁNG GIỮA THAI KỲ VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Võ Thị Thu Nguyệt*, Bành Thanh Lan*, Trần Thị Lợi*, Phạm Quí Trọng** TÓM TẮT Thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt (TMTS) là vấn đề sức khỏe quan trọng ở những nước đang phát triển cũng như những nước công nghiệp phát triển. Phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 5 tuổi là đối tượng nguy cơ cao trong dân số. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu: xác định tỷ lệ thiếu máu, thiếu máu thiếu sắt bằng những xét nghiệm thường qui và định lượng ferritin huyết thanh; và tìm các yếu tố liên quan với thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả thực hiện trên 302 thai phụ ở tam cá nguyệt thứ II đến khám thai tại bệnh viện Đại học Y Dược. Những thai phụ này sẽ được xét nghiệm định lượng nồng độ hemoglobin (Hb), ferritin huyết thanh và các gía trị huyết học khác. Những thông tin về dịch tễ học, trình độ học vấn, mức độ ăn uống trong thai kỳsẽ được thực hiện qua bảng câu hỏi mẫu. Kết quả: Tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ (Hb < 11 g/dl) là 20,19%, nhưng không có trường hợp nào thiếu máu nặng (Hb < 7 g/dl), tỷ lệ TMTS (Hb < 11 g/dl và ferritin < 12 ng/ml) là 17,21%. Những yếu tố liên quan với tình trạng TMTS là: việc sử dụng sắt dự phòng trong thai kỳ, việc uống sữa có bổ sung sắt trong thai kỳ, số con hiện có và số lần bỏ thai Kết luận: Tỷ lệ thiếu máu, TMTS trong thai kỳ lần lượt là 20,19% và 17,21%. Tỷ lệ này tương ứng với các nước đang phát triển khác (25-35%) và còn cách xa với các nước công nghiệp phát triển (5-8%) ABSTRACT PREVALENCE OF IRON – DEFICIENCY ANEMIA IN SECOND TRIMESTER PREGNANCY IN MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL OF HO CHI MINH CITY Vo Thi Thu Nguyet, Banh Thanh Lan, Tran Thi Loi, Pham Qui Trong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 162 - 170 Background: Anemia, Iron – deficiency anemia (IDA) is a public health problem in the developing and even industrialized countries. Pregnant women and the children under 5 years of age are among the high – risk population. Our main in this study were to obtain the prevalence of anemia, IDA and its association with mesures of IDA among a group of pregnant women by routine methods and by serum ferritin and rick factors associated Subjects: A cross – sectional survey the estimates are based on 302 reportedly healthy pregnant women in their second trimester, at hospital of University of Science Medical and Pharmaceutical. A series of determinations were conducted to determine heamoglobin concentration (Hb); serum ferritin and other indexes. Then a questionaire for epidemiological data, type of diet, level of education, laboratory data, ect. was filled. Result: The prevalence of anemia (Hb < 110g/dl) was 20.19%, but severe anemia (Hb < 70g/dl) was absent; the prevalence of IDA (Hb < 110 g/dl and serum ferritin < 12 ng/ml) was 17.21%. Iron prophy laxis * Bộ môn Phụ Sản - Đại học Y Dược TP.HCM ** Bộ môn Huyết Học - Đại học Y Dược TP.HCM Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 2 in pregnancy – general, milk fortified with iron, number of children, number of abortion were associated with IDA during pregnancy. Conclusion: The prevalence of anemia in pregnant women was 20.19%, of IDA was 17.21%, which is the same as the prevalence found in other developing countries (25-35%). This show that we are still far behind the health status in the industrialized countries (5-8%) Thiếu máu trong thai kỳ là một vấn đề sức khỏe cộng đồng chiếm mối quan tâm hàng đầu trên toàn thế giới. Theo báo cáo khoảng 56% phụ nữ mang thai ở các nước đang phát triển bị thiếu máu, trong khi chỉ có 18% ở những nước phát triển(6). Thiếu máu gây ra những hậu quả nghiêm trọng như: sanh non, sanh con nhẹ cân, gây tử vong mẹ và con ở những trường hợp thiếu máu nặng(7,8). Thiếu sắt là nguyên nhân chiếm hàng đầu trong các nguyên nhân gây thiếu máu. Ở những nước đang phát triển ngoài nguyên nhân thiếu sắt trong khẩu phần ăn TMTS còn do các bệnh ký sinh trùng đường ruột và sốt rét. Tỷ lệ TMTS ở những nước công nghiệp phát triển đã giảm trong vài thập kỉ gần đây nhưng tỷ lệ TMTS chung trên toàn thế giới thay đổi rất ít. Khoảng 500 triệu người trên thế giới bị TMTS, và tỷ lệ TMTS chiếm 25-35% ở những nước đang phát triển, trong khi chỉ chiếm khoảng 5-8% ở những nước công nghiệp phát triển(4). Những thai phụ có dự trữ sắt tốt, được bổ sung viên sắt đầy đủ trong thai kỳ này vẫn có khả năng bị TMTS trong thai kỳ sau(9,10). Khi dự trữ sắt trong cơ thể người mẹ giảm sẽ đưa đến tình trạng giảm sắt trong thai nhi, thậm chí tình trạng thiếu sắt này kéo dài trong năm đầu tiên của trẻ(11). Trong những thập kỉ gần đây, việc cải thiện chế độ dinh dưỡng, sử dụng sữa có bổ sung sắt, sử dụng viên sắt dự phòng đã phần nào giảm tần suất thiếu máu thiếu sắt(10,11). Một trong những vấn đề quan trọng là phân biệt TMTS và tình trạng thiếu máu do những nguyên nhân khác như: sốt rét, nhiễm HIV, tình trạng viêm mãn tính, bệnh lí hemoglobin(12). Xét nghiệm máu nếu có nồng độ hemoglobin thấp nhưng nồng độ ferritin bình thường sẽ loại trừ được những trường hợp này. Nồng độ ferritin huyết thanh là chỉ số đặc trưng sử dụng để đánh giá tình trạng dự trữ sắt của cơ thể(13,14). Nồng độ hemoglobin (hay nồng độ hematocrit) không đủ để đánh giá tình trạng thiếu sắt ở thai phụ bởi vì có rất nhiều trường hợp thai phụ chỉ mới thiếu sắt chưa biểu hiện thiếu máu. Nghiên cứu này thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá tỷ lệ thiếu máu, TMTS trong thai kỳ dựa vào nồng độ hemoglobin và ferritin huyết thanh. Và tìm những yếu tố liên quan đến tình trạng TMTS ở những thai phụ đến khám thai tại bệnh viện Đại học Y Dược ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện Đại học Y Dược từ tháng 10/2006 đến tháng 3/2007 Trong nghiên cứu này, 302 thai phụ có tuổi thai từ 12-24 tuần (tính theo siêu âm hoặc kinh chót) sẽ được phỏng vấn và nhận vào nghiên cứu nếu không có những yếu tố loại trừ. Những thai phụ có bệnh gan, tim mạch, ung thư hoặc đang trong tình trạng nhiễm trùng sẽ không được nhận vào nghiên cứu. Tất cả thai phụ sẽ được rút 2ml máu để xét nghiệm nồng độ hemoglobin và định lượng nồng độ ferritin huyết thanh tại phòng xét nghiệm bệnh viện Đại học Y Dược. Chúng tôi sẽ thu thập những thông tin về tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, chế độ ăn khi mang thai (ăn nhiều hơn, ít hơn hay bình thường), thói quen ăn uống (thói quen sử dụng trà, cà phê, thuốc lá, rượu-bia, thuốc lá), việc sử dụng sữa có bổ sung sắt, việc được bổ sung viên sắt dự phòng khi khám thai, số con hiện có, số lần bỏ thai và biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 3 Phân tích số liệu Số liệu được quản lí và phân tích trên phần mềm SPSS 15. Sử dụng phép kiểm χ2 để kiểm định yếu tố liên quan. KẾT QUẢ Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi: Tuổi mang thai trung bình của thai phụ là 27,91 ± 5,13 tuổi (18 tuổi – 40 tuổi). Đa số thai phụ có trình độ học vấn cấp 2 – 3, chiếm 92,4%; tốt nghiệp đại học và sau đại học (ĐH – SĐH) chiếm 7,6% và không có thai phụ nào có trình độ cấp 1 hoặc mù chữ. Tương ứng với trình độ học vấn, số thai phụ làm nhân viên văn phòng (NVVP) chiếm tỷ lệ cao nhất trong mẫu nghiên cứu 47,3%, tiếp theo là nội trợ (37,5%) và những nghành nghề khác (buôn bán, công nhân) chiếm 15,2%. Vì đặc thù của bệnh viện Đại học Y Dược là bệnh viện bán công nên không có thai phụ nào đến khám thai có kinh tế nghèo, đa số có tình trạng kinh tế đủ ăn và khá, chiếm tỷ lệ lần lượt là 57,6% và 42,4%. Bảng 1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu Đặc điểm Số thai phụ Tỷ lệ (%) 0 lần 136 45,1 1 lần 105 34,9 2 -3 lần 61 20 Số lần bỏ thai > 3 lần 0 0 Chưa có con 166 54,9 Có 1 con 75 25 Có 2 con 30 9,9 Số con hiện có Có /3 con 31 10,2 Đặt vòng 23 7,6 Thuốc 15 4,9 Bao cao su 68 22,9 Khác 128 42,7 Biện pháp KHHGĐ Không ngừa 68 22,4 Nhiều hơn 53 17,4 Bình thường 123 42,4 Tình trạng ăn uống Ít hơn 121 40,2 Trà 61 20,1 Cà phê 52 17,4 Thuốc lá 0 0 Rượu, bia 22 7,6 Thói quen ăn uống Không 167 54,9 Đặc điểm Số thai phụ Tỷ lệ (%) Có 219 72,4 Sử dụng viên sắt Không 83 27,6 Có 257 84,9 Sử dụng sữa bổ sung sắt không 45 15,1 Dựa trên bảng 1, chúng tôi nhận thấy: Chỉ có 4,9% thai phụ nghén nhiều trong thai kỳ, đa số thai phụ nghén ít, chiếm 59,9% và 35,2% cảm thấy bình thường như lúc không mang thai. Số liệu thống kê trong mẫu 302 thai phụ, tỷ lệ thai phụ ăn bình thường và ăn ít hơn khi mang thai tương đương nhau, chiếm 42,4% và 40,2% và chỉ có 17,4% thai phụ ăn nhiều hơn so với lúc không mang thai. Có 257 thai phụ sử dụng sữa bổ sung sắt trong thai kỳ, chiếm tỷ lệ 84,9% và chỉ có 45 thai phụ không sử dụng sữa, chiếm tỷ lệ 15,1%. Hầu hết thai phụ đều có bổ sung viên sắt khi mang thai, chiếm tỷ lệ 72,4%. Nhóm nghiên cứu ghi nhận đa số thai phụ không có thói quen sử dụng trà, cà phê, thuốc lá và rượu bia, chiếm tỷ lệ 54,9%. Đa số thai phụ trong nghiên cứu sanh lần đầu chiếm 54,9%; sanh lần 2, lần 3 và lần 4 lần lượt chiếm tỷ lệ 25%, 9,9% và 10,2% Chúng tôi ghi nhận trên 302 thai phụ tham gia nghiên cứu: có 45,1% thai phụ chưa bỏ thai lần nào; 34,9% bỏ thai 1 lần, 20% bỏ thai 2-3 lần và không có thai phụ nào bỏ thai trên 3 lần Tỷ lệ thai phụ thiếu máu và TMTS trong thai kỳ Trong tổng số 302 thai phụ, có 61 thai phụ bị thiếu máu (Hb < 11 g/dl) chiếm tỷ lệ 20,19% và 241 thai phụ có mức hemoglobin bình thường, chiếm tỷ lệ 79,81% trên tổng số mẫu nghiên cứu. Bảng 2: Phân bố mức độ thiếu máu của thai phụ (theo tiêu chuẩn của WHO) Mức độ thiếu máu Số thai phụ Tỷ lệ (%) Nhẹ (Hb từ 10 – 10,9 g/dl) 38 62,3 Trung bình (Hb từ 7- 9,9 g/dl) 23 37,7 Nặng (Hb từ 4 – 6,9 g/dl) 0 0 Rất nặng (Hb < 4 g/dl) 0 0 Tổng 61 100 Trong tổng số 61 thai phụ bị thiếu máu có 38 thai phụ thiếu máu nhẹ (chiếm 62,3%) và 23 thai Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 4 phụ thiếu máu trung bình (chiếm 37,7%); không có thai phụ nào thiếu máu nặng hoặc rất nặng Căn cứ xét nghiệm nồng độ hemoglobin và ferritin huyết thanh, tỷ lệ thai phụ bị thiếu máu thiếu sắt (khi nồng độ hemoglobin < 11 g/dl và nồng độ ferritin huyết thanh < 12 ng/ml) là 17,21%, chiếm 85,25% trong tổng số thai phụ bị thiếu máu. Mối liên quan giữa TMTS trong thai kỳ và một số yếu tố nguy cơ Về trình độ học vấn Không có thai phụ học vấn dưới cấp 1. Trong nhóm thai phụ trình độ học vấn đại học – sau đại học chỉ có 1 thai phụ bị TMTS (chiếm 4,3%), nhóm thai phụ còn lại có 52 người bị TMTS (chiếm 18,5%). Mối liên quan này không có ý nghĩa thống kê với p = 0,889. Về nghề nghiệp Nhóm nghề nội trợ chiếm tỷ lệ cao nhất và có 20,8% thai phụ bị TMTS, trong những người làm việc văn phòng có 19,3% bị TMTS và ở những thai phụ làm nghề khác (công nhân, buôn bán) tỷ lệ TMTS là 2,2%. Mối quan hệ này không có ý nghĩa thống kê với p =0,211 Về kinh tế Trong 302 mẫu nghiên cứu của chúng tôi không có thai phụ có kinh tế nghèo, trong nhóm thai phụ có kinh tế đủ ăn tỷ lệ TMTS chiếm 21,7% và trong nhóm thai phụ kinh tế khá tỷ lệ TMTS chỉ chiếm 10,9%. Với phép kiểm χ2 chúng tôi nhận thấy giữa TMTS thai kỳ và tình trạng kinh tế không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê p=0,763 Về chế độ ăn Những thai phụ có chế độ ăn nhiều hơn khi mang thai có tỷ lệ TMTS là 1,9%, nhóm thai phụ ăn bình thường so với lúc không mang thai có TMTS là 12,9% và nhóm thai phụ ăn ít hơn khi có thai tỷ lệ TMTS là 31,1%. Với phép kiểm χ2 chúng tôi nhận thấy chế độ ăn lúc mang thai và TMTS không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê, p = 0,667. Về thói quen ăn uống Chúng tôi nhận thấy không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng TMTS trong thai kỳ, p = 0,231. Biện pháp ngừa thai và TMTS trong thai kỳ Cũng không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê, p = 0,118. Bảng 3. Liên quan giữa TMTS trong thai kỳ và một số yếu tố nguy cơ Thiếu máu thiếu sắt Yếu tố nguy cơ Có Không Giá trị P Có 15 (6,8%) 204 (93,2%) Sử dụng viên sắt Không 36 (44%) 47 (56%) 0,041 Có 30 (11,6%) 227 (88,4%) Sử dụng sữa bổ sung sắt Không 21 (47,8%) 24 (52,2%) 0,023 Không 1 (0,7%) 135 (99,3%) 1 lần 22 (22,8%) 83 (77,2%) Số lần bỏ thai 2-3 lần 30 (49,2%) 31 (51,8%) 0,007 0 con 15 (9%) 151(91%) 0,011 1 con 14 (18,7%) 61 (81,3%) 2 con 1 (3,3%) 30 (96,7%) Số con hiện có 3 con 22 (74,2%) 8 (25,8%) Nghiên cứu trên 302 thai phụ chúng tôi nhận thấy đa số phụ nữ mang thai được bổ sung viên sắt trong thai kỳ. Trong nhóm có sử dụng viên sắt số thai phụ TMTS chiếm tỷ lệ 6,8%, trong khi ở nhóm không được bổ sung viên sắt tỷ lệ TMTS là 44%. Qua phép kiểm χ2, nhóm nghiên ghi nhận mối liên quan giữa TMTS và vấn đề bổ sung sắt trong thai kỳ có mối liên quan có ý nghĩa thống kê, với p = 0,04 Về vấn đề sử dụng sữa có bổ sung sắt trong thai kỳ, chúng tôi nhận thấy trong nhóm thai phụ có sử dụng sữa có bổ sung sắt có tỷ lệ TMTS là 11,6% và nhóm không sử dụng sữa bổ sung sắt có tỷ lệ TMTS là 47,8%. Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê, p = 0,023 Qua khai thác tiền căn sản khoa chúng tôi nhận thấy những thai phụ chưa bỏ thai lần nào chỉ có 0,7% bị TMTS thai kỳ, và những thai phụ bỏ thai 1 lần, 2-3 lần bị TMTS thai kỳ chiếm tỷ lệ lần lượt là 20,8% và 49,2%. Mối liên quan này có ý nghĩa thống kê (p=0,007). Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 5 Ở những thai phụ chưa có con, tỷ lệ TMTS chiếm khoảng 9% và tỷ lệ này tăng lên cùng với số con hiện có (thai phụ có 3 con, tỷ lệ TMTS chiếm 74,2%). Qua phép kiểm χ2 chúng tôi nhận thấy mối liên quan giữa TMTS và số con hiện có của thai phụ có ý nghĩa thống kê, với p = 0,011. BÀN LUẬN Tỷ lệ thiếu máu và TMTS ở phụ nữ mang thai Từ 302 thai phụ tham gia nghiên cứu được phân tích, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh là 20,19%, tỷ lệ TMTS là 17,21%. Những kết quả nghiên cứu trong trước đây cho thấy: - Tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai theo công bố của Viện bảo vệ sức khoẻ Bà mẹ – Trẻ em và trường Đại học Y Khoa Hà Nội vào năm 1994 là 40,4% trên toàn mẫu nghiên cứu(1). Năm 1996, Viện Dinh Dưỡng quốc gia thống kê trên 53 tỉnh thành trong cả nước ghi nhận tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ tại Việt Nam là 52,3%(3). Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu của Đặng Thị Hà thực hiện trên 2.084 phụ nữ mang thai trên 22 quận nội, ngoại thành ghi nhận tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai là 38,1% và tỷ lệ TMTS là 31,53%(2). So sánh với các tác giả trong nước, tỷ lệ thiếu máu, TMTS ở phụ nữ mang thai theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nhiều(1-3). Điều này là do nghiên cứu của chúng tôi thực hiện tại một bệnh viện, mà đặc thù của dân số nghiên cứu ở đây đa số là có kinh tế đủ ăn và khá giả. Thai phụ đến khám thai hầu hết đều ý thức được vấn đề quan trọng của việc khám và theo dõi sức khỏe bà mẹ và bé. Trong khi đó, những nghiên cứu của các tác giả khác được thực hiện tại cộng đồng, đặc biệt là nghiên cứu của Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia, khảo sát đến tận các vùng nông thôn sâu, nơi điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, ý thức về chăm sóc sức khỏe y tế và chăm sóc thai kỳ của người dân còn nhiều hạn chế, vì vậy tỷ lệ thiếu máu, TMTS trong các nghiên cứu rất cao. So sánh với nghiên cứu của các tác giả nước ngoài thì tỷ lệ thiếu máu thai kỳ của chúng tôi nằm trong giới hạn thay đổi chung của các nước đang phát triển, từ 25-35%(18). Nhưng tỷ lệ này cao rất nhiều so với những nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ thiếu máu thai kỳ ở các nứơc này chỉ từ 5-8%. Và thấp hơn tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ các nước thuộc thế giới thứ 3(18). Nghiên cứu tại Mexico năm 1995 cho thấy thiếu máu gặp nhiều ở thai phụ với tỷ lệ là 18,17%(12). Quan sát trên 3.591 phụ nữ mang thai của 15 tỉnh, Lao QK ghi nhận tỷ lệ thiếu máu vào năm 2004 của thai phụ Trung Quốc là 19,1%(15). Tại Ấn Độ, nghiên cứu trên 15 quận cho thấy tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai là 84,9%, trong đó tỷ lệ thiếu máu nặng (hemoglobin < 70 g/dl) chiếm đến 13,1%(17). Nghiên cứu tại Malaysia năm 2005 ghi nhận tỷ lệ thiếu máu trên 52 thai phụ tham gia nghiên cứu là 34,6%(5). Tỷ lệ thiếu máu thai kỳ trong nghiên cứu của chúng tôi là 20,19%, có nhiều khác biệt so với nghiên cứu của các tác giả nước ngoài. Sự khác biệt này là do cách chọn mẫu khác nhau, điều kiện chăm sóc y tế và chăm sóc tiền thai ở mỗi quốc gia có sự khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ của các nghiên cứu trên (cả Việt nam và nước ngoài) đều nằm trong tỷ lệ thiếu máu chung ở những nước đang phát triển theo thống kê trên toàn thế giới(5-12),(15-17). Riêng tỷ lệ thiếu máu ở phụ nữ mang thai tại Ấn Độ cao gấp nhiều lần so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi; điều này có thể do tác giả lựa chọn đối tượng nghiên cứu và chọn mẫu nghiên cứu có sự khác biệt. Trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi không có trường hợp nào thai phụ đến khám thai trong tình trạng thiếu máu nặng, chủ yếu là thiếu máu nhẹ và trung bình, trong khi đó nghiên cứu ở Ấn Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 6 Độ vẫn có tỷ lệ thai phụ bị thiếu máu nặng trong thai kỳ(17). Trong số những thai phụ thiếu máu trong nghiên cứu của chúng tôi, chiếm đa số là thiếu máu ở mức độ nhẹ (Hb từ 10-10,9 g/dl), một số nhỏ thiếu máu ở mức độ trung bình (Hb từ 7-9,9 g/d) và không có thai phụ nào thiếu máu ở mức độ nặng (Hb từ 4-6,9 g/dl) và rất nặng (Hb < 4 g/dl). Nghiên cứu của Đặng Thị Hà trên 22 quận nội, ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh ăm 2000 cho thấy tỷ lệ TMTS chiếm 82,64% tổng số thai phụ thiếu máu và chiếm 31,53% trên toàn mẫu nghiên cứu(2). So với tổng số thai phụ bị thiếu máu, tỷ lệ thai phụ bị TMTS trong nghiên cứu của chúng tôi chiếm 85,25%, kết quả này tương đương với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác trong cả nước. Điều này cho thấy thiếu máu trong thai kỳ ở Việt Nam chủ yếu là do thiếu dinh dưỡng và trong đó do thiếu sắt chiếm đa số. Những kết quả nghiên cứu ở các nước khác trên thế giới cũng cho chúng tôi thấy nguyên nhân gây thiếu máu ở phụ nữ mang thai chủ yếu là TMTS. Tại Malaysia, Hassan và cộng sự tìm thấy tỷ lệ TMTS trên tòan bộ mẫu nghiên cứu là 21,2%, và riêng trên những thai phụ có thiếu máu thì nguyên nhân gây thiếu máu trong thai kỳ chủ yếu là TMTS, chiếm tỷ lệ 61,1%(5). Thống kê từ nghiên cứu của Liao QK trên 3.591 thai phụ Trung Quốc cho thấy tỷ lệ TMTS ở phụ nữ mang thai là 19,1%(17). Tỷ lệ TMTS trong thai kỳ trên nghiên cứu của chúng tôi chiếm tỷ lệ 17,21%, tỷ lệ này tương đương với tỷ lệ TMTS thai kỳ ở những nước đang phát triển khác trên thế giới. Tuy nhiên vẫn có một số khác biệt so với nghiên cứu của các tác giả trong cùng khu vực, điều này có thể giải thích do có sự khác nhau về cách chọn đối tượng nghiên cứu, cỡ mẫu và do có sự khác nhau về tập quán sinh hoạt, chế độ ăn uống, các dịch vụ chăm sóc y tế. Nguyên nhân thiếu máu thai kỳ trong nghiên cứu của chúng tôi và nghiên cứu của các tác giả trên thế giới chủ yếu là do TMTS (chiếm tỷ lệ từ 50,72 đến 85,25%). Các yếu tố liên quan đến TMTS trong thai kỳ Trong 302 mẫu nghiên cứu, với phép kiểm ξ2 chúng tôi nhận thấy trình độ học vấn và TMTS trong thai kỳ không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p=0,889); kết quả này giống với kết quả của Đặng Thị Hà(2). Đặc thù nghề nghiệp sẽ chịu ảnh hưởng của tình trạng học vấn. Trong mẫu nghiên cứu 302 thai phụ của chúng tôi, đa số thai phụ là nhân viên văn phòng (chiếm 47,3%), tiếp theo là nội trợ (chiếm 37,5%) và những nghề khác (buôn bán, công nhân) chiếm tỷ lệ thấp nhất 15,2%. Kiểm định χ2 cho chúng tôi kết quả không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng TMTS và nghề nghiệp, p = 0,211. Theo y văn, tình trạng kinh tế thấp sẽ dẫn đến việc bổ sung chất đạm cho bữa ăn không đảm bảo đủ nhu cầu của cơ thể, từ đó nguy cơ TMTS sẽ tăng lên. Qua phép kiểm χ2, với p = 0,763 chứng tỏ mối liên quan giữa TMTS trong thai kỳ và tình trạng kinh tế trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này khác biệt với kết quả nghiên cứu của Đặng Thị Hà thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2000. Sự khác biệt này là do trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi chỉ bao gồm những thai phụ có tình trạng kinh tế trung bình và khá, không có thai phụ nào có tình trạng kinh tế nghèo(2). Khi mang thai, do sự biến đổi sinh lí của cơ thể, thai phụ sẽ thay đổi khẩu vị dẫn đến có sự thay đổi trong chế độ ăn hàng ngày. Tuy nhiên, chế độ dinh dưỡng không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng TMTS thai kỳ. Phép kiểm χ2 cho p = 0,667. Kết quả này có sự khác biệt với nghiên cứu của Đặng Thị Hà trên 2.084 thai phụ tại thành phố Hồ Chí Minh. Theo Đặng Thị Hà trường Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 7 hợp ăn ít hơn bình thường khi có thai sẽ tăng nguy cơ TMTS trong thai kỳ(2). Sự khác nhau này có thể do mẫu nghiên cứu của chúng tôi thực hiện ở bệnh viện và nghiên cứu của Đặng Thị Hà thực hiện trong cộng đồng và cỡ mẫu của tác giả lớn hơn của chúng tôi. Ngoài những chất tăng khả năng hấp thu, sắt cũng bị ức chế hấp thu khi được sử dụng chung với những chất như: trà, cà phê, rượu bia và thuốc Canxi; cơ thể cũng khó hấp thu sắt nếu chế độ ăn quá nhiều chất xơ. Thói quen chung của người Việt Nam là sử dụng nhiều ngũ cốc trong chế độ ăn, lượng phytate trong ngũ cốc cũng làm khả năng hấp thu sắt giảm. Phép kiểm χ2 cho thấy giữa thói quen sử dụng trà, cà phê, rượu – bia và TMTS trong thai kỳ không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê, p = 0,231. Qua phép kiểm χ2 chúng tôi nhận thấy rằng trong khi chế độ ăn nhiều hay ít trong thai kỳ không liên quan đến TMTS thì việc sử dụng sữa bổ sung sắt lại liên quan có ý nghĩa thống kê với TMTS (p = 0,023). Những thai phụ không sử dụng hoặc sử dụng sữa không bổ sung sắt khi mang thai có nguy cơ TMTS trong thai kỳ nhiều hơn so với những thai phụ sử dụng sữa bổ sung sắt thường xuyên trong thai kỳ. Một nghiên cứu thử nghiệm tại vùng nông thôn Việt Nam của P T H(16) cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm sử dụng sữa bổ sung sắt và nhóm sử dụng viên sắt trong việc cải thiện tình trạng thiếu sắt; tuy nhiên, có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ hemoglobin của nhóm sử dụng sữa bổ sung sắt và nhóm chỉ sử dụng sữa không bổ sung sắt (nồng độ hemoglobin lần lượt ở 2 nhóm là 1,2 ± 0,9 g/dl và 1,1 ± 0,8 g/dl, p < 0,01)(16). Phép kiểm χ2 cho thấy giữa việc bổ sung viên sắt và tình trạng TMTS có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p = 0,04). Những thai phụ sử dụng viên sắt ít có nguy cơ bị TMTS hơn những thai phụ không sử dụng viên sắt trong thai kỳ. Nghiên cứu trên 2.084 thai phụ của Đặng Thị Hà tại thành phố Hồ Chí Minh cũng ghi nhận hiệu quả ngừa TMTS thai kỳ của việc bổ sung viên sắt. Những thai phụ không được bổ sung viên sắt có nguy cơ bị TMTS cao hơn những thai phụ có bổ sung viên sắt là 37,86%(2). Qua phép kiểm χ2, chúng tôi nhận thấy rằng giữa biện pháp ngừa thai và tình trạng TMTS trong thai kỳ không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p = 0,118). Phép kiểm χ2 cho thấy tình trạng TMTS và số lần bỏ thai liên quan có ý nghĩa thống kê với nhau (p = 0,007). Bỏ thai càng nhiều lần thì nguy cơ TMTS càng cao. Nếu so sánh với những thai phụ chưa bỏ thai lần nào, những thai phụ có tiền căn bỏ thai 2 – 3 lần có nguy cơ TMTS là 49,2%. Nghiên cứu của Đặng Thị Hà cũng cho kết quả tương tự: thai phụ đã hút nạo thai 2 lần sẽ có nguy cơ TMTS so với thai phụ không hút nạo thai là 56.25%; số lần nạo hút thai từ 3-6 lần thì nguy cơ TMTS tăng lên rõ rệt so với người không hút nạo thai(2). Trong nghiên cứu của chúng tôi, phép kiểm χ2 cho thấy mối liên quan giữa số lần sanh và TMTS có ý nghĩa thống kê, p=0,011. Khi sanh con lần thứ 3 trở lên thai phụ sẽ tăng nguy cơ TMTS thai kỳ và tỷ lệ này là 74,2%. Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2000 của Đặng Thị Hà cho thấy phụ nữ có con lần thứ 3 sẽ tăng nguy cơ TMTS 54,17% so với phụ nữ sanh con lần 1; sanh lần 4-7 thì nguy cơ TMTS tăng đến 75,40%(2). KẾT LUẬN Qua khảo sát trên 302 thai phụ tại bệnh viện Đại học Y Dược chúng tôi ghi nhận kết quả: - Tỷ lệ thiếu máu trong thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược là 20,19%. Trong đó: +Tỷ lệ thiếu máu nhẹ (nồng độ hemoglobin từ 10 – 10,9 g/d) chiếm 62,3%. +Tỷ lệ thiếu máu trung bình (nồng độ hemoglobin từ 7 – 9,9 g/dl) chiếm 37,7%. + Không có thai phụ nào đến khám thai trong tình trạng thiếu máu nặng hoặc rất nặng. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 8 - Tỷ lệ TMTS trong thai kỳ tại bệnh viện Đại học Y Dược là 17,21%. TMTS chiếm 85,25% trong tổng số thai phụ bị thiếu máu. - Tình trạng thiếu máu thiếu sắt trong thai kỳ liên quan đến các yếu tố như: + Số con hiện có: những thai phụ sanh nhiều lần sẽ tăng nguy cơ TMTS. Trong nghiên cứu của chúng tôi những thai phụ có con lần thứ 3 tỷ lệ TMTS thai kỳ là 74,2% so với những thai phụ mới có con lần đầu tỷ lệ TMTS là 9%. +Số lần bỏ thai: bỏ thai nhiều lần sẽ làm tăng nguy cơ TMTS trong thai kỳ. Tỷ lệ TMTS tăng dần theo số lần bỏ thai: bỏ thai 1 lần tỷ lệ TMTS là 0,7%, bỏ thai 2 – 3 lần là 20,8%, bỏ thai 3 lần là 49,2 %. + Việc sử dụng sữa có bổ sung sắt trong thai kỳ với liều lượng khoảng 200 ml/ngày góp phần làm giảm nguy cơ TMTS trong thai kỳ. Những thai phụ có sử dụng sữa có bổ sung sắt tỷ lệ TMTS là 11,6%, và những thai phụ không sử dụng hoặc sử dụng sữa không có bổ sung sắt tỷ lệ TMTS là 47,8%. + Việc bổ sung viên sắt trong thai kỳ làm giảm nguy cơ TMTS trong thai kỳ ở phụ nữ mang thai đến khám thai tại bệnh viện Đại học Y Dược. Trên nhóm nghiên cứu chúng tôi nhận thấy: những thai phụ có sử dụng viên sắt trong thai kỳ tỷ lệ TMTS là: 6,8% và những thai phụ không uống viên sắt có tỷ lệ TMTS là 44%. ĐỀ XUẤT Từ những kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi đã đưa ra một số đề xuất như sau. -Nên xét nghiệm định lượng hemoglobin thường qui khi thai phụ đến khám thai lần đầu để đánh giá tình trạng thiếu máu trong thai kỳ. -Nên định lượng ferritin huyết thanh thường qui trong thai kỳ để đánh giá đầy đủ tình trạng thiếu sắt, TMTS của thai phụ. -Tăng cường hướng dẫn biện pháp ngừa thai an toàn để giảm tình trạng bỏ thai, giảm tình trạng đa sản. -Khuyến khích thai phụ sử dụng sữa có bổ sung sắt trong thai kỳ để giảm nguy cơ TMTS. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Alper BS, Kimber R, Reddy AK (2000). Using ferritin level to determine iron deficiency anemia in pregnancy. J Fam Pract; 49(9): 829-32 2 Bộ Y tế, Viện BVSKBMTE/KHHGĐ (1994), Báo cáo về tần suất thiếu máu ở Việt Nam, Hà Nội 3 Byg KE, Milman N, Hansen S, Agger AO (2000). Serum ferritin is a Reliable. Non-invasive test for iron status in Pregnancy: Comparison of ferritin with other iron status markers in a longitudinal study on healthy pregnant women. Hemotol; 5(4): 319-325 4 Đặng Thị Hà (2000), Tầm soát thiếu máu thiếu sắt trong thai kì tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ Y học. 5 Doyle W, Srivastava A, Crawford MA et aj (2001). Inter- pregnancy folate and iron status of women in an inner-city population. Br J nutr; 86(1): 81-7 6 Godfrey KM, Redman CWG, Barker DJP, Osmond C. (1991). The effect of maternal anemia and iron deficiency on the ratio of fetal weight to placenta weigh. British Journal of Obstetrics and Gynecology; 98:886-91 7 Haram k, Nilsen ST, Ulvik RJ (2001). Iron supplementation in pregnancy-evidence and controversies. Acta Obstet Gynecol Scand; 80(8): 683-8 8 Hassan R, Ab dullah WZ (2005), “Anemia and iron status of Malay women attending an antenatal clinic in Kubang kerian, Kelantan, Malaysia”. Southeast Asian J Trop Med Public Health;36(5):1304-1307 9 Liao QK (2004),” Prevalence of iron deficiency in pregnant and premenopause women in China: a nationwide epidemiological survey”. Zonghua Xue Ye Za Zhi; 25(11):653-657 10 Mashako L, Preziosi P, Nsibu C et al (1991)” Iron and folate status in Zairian mother and their newborns”. Ann Nutr Metab, 1991; 35(6): 309-14. 11 Msolla M. J., Kinabo J. L., (1997), “Prevalence of anemia in pregnant women during the last trimester”, Int. J. Food. Sci. Nutr., 4894), pp. 265-70. 12 P TH, Nguyen CK, van Beusekom C (2005),” Milk fortified with iron or iron supplementation to improve nutrition status of Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 9 pregnant women: an intervention trial from rural Vietnam”. Food Nutr Bull; 26(1): 32-8. 13 Russia U, Madan N, Agarwal N, Sikka M, Sood S.(1995). “Effect of maternal iron deficiency anemia on foetal outcome”. Indian J Pathol Microbiol; 38:273-9. 14 Scholl T.O., Hediger M.L., Fischer R.L., Qheare J.W. (1992), “Anemia iron deficiency: increase risk of preterm delivery in a prospective study”, Am J Clin. Nutr., 55(5), pp. 985-8. 15 Toteja GS, Singh P. (2006). “Prevalence of anemia among pregnant women and aldolescent girls in 16 districts of India”. Food Nutr Bull; 27(4): 311-5. 16 Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia (1996), Báo cáo về tần suất thiếu máu ở Việt Nam, Hà Nội, tr.7-9. 17 United Nations Administrative Committee on Coordination, Sub-committee on Nutrition (ACC/SCN)(2000) Fourth report on the World Nutrition Situation: Nutrition throughout the life Cycle. Geneva: ACC/SCN in collaboration with International Food Policy Research Institude. 18 United National Administrative Committee on Coordination/ Subcommitee on Nutrition.” Controlling iron deficiency”. Geneva World Health Organization, 1991. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 10 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học Sản Phụ Khoa 11

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfkhao_sat_tinh_trang_thieu_mau_thieu_sat_trong_3_thang_giua_t.pdf
Tài liệu liên quan